Ngộ độc thực phẩm: Nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị theo BMJ

Xuất bản: UTC +7

Cập nhật lần cuối: UTC +7

Nhà thuốc Ngọc Anh – Để tải bài viết Ngộ độc thực phẩm: Nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị theo BMJ file PDF xin vui lòng click vào link ở đây.

Tóm tắt

  • Thường nhẹ, tự khỏi và cải thiện khi thực hiện biện pháp điều trị giảm nhẹ triệu chứng không cụ thể.
  • Hầu hết bệnh nhân có các triệu chứng đường tiêu hóa như đau hay co thắt bụng, buồn nôn và nôn mửa, và/hoặc tiêu chảy.
  • Bệnh do thực phẩm bùng phát ở một nhóm ít nhất hai người có cùng triệu chứng sau khi ăn phải cùng đồ ăn hay đồ uống bị nhiễm bẩn.
  • Một số bệnh và tình trạng bệnh do thực phẩm phải được khai báo ở cấp quốc gia.

Thông tin cơ bản

Định nghĩa

Ngộ độc thực phẩm là tình trạng bệnh do ăn phải thức ăn hoặc nước uống nhiễm vi khuẩn và/hoặc độc tố mà chúng sinh ra, vi-rút, ký sinh trùng hay hóa chất. Sự nhiễm thường phát sinh từ việc thao tác, chế biến hay bảo quản thức ăn hay đồ uống không đúng cách.[1]

Dịch tễ học

Ở Anh Quốc, theo một báo cáo của Cơ quan Tiêu chuẩn Thực phẩm, có 500.000 ca ngộ độc thực phẩm mỗi năm, trong đó Campylobacter chiếm tới 280.000 ca, các loại Clostridium perfringen chiếm 80.000 ca, và Norovirus chiếm 74.000 ca. Ước tính có 10 triệu ca bệnh nhiễm khuẩn đường ruột không được chẩn đoán.[3] [4]

Tỷ lệ mắc mới bệnh do thực phẩm hàng năm tại Hoa Kỳ theo ước tính là 1 phần 4. Các ước tính khác cho thấy rằng mỗi người tại Hoa Kỳ bị mắc bệnh do thực phẩm 3 đến 4 năm một lần.

Một nghiên cứu từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Dịch bệnh Hoa Kỳ ước tính rằng các bệnh do thực phẩm gây ra xấp xỉ 179 triệu ca ốm, 487.000 ca nhập viện và 6200 ca tử vong ở Mỹ mỗi năm. Các mầm bệnh được nhận biết gây ra tới gần 9,4 triệu ca bệnh, 56.000 ca nhập viện và 1300 ca tử vong.[5] [6]Salmonella, Listeria và Toxoplasma là những vi sinh vật gây ra 1000 ca tử vong. Các mầm bệnh chưa được nhận biết gây ra tới gần 141 triệu ca bệnh, 258.000 ca nhập viện và 3500 ca tử vong. Nhìn chung, bệnh do thực phẩm có vẻ như gây ra nhiều ca bệnh hơn và ít ca tử vong hơn ước tính trước đây.[7] [8] [9]

Các nguyên nhân phổ biến nhất gây ra chứng kiết lỵ cấp tính trên toàn cầu vẫn là Shigella, Salmonella và Campylobacter, tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những nguyên nhân phổ biến khác, bao gồm khuẩn Escherichia coli sản sinh độc tố Shiga (STEC) ở các nước phát triển và Entamoeba histolytica ở các nước đang phát triển.[10] Cũng phải kể đến yếu tố thay đổi theo mùa ở vùng khí hậu ôn đới liên quan tới một thời điểm thường hay nhiễm phải Campylobacter, salmonellosis và khuẩn E coli sản sinh verocytotoxin (VTEC); tất cả những loại vi khuẩn này đều có cao điểm nhiễm vào mùa hè. Bệnh nhiễm khuẩn cryptosporidium đạt đỉnh vào hai mùa xuân và hè và tỷ lệ mắc bệnh có sự khác biệt rõ ràng theo thời gian. Bệnh nhiễm khuẩn giardias có mức tăng tương đối nhỏ vào mùa hè và là bệnh có tỷ lệ mắc ít dao động nhất.[11]

Bệnh sán lá lưu hành ở nhiều vùng trên thế giới với ước tính có 56 triệu người nhiễm vào năm 2005, chủ yếu là ở châu Á và Mỹ La-tinh.[2] Trước tình trạng nuôi trồng thủy sản trong đất liền, du lịch và giao thương thực phẩm ngày càng tăng, tỷ lệ hiện mắc của bệnh này ngày càng tăng.

Bệnh căn học

Căn nguyên là do ăn phải thức ăn hoặc uống nước nhiễm vi khuẩn và/hoặc độc tố mà chúng sinh ra, vi-rút, ký sinh trùng hay hóa chất. Bệnh nhân thường bị nhiễm do xử lý, chế biến hay bảo quản thức ăn hay đồ uống không đúng cách.

Sinh lý bệnh học

Tiêu chảy xảy ra do tác động của các độc tố trong ruột (có sẵn từ trước khi ăn hoặc sản sinh sau khi ăn) lên cơ chế tiết nhầy của niêm mạc ruột non, không có tính xâm lấn (không viêm), hoặc ruột già, có tính xâm lấn và gây tổn hại (viêm).

Ở một số loại ngộ độc thực phẩm (ví dụ: staphylococci, Bacillus cereus), nôn là triệu chứng xảy ra do độc tố tác động lên hệ thần kinh trung ương.

Hội chứng lâm sàng của bệnh ngộ độc thịt xảy ra do độc tố botulinum ức chế tiết acetylcholine ở mút thần kinh.

Các cơ chế sinh lý bệnh học dẫn đến các triệu chứng đường tiêu hóa cấp tính phát sinh từ một số nguyên nhân ngộ độc thực phẩm không do nhiễm khuẩn (các chất có sẵn trong tự nhiên như nấm, nấm cóc và các loại kim loại nặng như asen, thủy ngân và chì) vẫn chưa được biết rõ.[1] [12] [13] [14] [15]

Phân loại

Các tác nhân sinh học và phi sinh học[1]

  • Vi khuẩn:
  • Bacillus: B anthracis; B cereus (độc tố ruột và độc tố gây tiêu chảy đã hình thành trước); B abortus; B melitensis; B suis
  • Campylobacter jejuni
  • Clostridium: C botulinum, C perfringens
  • Các chủng Escherichia coli phụ như loại gây xuất huyết đường ruột (EHEC), loại xâm nhập đường ruột (EIEC), loại bám dính vào niêm mạc đường ruột (EAEC), loại sinh độc tố ruột (ETEC), loại gây bệnh đường ruột (EPEC)
  • Listeria monocytogenes
  • Các loài Salmonella
  • Các loài Shigella, bao gồm độc tố Shiga và các loại protein bất hoạt ribosome như Shiga
  • Staphylococcus aureus, bao gồm độc tố ruột do tụ cầu khuẩn
  • Vibrio: V cholerae, V parahaemolyticus; V vulnificus
  • Yersinia: Y enterocolitica, Y pseudotuberculosis.
  • Do vi-rút:
  • Viêm gan A và E
  • Norovirus và các loại calicivirus khác
  • Rotavirus
  • Các loại khác: astrovirus, adenovirus, parvovirus.
  • Do ký sinh trùng:
  • Angiostrongylus cantonensis
  • Cryptosporidium
  • Cyclospora cayetanensis
  • Cystoisospora
  • ntamoeba histolytica
  • Giardia lamblia
  • Toxoplasma
  • Trichinella
  • Trematoda (sán lá gan).
  • Không lây nhiễm:
  • Antimon
  • Asen
  • Cadmium
  • Ngộ độc cá do ciguatera (độc tố ciguatera)
  • Đồng
  • Thủy ngân
  • Độc tố nấm (tác động ngắn và lâu dài)
  • Ngộ độc nitrit
  • Thuốc trừ sâu (photphat hữu cơ hoặc cabamat)
  • Cá nóc (tetrodotoxin)
  • Scombroid (histamine)
  • Độc tố sò hến
  • Florua natri
  • Tali
  • Thiếc
  • Kẽm.

Thời gian ủ bệnh[1]

  • Giờ: độc tố có sẵn (S aureus, B cereus, C perfringens) và độc tố không lây nhiễm; Salmonella (tối đa 72 giờ)
  • Ngày: hầu hết các loại vi-rút (ngoại trừ Viêm gan A và E), Campylobacter, Shigella, ký sinh trùng
  • Vài tuần: Viêm gan A và E, phơi nhiễm mạn tính với kim loại nặng.

Thời gian ốm[1]

  • Tự khỏi/ngày: hầu hết các loại bệnh do thực phẩm
  • Từ vài tuần đến vài tháng: ký sinh trùng.

Các loại thực phẩm liên quan[1]

  • Đồ ăn nấu chưa kỹ, chưa nấu hoặc sống: đặc biệt là thịt (hamburger và thịt nướng), gia cầm, sữa và pho mát tươi chưa tiệt trùng, động vật có vỏ (hàu) và cá
  • Bảo quản không đúng cách: thực phẩm đông lạnh hoặc đóng hộp không đúng cách và thực phẩm đóng hộp tại nhà
  • Nước hoặc thức ăn nhiễm phân
  • Sản phẩm tươi sống
  • Nấm
  • Hải sản nhiễm độc tố (thủy ngân, catmi, histamine).

Bệnh do thực phẩm cần khai báo[1]

  • Vi khuẩn: bệnh than, bệnh ngộ độc thịt, bệnh brucella, bệnh dịch tả, nhiễm khuẩn E coli (sản sinh độc tố Shiga) gây xuất huyết đường ruột, hội chứng huyết tán tăng urê máu, bệnh nhiễm Listeria, bệnh nhiễm Salmonella (ngoại trừ Salmonella typhi), bệnh shigella, sốt thương hàn (nhiễm S typhi và S paratyphi)
  • Vi-rút: Viêm gan A, Viêm gan E
  • Do ký sinh trùng: bệnh nhiễm cryptosporidium, bệnh nhiễm cyclospora, bệnh nhiễm khuẩn giardias, bệnh giun xoắn.

Tiêu chảy[1]

  • Cấp tính: <14 ngày
  • Dai dẳng: >14 ngày
  • Mạn tính: >6 tuần

Phòng ngừa

Ngăn ngừa sơ cấp

Tiếp cận đến nước sạch là một ưu tiên. Ngày càng có nhiều kỹ thuật khác nhau nỗ lực nhằm cải thiện khả năng tiếp cận nước sạch, nhất là ở các cộng đồng vùng sâu, vùng xa nơi có dân số nghèo.[21] [22]

Thông tin phổ biến kiến thức chung về an toàn thực phẩm có sẵn từ nhiều nguồn khác nhau. [CDC: burden of foodborne illness] [Fight Bac! Partnership for Food Safety Education] [US Government Food Safety Information] [Food Standards Agency]

Vệ sinh, chế biến, xử lý và bảo quản thực phẩm đúng cách và hành vi ăn uống phù hợp là các biện pháp phòng ngừa hiệu quả. Đây là điều đặc biệt quan trọng đối với công nhân chế biến thực phẩm. Nước rửa tay gốc cồn là một biện pháp bổ sung hữu ích, nhưng thường không diệt được vi-rút, khi đó ta phải cần tới xà phòng và nước.[23]

Cần chú ý tới ngày hết hạn của các sản phẩm thực phẩm.

Giáo dục người tiêu dùng về các hành vi chế biến và ăn thực phẩm an toàn theo loại thực phẩm:

Hải sản

  • Tránh ăn hải sản tươi sống hoặc chưa nấu chín kỹ
  • Nấu động vật có vỏ cho tới khi vỏ mở ra và thịt chín hẳn; đun cá cho tới khi thịt chuyển màu đục và dễ dàng tróc vảy bằng dĩa
  • Mua động vật có vỏ từ các nguồn được phê duyệt
  • Ngộ độc ciguatera có thể xảy ra nếu không nấu cá đúng cách bởi độc tố này có tính ổn định trước nhiệt.

Thịt, gia cầm và thực phẩm từ sữa

  • Rửa dao, thớt và các bề mặt chế biến thực phẩm bằng nước nóng và xà phòng sau khi tiếp xúc với gia cầm, thịt và hải sản sống
  • Tránh các loại pho mát mềm (ví dụ: Brie, Camembert và queso fresco), cá hun khói lạnh và các món salat lạnh chế biến sẵn
  • Tránh ăn xúc xích và thịt lạnh chưa được hâm nóng lại tới mức tỏa hơi hay 74°C (165°F)
  • Sử dụng pho mát và sữa chua làm từ sữa đã được tiệt trùng
  • Chỉ uống sữa đã được tiệt trùng.

Trứng

  • Tránh ăn các loại thực phẩm chứa trứng sống hoặc chưa nấu chín kỹ
  • Bảo quản trứng trong tủ lạnh
  • Nấu trứng cho tới khi lòng đỏ và lòng trắng chắc hẳn; sử dụng nhiệt kế để đảm bảo thực phẩm chứa trứng được nấu tới 71°C (160°F).

Rau củ quả

  • Tránh ăn rau mầm sống
  • Chỉ uống nước ép trái cây đã được tiệt trùng; tránh các loại nước ép trái cây có nhãn cảnh báo
  • Rửa kỹ trái cây và rau củ tươi dưới vòi nước máy trước khi ăn.

Hầu hết các loại mầm bệnh lây nhiễm được truyền qua đường phân – miệng. Rửa tay thường xuyên và thật kỹ là cách phòng ngừa hiệu quả nhất. Các phương pháp rào chắn hiệu quả khác gồm có găng tay và áo dài. Ở viện dưỡng lão hoặc cơ sở chăm dưỡng lâu dài, việc cách ly người bị ảnh hưởng có thể làm giảm sự lây truyền bệnh, đồng thời sử dụng nước rửa tay gốc cồn sẽ có kết quả tốt hơn trong những cơ sở này.

Người dân ở một số vùng có thể cần giáo dục thêm về an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, thay đổi trong cách thực hành, chẳng hạn như việc bố trí nhà xí ở các trường học tại Kenya, cần phải được hỗ trợ bởi nền giáo dục tốt, nếu không thì nguy cơ mắc bệnh sẽ tăng lên.[24] Người bị suy giảm miễn dịch (ví dụ: bệnh nhân HIV, người được hóa trị liệu chống ung thư và người uống corticosteroid hoặc chất ức chế miễn dịch lâu dài) sẽ dễ bị nhiễm nhiều loại mầm bệnh trong ruột hơn. Họ cũng thường xuyên có nhiều khả năng mắc bệnh có mức độ nghiêm trọng cao hơn và thường đi kèm với các biến chứng hơn những đối tượng khác. Những người như vậy có thể giảm nguy cơ của mình bằng cách tìm hiểu và tuân thủ các thực hành xử lý và chế biến thực phẩm an toàn.

Người mắc chứng rối loạn do lạm dụng rượu bia và người mắc bệnh gan mạn tính (chứng nhiễm sắc tố sắt hoặc xơ gan) bị tăng nguy cơ nhiễm Vibrio vulnificus từ động vật có vỏ sống và nên tránh ăn chúng. Người bị suy giảm khả năng phòng vệ miễn dịch bị tăng nguy cơ nhiễm các loại Listeria monocytogen từ pho mát mềm, thịt chế biến sẵn chưa hâm nóng và sản phẩm từ sữa tươi. Do đó, họ nên tránh những loại thực phẩm này. Phụ nữ mang thai nên tránh thịt chưa nấu chín kỹ bởi nguy cơ bị nhiễm Toxoplasma gondii. Bên cạnh đó, (như tất cả mọi người) họ nên tránh các sản phẩm từ sữa tươi (ví dụ: sữa hoặc pho mát chưa tiệt trùng), pho mát mềm kiểu Pháp và thịt chế biến sẵn chưa hâm nóng, những loại thực phẩm này có nhiều nguy cơ lây nhiễm Listeria monocytogenes; cả hai loại khuẩn vi sinh này đều có thể gây sảy thai.

Với trẻ nhỏ và người già, bệnh do nhiễm khuẩn Salmonella hoặc Escherichia coli có thể gây tổn hại đặc biệt nghiêm trọng, nhưng lại có khả năng phòng ngừa được nếu áp dụng các thực hành an toàn thực phẩm. Một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng bovine lactoferrin không có hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ mắc mới bệnh tiêu chảy ở trẻ em, nhưng lại có hiệu quả trong việc giảm thời gian diễn ra các đợt tiêu chảy và số đợt bị mất nước trung bình/nghiêm trọng.[25]

Vắc-xin có thể có tác dụng phòng ngừa phần nào trong một số trường hợp:[1] [26] [15] [27]

  • Vắc-xin viêm gan A có sẵn và có hiệu quả. Vì vậy, nên dùng vắc-xin này cho những đối tượng có nguy cơ cao, bao gồm các nhân viên chăm sóc sức khỏe và bệnh nhân mắc các tình trạng mạn tính, nhất là bệnh về gan. Vắc-xin cũng thường được khuyến cáo với tất cả trẻ nhỏ từ 12-24 tháng tuổi. Trong trường hợp đi đến vùng lưu hành dịch thì nên nhanh chóng cân nhắc dùng vắc-xin.
  • Các loại vắc-xin hiện sẵn có đối với tình trạng sốt thương hàn ở Mỹ là vắc-xin ngoài đường tiêu hóa Vi capsular polysaccharide và vắc-xin uống Ty21a có vi khuẩn sống đường uống. Do sốt thương hàn ở Mỹ thường do du nhập từ nước ngoài vào (tức là thường mắc phải khi đi nước ngoài), có thể diễn biến nặng và phần lớn đều phòng ngừa được, vắc-xin Vi hoặc Ty21a được khuyến cáo cho những người có khả năng phơi nhiễm đáng kể. Các loại vắc- xin hiện có ở Anh Quốc đều là loại uống, dùng 3 liều cách ngày, bổ sung sau mỗi năm nếu vẫn có nguy cơ mắc phải, và thận trọng khi cùng sử dụng với thuốc trị sốt rét/kháng sinh bởi chúng làm giảm hiệu lực của vắc-xin. Ngoài ra cũng có một loại vắc-xin tiêm trong bắp dùng một liều kèm liều bổ sung tại thời điểm sau 3 năm, và vắc- xin thương hàn/viêm gan A kết hợp.
  • Vắc-xin Tả (CVD 103HgR khô lạnh) đã được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm tại Hoa Kỳ chấp thuận để dùng cho người lớn 18 đến 64 tuổi sẽ di chuyển tới một khu vực đang lây truyền dịch tả.[28] Vắc-xin CVD 103HgR và loại tế bào đã chết (toàn bộ dòng tế bào B) cũng được cấp phép bên ngoài Mỹ và được một số du khách sử dụng
  • Vắc-xin rotavirus là một loại vắc-xin trong chương trình tiêm chủng định kỳ ở Mỹ và hầu hết các quốc gia khác. Xử lý nước thải có tác dụng giảm gánh nặng do vi khuẩn xâm nhập vào đường nước; tuy nhiên, vẫn có một số bằng chứng cho thấy biện pháp này làm tăng tỷ lệ vi khuẩn kháng thuốc trong chất thải.[29]

Khám sàng lọc

Xét nghiệm chẩn đoán phân và phân lập mầm bệnh

Xét nghiệm phân được chỉ định ở những người chế biến thực phẩm và nhân viên y tế tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân khi họ bị tiêu chảy.

Giám sát y tế công cộng đối với một số vi khuẩn ruột yêu cầu định danh mầm bệnh.

Ngăn ngừa thứ cấp

Với những người xử lý thực phẩm hoặc nhân viên y tế có triệu chứng, nên cho họ dừng công việc trực tiếp chế biến thực phẩm và chăm sóc những bệnh nhân có nguy cơ cao.

Bệnh tiêu chảy ở các đối tượng và nhân viên chăm sóc trẻ em cần được kiểm soát cẩn thận bởi khả năng lây nhiễm các mầm bệnh thường gặp từ người sang người là rất cao, ví dụ như khuẩn Escherichia coli sản sinh độc tố Shiga (ví dụ:, O157:H7) và Shigella sonnei. Các phương pháp phòng ngừa và kiểm soát bệnh tiêu chảy tại cơ sở chăm sóc trẻ em bao gồm yêu cầu trẻ bị ốm phải ở nhà, tập trung trẻ đang hồi sức trong trung tâm và giáo dục cộng đồng.[1] [26] [53] [54] Khuyến cáo áp dụng rửa tay có hiệu quả tại cơ sở, bố trí sẵn bồn rửa và có quy định về rửa tay.[55]

Trong trường hợp tiêu chảy ở khách du lịch, quan tâm tới thực phẩm và đồ uống là nền tảng cho việc phòng ngừa, trong khi trị liệu theo kinh nghiệm có hiệu quả nếu xảy ra tiêu chảy. Điều trị dự phòng có thể có tác dụng trong một số trường hợp. Một phân tích tổng hợp đã nhận thấy rằng, so với giả dược, rifaximin có thể phòng ngừa tiêu chảy ở du khách do các mầm bệnh trong ruột không xâm lấn gây ra.[56] Các loại vắc-xin có thể có tác dụng nhưng chưa sẵn có trên thị trường.[57]

Chẩn đoán

Tiền sử ca bệnh

Tiền sử ca bệnh #1

Một phụ nữ 37 tuổi đến khoa tai nạn và cấp cứu với tiền sử 2 giờ bị co thắt vùng bụng và nôn mửa nặng, bị vài giờ sau khi ăn trong một chuyến dã ngoại cùng gia đình. Vài thành viên gia đình khác cũng có các triệu chứng tương tự và cũng đang chờ khám.

Các bài trình bày khác

Các triệu chứng viêm dạ dày ruột bao gồm nôn mửa, như triệu chứng chính (có thể có các triệu chứng khác); các nguyên nhân thường gặp là nuốt phải các độc tố (Staphylococcus aureus hay Bacillus cereus), vi-rút (rotavirus và/hoặc norovirus) và nấm cũng như kim loại nặng. Tiêu chảy không viêm biểu hiện cấp tính và nhiều nước mà không bị sốt hay kiết lỵ; tình trạng này có thể là do hầu như tất cả các mầm bệnh trong ruột. Khi bị tiêu chảy viêm, có thể có máu trong phân và bị sốt, và tình trạng này có thể do các mầm bệnh xâm lấn gây ra. Nhiễm ký sinh trùng có nhiều khả năng gây ra tiêu chảy dai dẳng hơn là các nguyên nhân từ vi khuẩn. Thông thường đau ốm toàn thân có liên quan đến sốt, mệt mỏi, đau khớp hay viêm khớp, vàng da và phát ban. Các biểu hiện thần kinh có thể bao gồm dị cam, miệng có vị kim loại, loạn thị giác, ảo giác, lú lẫn, suy hô hấp hay kiệt sức, co thắt phế quản và liệt dây thần kinh sọ não. Các nguyên nhân có thể bao gồm ngộ độc thịt, các mầm bệnh không lây nhiễm, bao gồm thuốc trừ sâu và nấm, và Campylobacter jejuni (Hội chứng Guillain-Barre). Nuốt phải nấm độc hoang có thể có biểu hiện khởi phát đột ngột buồn nôn và nôn mửa nghiêm trọng, tiêu chảy, và lú lẫn. Các đặc điểm của bệnh sán lá bao gồm các triệu chứng thuộc gan-ống gan (ví dụ: đau bụng, vàng da, đau góc phần tư phía trên bên phải), các triệu chứng phổi (ví dụ: ho mạn tính, đau ngực, khó thở, ho ra máu), hay các triệu chứng ruột (ví dụ: loét niêm mạc, suy dinh dưỡng).[2]

Cách tiếp cận chẩn đoán từng bước

Đặc điểm tiền sử có vai trò thiết yếu để chẩn đoán bệnh do thực phẩm hoặc ngộ độc.

Tiền sử

Điều quan trọng là phải xác định được sự tiếp xúc với thực phẩm, tiếp xúc với động vật, thời gian mắc bệnh, sự hiện diện của đợt bùng phát bệnh do thực phẩm trong khu vực, tiền sử tiếp xúc, tiền sử lạm dụng chất và tiền sử du lịch, đặc biệt là du lịch nước ngoài. Các trường hợp tiếp xúc thực phẩm cụ thể cần xác định bao gồm:

  • Thịt chưa nấu chín: gắn liền với các loại khuẩn Salmonella, Campylobacter, Escherichia coli sản sinh độc tố Shiga, các loại Clostridium perfringen và Viêm gan E
  • Hải sản sống: gắn liền với các loại vi-rút như Norwalk, vi sinh vật Vibrio, viêm gan A hoặc trematoda (sán lá gan)
  • Thực phẩm đóng hộp tự chế biến: gắn liền với khuẩn Clostridium botulinum
  • Phô mai mềm chưa tiệt trùng: gắn liền với các loại khuẩn Listeria, Salmonella, Campylobacter, E coli sản sinh độc tố Shiga và Yersinia
  • Thịt chế biến sẵn: gắn liền với bệnh nhiễm listeria
  • Sữa hay nước ép trái cây chưa tiệt trùng: gắn liền với các loại khuẩn Salmonella, Campylobacter, E coli sản sinh độc tố Shiga, Yersinia và Brucella
  • Trứng sống: Salmonella.

Ngoài ra, việc xử lý và bảo quản thực phẩm không đúng cách gắn liền với tăng nguy cơ mắc và lây bệnh do thực phẩm. Ví dụ như đông lạnh và bảo quản không đúng cách (đóng hộp tại nhà);[1] không rửa thớt và bồn rửa trước và sau khi rửa sản phẩm tươi sống;[15] không tách riêng sản phẩm tươi sống từ động vật với sản phẩm tươi trong tủ lạnh;[15] không sử dụng nhiệt kế đo nhiệt độ thịt để xác định xem thịt được nấu chín chưa;[15] không đông lạnh thực phẩm một cách nhanh chóng;[15] cho lượng lớn thực phẩm nóng vào tủ lạnh mà không chia thành các phần nhỏ hơn;[19] để đồ ăn đông lạnh rã đông trên kệ bếp;[20] sử dụng tủ lạnh quá ấm để bảo quản thực phẩm được an toàn, cụ thể là nhiệt độ từ 6°C (43°F) trở lên.[18]

Điều quan trọng là phải xác định liệu bạn bè hoặc gia đình từng có biểu hiện những triệu chứng tương tự hay không. Nếu có ít nhất 2 người có triệu chứng thì ta coi đây là một trường hợp bùng phát. Một số mầm bệnh nhất định cần phải khai báo.

Tiền sử du lịch nước ngoài là cơ sở nghi ngờ nhiễm bệnh đặc hữu của vùng đến du lịch.

Người già, trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai dễ mắc bệnh do thực phẩm hơn và họ cũng dễ bị ốm nặng hơn, có thể phải nhập viện và đi kèm với tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong cao hơn. Một số bệnh mạn tính (ví dụ: tiểu đường và ung thư) và việc sử dụng các loại thuốc ức chế miễn dịch (ví dụ: corticosteroid, thuốc kháng nhân tố gây hoại tử khối u và hóa trị liệu) làm tăng nguy cơ dễ bị nhiễm trùng cơ hội. Sử dụng thuốc ức chế axit dạ dày đã gây gia tăng nguy cơ nhiễm khuẩn đường ruột.

Nhiều yếu tố nguy cơ có liên quan chặt chẽ với nhau và có thể có hiệu ứng kết hợp.[1]

Các đặc điểm và tần suất đại tiện, các triệu chứng ở bụng và toàn thân và/hoặc nôn mửa có thể cho thấy có mầm bệnh tiềm ẩn.

Liên quan đến chứng tiêu chảy, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xác định 3 kiểu lâm sàng:[30]

  • Cấp tính có nước; kéo dài vài giờ hoặc vài ngày (bao gồm bệnh tả)
  • Cấp tính có máu (kiết lỵ)
  • Dai dẳng; kéo dài từ 14 ngày trở lên.

Sự hiện diện của máu hay dịch nhầy trong phân cho biết có tình trạng xâm lấn màng nhầy trong ruột hoặc kết tràng. Hội chứng viêm trực tràng, được phát hiện thấy ở bệnh nhân mắc bệnh shigella, có đặc trưng là các biểu hiện cảm giác buốt mót, khó chịu ở trực tràng và đại tiện thường xuyên gây đau, chứa máu, mủ và dịch nhầy. Lượng phân lớn có màu nước gạo là dấu hiệu của bệnh tả hay một quá trình sinh độc tố ruột tương tự. Bệnh này khiến người bệnh đi phân lỏng nhiều, không có máu, mủ hay đau bụng nặng.

Bệnh sán lá rất khó chẩn đoán do các triệu chứng khởi phát âm thầm, và các triệu chứng này thường là không rõ ràng và tùy thuộc vào loài sán lá có liên quan. Bệnh nhân có thể biểu hiện các triệu chứng ở gan-ống gan (ví dụ: đau bụng, vàng da, đau góc phần tư phía trên bên phải), các triệu chứng phổi (ví dụ: ho mạn tính, đau ngực, khó thở, ho ra máu) hay các triệu chứng ruột (ví dụ: loét niêm mạc, suy dinh dưỡng).[2]

Khám lâm sàng

Mức độ nghiêm trọng của bệnh biểu hiện qua nhịp tim nhanh, thở nhanh, sốt và mức độ tỉnh táo thay đổi. Khám vùng bụng có thể không thấy điều gì đặc biệt, hoặc cho thấy đau lan tỏa hay khu trú, và trong một số trường hợp, bụng có thể bị sưng to. Cần đánh giá mức độ mất nước.

WHO xếp loại mức độ mất nước theo thang điểm từ 1-3:[30]

  1. Không bị mất nước; không có dấu hiệu hay triệu chứng nào
  2. Mất nước một phần; biểu hiện qua hai dấu hiệu sau đây trở lên: cảm giác khát nước, bồn chồn không yên hoặc hành vi cáu gắt, da kém đàn hồi và mắt trũng sâu
  3. Mất nước nặng; trong đó các triệu chứng trở nên nặng hơn, biểu hiện qua hai dấu hiệu sau đây trở lên: giảm tỉnh táo/li bì, mắt trũng sâu, không thể’ uống hoặc uống kém, và vết véo vào da đàn hồi trở lại rất chậm (>2 giây).

Mất nước ít có khả năng xảy ra với tiêu chảy viêm hơn là tiêu chảy không viêm bởi vì tiêu chảy viêm thường là bệnh ở đại tràng, không phải do độc tố, và thường dẫn đến lượng phân ít hơn.

Có thể có rất nhiều triệu chứng ngoài ruột có khả năng xảy ra, bao gồm da (ví dụ: các vết ban hồng ở trường hợp nhiễm Salmonella typhi hay ban đỏ nốt ở trường hợp nhiễm Yersinia), cơ xương (ví dụ: viêm khớp phản ứng xảy ra 1 đến 3 tuần sau khi nhiễm Salmonella, Shigella, Campylobacter và Yersinia) và các biểu hiện thần kinh (ví dụ: ở trường hợp ngộ độc thịt có thể quan sát thấy chứng song thị, giảm trương lực cơ, và tiếng nói không rõ).

Bệnh nhân mắc bệnh sán lá có thể có biểu hiện bị đau bụng do mật, ứ mật, bệnh sỏi mật, áp xe gan hoặc viêm gan.[2] Nhiễm trùng lạc vị từ bệnh sán lá có thể có biểu hiện ở hệ thần kinh trung ương, tim, cơ quan sinh sản, lá lách, da hay mạch máu.

Nếu không thể cung cấp mẫu phân, có thể thực hiện khám trực tràng để kiểm tra máu ẩn và lấy mẫu phết trực tràng để cấy.

Các xét nghiệm

Nói chung, không cần đánh giá xét nghiệm ở bệnh nhân bị bệnh nhẹ và không biến chứng vì tình trạng này thường tự khỏi.

Chỉ định xét nghiệm ở các trường hợp nặng (tức là, khi bị mất nước, bệnh nhân cần được nhập viện để theo dõi và bổ sung nước) và khi nghi ngờ các nguyên nhân không lây nhiễm, như ngộ độc thuốc trừ sâu và nấm.

Xét nghiệm ban đầu bao gồm:

  • Creatinine huyết thanh và chất điện giải để loại trừ các rối loạn điện giải và rối loạn chức năng thận ở tất cả bệnh nhân có bằng chứng bị mất nước vừa phải hoặc nặng, và ở những người bị nôn hoặc tiêu chảy khó trị hoặc có triệu chứng mà không cải thiện sau 24 giờ.
  • FBC ở bệnh nhân có máu trong phân, sốt, nghi ngờ có các mầm bệnh xâm lấn (như E coli sản sinh độc tố Shiga [ví dụ như, O157:H7]) và các biểu hiện ngoài đường tiêu hóa.
  • Nếu bệnh nhân bị sốt (ví dụ: nhiệt độ >38,4°C [101°F]) và có dấu hiệu nhiễm khuẩn huyết (nhịp tim nhanh, hạ huyết áp, lấp đầy mao mạch kém, nhịp thở nhanh, lú lẫn tâm thần cấp tính, giảm lượng nước tiểu), cần cấy máu để loại trừ vãng khuẩn huyết. Các dấu hiệu nhiễm khuẩn huyết có thể khó phân biệt với dấu hiệu mất nước nghiêm trọng.
  • Cần thực hiện soi phân dưới kính hiển vi để kiểm tra WBC và hồng cầu ở những bệnh nhân có biểu hiện đi tiểu ra máu, bị sốt, nghi nhiễm các mầm bệnh xâm lấn (chẳng hạn như E coli sinh độc tố Shiga [ví dụ, O157:H7), và khi cân nhắc các chẩn đoán khác (chẳng hạn như bệnh ruột viêm nhiễm, viêm đại tràng do thiếu máu cục bộ hoặc nhiễm trùng), và đi kèm với các triệu chứng kéo dài từ 3 ngày trở lên.
  • Soi phân dưới kính hiển vi cũng bao gồm việc kiểm tra xem có trứng và ký sinh trùng (bao gồm trứng sán lá) hay không và cũng cần được thực hiện trên tất cả các mẫu phân.
  • Cấy vi khuẩn đối với các mầm bệnh trong ruột như vi sinh vật Salmonella, Shigella, và Campylobacter là biện pháp bắt buộc với bệnh nhân đi phân ra máu, nếu mẫu phân cho kết quả dương tính đối với WBC hoặc máu, hoặc nếu bệnh nhân bị sốt hoặc có triệu chứng dai dẳng lâu hơn 3 ngày. Xét nghiệm huyết thanh trong phân và xét nghiệm độc tố có thể giúp chẩn đoán loại vi khuẩn sản sinh độc tố Shiga và cả loại độc tố được sản sinh.
  • Xét nghiệm độc tố clostridium difficile để loại trừ tiêu chảy C. difficile.
  • Xét nghiệm huyết thanh viêm gan A và E khi có bằng chứng rối loạn men gan.
  • Xét nghiệm Amylase nếu đau bụng nghiêm trọng, để phân biệt căn nguyên.
  • Nội soi đại tràng sigma/nội soi đại tràng và sinh thiết hỗ trợ việc phân biệt căn nguyên trong trường hợp tiêu chảy ra máu.

Các xét nghiệm khác mà bạn có thể cân nhắc bao gồm:

  • Soi dạ dày và sinh thiết tá tràng thường chỉ có ích trong trường hợp nhiễm trùng kéo dài hay mang ký sinh trùng mạn tính như Giardia.
  • Các xét nghiệm kháng nguyên trong phân giúp cải thiện kết quả chẩn đoán các tình trạng bệnh như Giardia và Cryptosporidium.
  • Nếu soi phân dưới kính hiển vi không chẩn đoán được Giardia và xét nghiệm kháng nguyên âm tính hoặc không có điều kiện thực hiện, có thể sử dụng 2 xét nghiệm khác. Xét nghiệm đầu tiên, và cũng là xét nghiệm ít xâm lấn nhất, là xét nghiệm sợi dây. Trong xét nghiệm này, bệnh nhân nuốt một viên thuốc con nhộng gắn sợi dây, với đầu còn lại của sợi dây dính vào má bệnh nhân. Để viên thuốc hòa tan và sợi dây đi vào tá tràng, ở lại đó trong 4 đến 6 giờ trước khi rút ra. Sợi dây được đem đi xét nghiệm để tìm dưỡng thể. Xét nghiệm thứ hai là soi dạ dày và hút dịch tá tràng, phân tích dịch hút bằng kính hiển vi.
  • Phản ứng khuếch đại chuỗi gen hữu ích nhưng có thể không được phổ biến.[31]
  • Có các xét nghiệm độc tố cá Ciguatera.

Cân nhắc chẩn đoán phân biệt

Mặc dù các triệu chứng ban đầu là tiêu chảy, nôn mửa, và đau bụng có thể phổ biến với nhiều chẩn đoán phân biệt khác, nhưng nếu các triệu chứng phát triển khác với các triệu chứng ở bệnh do thực phẩm, hoặc nếu không đáp ứng điều trị hay đáp ứng điều trị không đủ, cần cân nhắc và nghiên cứu chẩn đoán phân biệt. Những phát hiện gợi nhắc cần xét nghiệm thêm bao gồm:

  • Các bệnh nhân có biểu hiện vàng da và/hoặc đau bụng nặng, cần thực hiện LFT cho viêm gan và sỏi ống mật chủ.
  • Trường hợp nghi ngờ viêm tụy và bệnh nhân bị đau bụng nặng; đặc biệt là đau thượng vị kèm buồn nôn và nôn mửa, và kết quả xét nghiệm gan bất thường, cần yêu cầu phân hóa tố và lipase.
  • Các nguyên nhân gây đau bụng/chướng bụng kèm tiêu chảy khác cần được cân nhắc, như bệnh ruột viêm nhiễm (cần FBC, CRP, chụp x-quang bụng, nội soi đại tràng sigma/nội soi đại tràng với sinh thiết, và chụp quang tuyến ruột non), viêm kết tràng do thiếu máu cục bộ (cần nội soi đại tràng sigma/nội soi đại tràng với sinh thiết và chụp mặt cắt ngang), bệnh coeliac (ngoại trừ với kháng thể nội cơ/transglutaminase mô và nội soi thực quản-dạ dày-tá tràng với sinh thiết bậc hai D2) và tiêu chảy liên quan đến C difficile (ngoại trừ với xét nghiệm độc tố phân).
  • Trong trường hợp tiền sử hay nghề nghiệp (ví dụ, trông trẻ, điều dưỡng) có khả năng phơi nhiễm hoặc nếu các LFT bất thường thì hãy chỉ định khám sàng lọc viêm gan A.
  • Các dấu hiệu ngộ độc thịt (liệt dây thần kinh sọ não, yếu đồng tử, và yếu liệt đối xứng đi xuống mà không bị sốt), cần gửi mẫu huyết thanh hoặc phân đi xét nghiệm phát hiện độc tố.

Chụp hình ảnh/nội soi/bệnh học

Không cần thiết thực hiện các nghiên cứu chụp hình ảnh và nội soi ở các bệnh nhẹ và không biến chứng và ở bệnh nhân đang phục hồi hoặc cải thiện bệnh.

Nên yêu cầu chụp bụng khẩn cấp nếu bệnh nhân bị đau bụng liên tục hay có các triệu chứng bị tắc nghẽn hoặc nếu nghi bị thủng nội tạng.

Cân nhắc tiến hành phép soi đại tràng sigma ở những bệnh nhân bị tiêu chảy ra máu, xác nhận không có mầm bệnh trong ruột, với tình trạng tiêu chảy ra máu diễn ra dai dẳng hoặc tăng mức độ nghiêm trọng, hoặc ở những bệnh nhân có ảnh chụp lâm sàng và kết quả xét nghiệm không tương thích với chẩn đoán mắc bệnh do thực phẩm. Cần yêu cầu nội soi đại tràng ở những bệnh nhân mà nội soi đại tràng sigma không cho ra kết quả chẩn đoán.

Nội soi thực quản, dạ dày, tá tràng với hút dịch tá tràng, có hoặc không có sinh thiết, được cân nhắc ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch, được tiến hành hóa trị liệu và những người có triệu chứng dai dẳng, nghiêm trọng kéo dài hơn 5 ngày hoặc không đáp ứng tốt với điều trị ban đầu.

Các yếu tố nguy cơ

Thường gặp

Người già, trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai

  • Người già, trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai có nguy cơ cao hơn và dễ mắc bệnh do thực phẩm hơn. Họ cũng dễ bị ốm nặng hơn, có thể phải nhập viện và đi kèm với tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong cao hơn. Điều này là do cả yếu tố trực tiếp (hệ miễn dịch chưa trưởng thành hoặc đang lão hóa làm giảm khả năng vận động và chức năng miễn dịch của ruột, tăng độ nhạy cảm với bệnh toàn thân) và yếu tố gián tiếp (hành vi chế biến và sử dụng không phù hợp).[16] [15] [17]

Bệnh mạn tính

  • Một số bệnh mạn tính (ví dụ:đái tháo đường và ung thư) và việc sử dụng các loại thuốc ức chế miễn dịch mạn tính (ví dụ: corticosteroid, thuốc kháng nhân tố gây hoại tử khối u và hóa trị liệu) gắn liền với việc tăng nguy cơ bị nhiễm trùng cơ hội.[15] [18]

Tiền sử mới đi du lịch

  • Có thể cho biết các loại mầm bệnh cụ thể.

Tình trạng suy giảm miễn dịch

  • Tình trạng suy giảm miễn dịch (do các tình trạng cụ thể hoặc liên quan tới thuốc) đi kèm với tăng rủi ro mắc bệnh do thực phẩm thường xuyên hơn và nặng hơn. Ví dụ, những bệnh nhân bị AIDS có rủi ro bị ốm sau khi ăn thức ăn hoặc hải sản tươi sống cao hơn.[1] [15]

Tiền sử tiếp xúc với các ca bệnh ngộ độc thực phẩm

  • Bạn bè hoặc gia đình có thể từng có biểu hiện với những triệu chứng tương tự.
  • Nếu có ít nhất 2 người có triệu chứng tiêu chảy thì ta coi đây là một trường hợp bùng phát.
  • Các những mầm bệnh nhất định mà bạn phải thông báo.

Ăn thịt chưa nấu chín

  • Gắn liền với các loại khuẩn Salmonella, Campylobacter, Escherichia coli sản sinh độc tố Shiga, các loại Clostridium perfringen, và Viêm gan E.

Ăn hải sản tươi sống

  • Gắn liền với các loại vi-rút như Norwalk, vi sinh vật Vibrio, viêm gan A hoặc trematoda (sán lá gan).

Ăn thực phẩm đóng hộp tại nhà

  • Gắn liền với khuẩn Clostridium botulinum.

Ăn pho mát mềm chưa tiệt trùng

  • Gắn liền với các loại khuẩn Listeria, Salmonella, Campylobacter, E coli sản sinh độc tố Shiga và Yersinia.

Ăn thịt làm sẵn

  • Gắn liền với bệnh nhiễm listeria.

Uống sữa hoặc nước ép trái cây chưa tiệt trùng

  • Gắn liền với các loại khuẩn Salmonella, Campylobacter, E coli sản sinh độc tố Shiga, Yersinia, và Brucella.

Ăn trứng sống

  • Gắn liền với khuẩn Salmonella.

Chế biến và bảo quản thực phẩm không đúng cách

  • Gắn liền với tăng nguy cơ mắc và lây bệnh do thực phẩm. Các ví dụ như đông lạnh và bảo quản không đúng cách (đóng hộp tại nhà);[1] không rửa thớt và bồn rửa trước và sau khi rửa sản phẩm tươi sống;[15] không tách riêng sản phẩm tươi sống từ động vật với sản phẩm tươi trong tủ lạnh;[15] không sử dụng nhiệt kế đo nhiệt độ thịt để xác định xem thịt được nấu chín chưa;[15] không đông lạnh thực phẩm một cách nhanh chóng;[15] cho lượng lớn thực phẩm nóng vào tủ lạnh mà không chia thành các phần nhỏ hơn;[19] để đồ ăn đông lạnh rã đông trên kệ bếp;[20] sử dụng tủ lạnh quá ấm để bảo quản thực phẩm được an toàn, cụ thể là nhiệt độ từ 6°C (43°F) trở lên.[18]

Sử dụng chất trung hòa axit dạ dày

  • Chất trung hòa axit dạ dày làm tăng nguy cơ bị vi khuẩn xâm lấn bởi chất này làm giảm chức năng như rào chắn kháng vi khuẩn của axit dạ dày, nhất là ở những người có nguy cơ cao như người già, người bị suy giảm miễn dịch và phụ nữ mang thai.

Các yếu tố về tiền sử và thăm khám

Các yếu tố chẩn đoán chủ yếu

Có các yếu tố nguy cơ (thường gặp)

  • Các yếu tố nguy cơ chính bao gồm: người già, trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai, bệnh mạn tính, tiền sử mới đi du lịch, tình trạng suy giảm miễn dịch, tiền sử bị ngộ độc thực phẩm do tiếp xúc, ăn thịt chưa nấu chín kỹ, ăn đồ hải sản sống, ăn đồ ăn đóng hộp tại nhà, ăn pho mát mềm chưa tiệt trùng, ăn thịt làm sẵn, uống sữa hoặc nước ép chưa tiệt trùng, ăn trứng sống, chế biến và bảo quản thức ăn không đúng cách.

Tiêu chảy (thường gặp)

  • Thường có tiền sử tiêu chảy cấp tính (<2 tuần).

Buồn nôn và nôn mửa (thường gặp)

  • Staphylococcus aureus, Bacillus cereus hoặc norovirus là tác nhân đáng nghi khi nôn là triệu chứng biểu hiện chính.

Các yếu tố chẩn đoán khác

Đau bụng (thường gặp)

  • Đau bụng thường diễn biến nặng ở dạng thể viêm. Co thắt vùng cơ bụng gây đau chứng tỏ cơ thể bị mất chất điện giải như ở trường hợp bị bệnh dịch tả nặng.
  • Viêm ruột non kết do vi khuẩn Yersinia có thể có triệu chứng giống như viêm ruột thừa hay viêm hồi tràng Crohn (đau và phản ứng thành bụng ở góc phần tư dưới phải).

Chướng hơi (thường gặp)

  • Nếu bị chướng bụng trong khoảng thời gian tương đối dài thì có thể nghi mắc bệnh nhiễm khuẩn giardias.

Sốt (thường gặp)

  • Chứng tỏ có mầm bệnh xâm lấn hoặc tác nhân gây bệnh toàn thân. Sốt có thể là kết quả của viêm nhiễm bên ngoài đường tiêu hóa hoặc nhiễm trùng mắc thêm.

Mất nước (thường gặp)

  • Khi mới bị bệnh tiêu chảy, tình trạng mất nước có thể ở thể nhẹ, thậm chí không có dấu hiệu mất nước. Tình trạng mất nước trung bình biểu hiện qua cảm giác khát nước, không ngủ được hoặc hành vi cáu gắt, da kém đàn hồi và mắt trũng vào. Trong trường hợp mất nước nghiêm trọng, các triệu chứng trở nên nặng hơn như sốc, giảm tỉnh táo, tiểu ít, lạnh cơ thể, đầu chi ẩm, nhịp mạch nhanh và yếu, huyết áp thấp hoặc không dò được, và da tái đi. Bệnh nhân bị mất nước nặng cũng có thể bị chóng mặt khi thay đổi tư thế.

Máu hay dịch nhầy trong phân (thường gặp)

  • Cho biết có tình trạng xâm lấn màng nhầy trong ruột hoặc kết tràng. Hội chứng viêm trực tràng, được thấy ở bệnh nhân mắc bệnh shigella, có đặc trưng là các biểu hiện cảm giác buốt mót, khó chịu ở trực tràng và nhu động ruột thường xuyên gây đau, chứa máu, mủ và dịch nhầy.

Nhiều phân có màu nước vo gạo (không thường gặp)

  • Chứng tỏ bị bệnh dịch tả hoặc một tình trạng tương tự. Bệnh này khiến người bệnh đi phân lỏng nhiều, không có máu, mủ hay đau bụng nặng. Người bệnh có thể bị mất nước đáng kể.

Viêm khớp phản ứng (không thường gặp)

  • Có thể bị trong trường hợp nhiễm khuẩn Salmonella, Shigella, Campylobacter và Yersinia.

Phát ban da (không thường gặp)

  • Người bệnh có thể có các vết ban đốm màu hồng ở bụng trên và bị chứng to gan lách nếu nhiễm khuẩn Salmonella typhi.
  • Ban đỏ nốt và viêm họng tiết dịch là các dấu hiệu của nhiễm khuẩn Yersinia.
  • Bệnh nhân nhiễm Vibrio vulnificus hoặc V alginolyticus có thể có biểu hiện bị viêm mô tế bào và viêm tai giữa.

Khó nuốt (không thường gặp)

  • Đi kèm với bệnh ngộ độc thịt.

Song thị / Nhìn đôi (không thường gặp)

  • Đi kèm với bệnh ngộ độc thịt.

Nói lắp (không thường gặp)

  • Đi kèm với bệnh ngộ độc thịt.

Ốm yếu (không thường gặp)

  • Trương lực cơ yếu gắn liền với bệnh ngộ độc thịt.

Bệnh gan mật (không thường gặp)

  • Bệnh nhân mắc bệnh sán lá có thể có biểu hiện bị đau bụng do mật, ứ mật, bệnh sỏi mật, áp xe gan hoặc viêm gan.[2]

Các triệu chứng ở phổi (không thường gặp)

  • Bệnh nhân mắc bệnh sán lá có thể có biểu hiện ho mạn tính, đau ngực, khó thở hoặc ho ra máu.[2]

Các biểu hiện khác ở ruột (không thường gặp)

  • Bệnh nhân có thể có biểu hiện loét màng nhầy hoặc suy dinh dưỡng.[2]

Các biểu hiện của nhiễm trùng lạc vị (không thường gặp)

  • Nhiễm trùng lạc vị từ bệnh sán lá có thể có biểu hiện ở hệ thần kinh trung ương, tim, cơ quan sinh sản, lá lách, da hay mạch máu.[2]

Xét nghiệm chẩn đoán

Xét nghiệm thứ nhất cần yêu cầu

Xét nghiệm Kết quả
Soi phân dưới kính hiển vi để kiểm tra WBC và hồng cầu (RBC)

• Dễ dàng, không tốn kém và có sẵn rộng rãi.

• Giúp phân biệt bệnh xâm lấn hoặc viêm nhiễm với bệnh không xâm lấn.

• Soi phân dưới kính hiển vi để kiểm tra WBC và RBC nên được thực hiện ở những bệnh nhân có biểu hiện đi tiêu ra máu, bị sốt, nghi nhiễm các mầm bệnh xâm lấn (chẳng hạn như Escherichia coli O157:H7), khi cân nhắc các chẩn đoán khác (chẳng hạn như bệnh ruột viêm nhiễm, viêm đại tràng do thiếu máu cục bộ hoặc nhiễm trùng), và đi kèm với các triệu chứng kéo dài (3 ngày hoặc lâu hơn). Có thể thực hiện soi hiển vi trường tối để nhận biết Vibrio cholerae.

Có biểu hiện/dương tính với tiêu chảy xâm lấn hoặc viêm nhiễm
Nuôi cấy phân

• Cấy vi khuẩn đối với các mầm bệnh trong ruột như vi sinh vật Salmonella, Shigella, và Campylobacter là biện pháp bắt buộc với mọi bệnh nhân đi phân ra máu; nếu mẫu phân cho kết quả dương tính đối với WBC hoặc máu, hoặc nếu bệnh nhân bị sốt hoặc có triệu chứng dai dẳng trong lâu hơn 3-4 ngày. Xét nghiệm huyết thanh trong phân và xét nghiệm độc tố có thể giúp chẩn đoán loại vi khuẩn sản sinh độc tố Shiga và cả loại độc tố được sản sinh.

• Nếu các triệu chứng vẫn còn và mầm bệnh được cách ly thì nên tiến hành điều trị cụ thể.

Phân lập mầm bệnh cụ thể
Phân O+P

• Thăm khám phân bằng kính hiển vi xem có trứng và ký sinh trùng (O&P) không (bao gồm trứng sán lá).

Phát hiện các loại trứng và/ hoặc ký sinh trùng cụ thể
Công thức máu

• Dễ dàng, không tốn kém và phổ biến rộng rãi. Giúp đánh giá phản ứng viêm và mức độ cô máu. Ngoài ra, có thể phát hiện bằng chứng của hội chứng huyết tán tăng urê máu khi nghi nhiễm khuẩn E coli sản sinh độc tố Shiga (ví dụ: O157:H7).

WBC cảo với hầu hết các loại tiêu chảy gắn liền với mầm bệnh viêm/xâm lấn; WBC thấp gắn liền với sốt thương hàn và một số loại vi-rút; chứng thiếu máu; Hb và thể tích khối hồng cầu cảo có thể chứng tỏ có tình trạng cô máu
Creatinine và chất điện giải trong huyết thanh

• Dễ dàng, không tốn kém và phổ biến rộng rãi. Nên tiến hành để loại trừ các rối loạn điện giải và rối loạn chức năng thận ở tất cả bệnh nhân có bằng chứng bị mất nước vừa phải hoặc nặng, và ở những người bị nôn hoặc tiêu chảy nặng hoặc có triệu chứng mà không cải thiện sau 24 giờ. Đánh giá chất điện giải trong huyết thanh và nồng độ urê và creatinine giúp đánh giá phản ứng viêm và mức độ mất nước. Nghi ngờ hội chứng huyết tán tăng urê máu khi có biểu hiện tăng urê huyết.

Nhiễm toan chuyển hóa hạ kali máu thứ phát với tiêu chảy; tăng hoặc hạ natri máu và tăng nồng độ nitơ trong urê máu thứ phát với mất nước

Các xét nghiệm khác cần cân nhắc

Xét nghiệm Kết quả
Xét nghiệm phát hiên độc tố botulinum trong phân/huyết thanh

• Nếu bệnh nhân có các triệu chứng/dấu hiệu bị bệnh ngộ độc thịt thì nên gửi phân hoặc huyết thanh để nhận biết/xác nhận độc tố.

Độc tố botulinum
Cấy máu

• Cấy máu được thực hiện để loại trừ khả năng bị vãng khuẩn huyết nếu bệnh nhân bị sốt đáng kể (ví dụ: nhiệt độ 38,5°C [> 101°F]) và có dấu hiệu nhiễm khuẩn huyết (nhịp tim nhanh, hạ huyết áp, lấp đầy mao mạch kém, nhịp thở nhanh, lú lẫn tâm thần cấp tính, giảm lượng nước tiểu). Cần lưu ý rằng rất khó để phân biệt các dấu hiệu nhiễm khuẩn huyết với dấu hiệu mất nước nghiêm trọng.

Dương tính; phân lập mầm bệnh cụ thể khi bị nhiễm trùng xâm lấn nặng hoặc nhiễm trùng thứ phát mắc thêm
Amylase và lipase

• Dễ dàng, không tốn kém và phổ biến rộng rãi; giúp phân biệt ngộ độc thực phẩm với viêm tụy cấp.

Bình thường
Xét nghiệm chức năng gan

• Dễ dàng, không tốn kém và phổ biến rộng rãi; giúp phân biệt ngộ độc thực phẩm với viêm túi mật cấp hoặc viêm gan cấp.

Tăng cao ở bệnh nhân nhiễm độc do nấm dại hoặc mắc các mầm bệnh xâm lấn đi kèm với bệnh toàn thân, đặc biệt là Salmonellả và Campylobacter; giảm albumin huyết thứ phát với suy dinh dưỡng hoặc dưới dạng phản ứng pha cấp tính
Kháng thể IgM kháng viêm gan A

• Được thực hiện khi tiền sử hoặc nghề nghiệp (chăm sóc trẻ em, điều dưỡng) có khả năng tiếp xúc với người bị viêm gan A hoặc nếu các LFT bất thường.

Kháng thể IgM kháng viêm gan

A dương tính

Kháng thể IgM kháng viêm gan E

• Được thực hiện khi tiền sử cho thấy dấu hiệu tiếp xúc với người bệnh viêm gan E hoặc nếu LFT bất thường.

Kháng thể IgM kháng viêm gản E dương tính
Những cơn đau bụng cấp tính

• Dễ dàng, không tốn kém và có sẵn rộng rãi. Nên tiến hành chụp X quang bụng nằm ngửa và đứng thẳng gấp nếu bệnh nhân bị đau dữ dội hoặc có các triệu chứng bị tắc nghẽn, hoặc nếu nghi bị thủng nội tạng.

Vòng lặp giãn có mức khí-dịch loãng thứ phát với tắc ruột; không khí tự do nhất quán với chẩn đoán bị thủng nội tạng
Phép soi đại tràng sigma/nội soi đại tràng

• Nên cân nhắc tiến hành phép soi đại tràng sigma/nội soi đại tràng ở những bệnh nhân bị tiêu chảy ra máu, xác nhận không có mầm bệnh trong ruột, hoặc tình trạng tiêu chảy ra máu diễn ra dai dẳng hoặc tăng mức đô nghiêm trọng, hoặc ở những bệnh nhân có ảnh chụp lâm sàng và kết quả xét nghiệm không tương thích với chẩn đoán mắc bệnh do thực phẩm. Cách này có thể giúp ích cho việc chẩn đoán bệnh viêm ruột, tiêu chảy do kháng sinh, bệnh shigella và chứng kiết lỵ do amip. Kỹ thuật nội soi đại tràng đắt đỏ hơn, cần chuẩn bị đầy đủ và gây mê, và nên được thực hiện trong môi trường đặc biệt (phòng nội soi).

• Bác sĩ thường chỉ định tiến hành nội soi đại tràng cẩn thận ở những bệnh nhân có triệu chứng dai dẳng hoặc không đáp ứng tốt với điều trị ban đầu.

Các thay đổi do viêm: ban đỏ, kết hạt màng nhầy và loét, giòn vỡ
Nội soi đường tiêu hóa trên

• Kỹ thuật nội soi đường tiêu hóa trên kết hợp hút và/hoặc sinh thiết tá tràng được cân nhắc ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, bệnh nhân được tiến hành hóa trị liệu, và bệnh nhân có triệu chứng nặng, dai dẳng, kéo dài hơn 5 ngày hoặc không đáp ứng tốt với điều trị ban đầu.

Các thay đổi do viêm trong ruột non hoặc nhung mao phẳng
Sinh thiết

• Được cân nhắc khi thực hiện nội soi. Hiếm khi hữu ích, nhưng có thể phân biệt bệnh viêm ruột với viêm ruột hoặc viêm đại tràng do nhiễm trùng cấp tính nhờ sự xuất hiện của những thay đổi về kết cấu tiểu nang như tiểu nang rẽ nhánh hay thưa thớt. Tuy nhiên, những đặc điểm này phải mất vài tuần mới hình thành và có thể không xuất hiện trong viêm đại tràng do nhiễm trùng.

• Kỹ thuật soi hiển vi điện tử hữu ích khi nghi bị nhiễm ký sinh trùng nội bào (Cryptosporidium hoặc Cyclospora cayetanensis).

Đặc điểm mô học của viêm ruột do nhiễm trùng là những thay đổi do viêm không cụ thể; thường thì người ta phát hiện thấy có mầm bệnh và tiến hành nhuộm
Hút tá tràng

• Kỹ thuật này được cân nhắc ở những bệnh nhân được tiến hành hóa trị liệu và những người có triệu chứng dai dẳng hoặc không đáp ứng tốt với điều trị ban đầu.

Dương tính (vi khuẩn phát triển vượt mức) khi số lượng > 10« m/L.

Các xét nghiệm giai đoạn đầu

Xét nghiệm Kết quả
Phản ứng khuếch đại chuỗi gien (PCR ) của phân

• PCR có thể giúp ích khi có thể áp dụng kỹ thuật này để phát hiện Campylobacter, Salmonella, và khuẩn E coli sản sinh độc tố Shiga O157, nhưng có thể chưa được áp dụng rộng rãi.[31] [32] PCR rất hữu ích trong việc phát hiện các loại vi-rút như Norovirus.

Dương tính với vi khuẩn

Chẩn đoán khác biệt

Tình trạng Các dấu hiệu/triệu chứng khác biệt Các xét nghiệm khác biệt
Các hội chứng cấp tính do vi- rút • Rất khó để phân biệt; việc thiếu tiếp xúc với các loại thực phẩm cụ thể hoặc không có những hành vi cụ thể có thể giúp ta phân biệt. • Đôi khi, huyết thanh vi-rút cấp tính, cụ thể là IgM, (có hoặc tăng so với mức cơ sở) có thể giúp chẩn đoán loại vi-rút cụ thể.
Bệnh Crohn • Có thể có biểu hiện mệt mỏi, tiêu chảy, đau bụng, giảm cân, sốt và chảy máu trực tràng. Các biểu hiện khác có thể bao gồm có loét miệng, vảy trên da quanh hậu môn, đường rò, áp xe và đường xoang; thăm khám bụng có thể phát hiện thấy khối sờ thấy được ở khu vực hồi manh tràng; không có khối khi thăm khám trực tràng bằng biện pháp kỹ thuật số. • Cấy phân, soi hiển vi và xét nghiệm kháng nguyên: âm tính.

• Đường tiêu hóa trên và chuỗi ruột non: phù nề và loét màng nhầy đi kèm với hẹp và nghẽn mạch. CT/MRI bụng: tổn thương cách khoảng, dày thành ruột, viêm xung quanh, áp-xe, đường rò.

• Nội soi đại tràng: loét miệng tái diễn, xung huyết, phù nề, tạo sỏi, tổn thương cách khoảng.

Viêm loét đại tràng • Có thể có biểu hiện tiêu chảy ra máu, tiền sử bị đau bụng dưới, mắc đại tiện, có các biểu hiện ở ngoài ruột (ví dụ: ban đỏ nốt, bệnh khớp cấp tính), tiền sử bị viêm xơ chai đường mật nguyên phát. Không có khối lồi khi thăm khám trực tràng bằng phương pháp kỹ thuật số. • Cấy phân, soi hiển vi và xét nghiệm kháng nguyên: âm tính.

• Mô học: bệnh ngọn chi liên tục, giảm dự trữ dịch nhầy, bệnh u tương bào nền, chứng teo niêm mạc khuếch tán, không có u hạt và teo hậu môn.

• Nội soi đại tràng: tổn thương trực tràng, tổn thương đồng nhất liên tục, mất dấu mạch, ban đỏ khuếch tán, kết hạt màng nhầy, hồi tràng cuối bình thường (hoặc viêm hồi tràng ‘rửa ngược’ nhẹ trong viêm đại tràng toàn bộ).

Dị ứng/không dung nạp đồ ăn • Tiền sử tiếp xúc với một số loại thực phẩm được xác định là nguyên nhân gây không dung nạp hoặc dị ứng (sữa, lactoza, gluten) và tái phát kèm biến chứng. • Các dấu ấn bụng cho kết quả dương tính ở hầu hết các bệnh nhân không dung nạp gluten.

• Xét nghiệm hô hấp hiđrô giúp chẩn đoán chứng không dung nạp lactoza.

• Nội soi đại tràng và sinh thiết giúp chẩn đoán chứng dị ứng sữa.

Hội chứng ruột kích thích • Tổng thời gian diễn ra triệu chứng phải lâu hơn 6 tháng, với tiêu chí kết hợp cụ thể giữa chứng chướng hoặc đau bụng, có giảm nhẹ sau khi đi tiêu và gắn liền với thay đổi về tần suất đại tiện và/hoặc tính nhất quán, không có bằng chứng cho thấy có biểu hiện hoặc triệu chứng đáng báo động.

• Khám thể chất phát hiện có biểu hiện khỏe mạnh, không trúng độc, không có bằng chứng cho thấy bị mất nước.

• Tất cả các kết quả xét nghiệm hình ảnh và xét nghiệm trong phòng thí nghiệm đều trong khoảng bình thường.
Viêm đại tràng vi thể • Thường xuất hiện ở người già, triệu chứng diễn ra trong thời gian lâu, đi tiêu không có máu. • Nội soi đại tràng cho thấy màng nhầy có biểu hiện bình thường, sinh thiết cho thấy có thâm nhiễm thuộc tế bào lympho và/ hoặc lớp collagen dày, tất cả đều mang tính chẩn đoán.
Viêm ruột thừa cấp • Đau cục bộ ở góc phần tư dưới phải và kích thích màng bụng là các triệu chứng thường gặp (co cứng). • Chụp CT bụng để chẩn đoán.

• Tăng huyết thanh và WBC trong nước tiểu.

Viêm túi mật cấp • Đau khu trú ở góc phần tư phía trên bên phải và dấu hiệu Murphy dương tính là các triệu chứng thường gặp. • Siêu âm cho thấy thành túi mật dày lên; phosphatase kiềm, bilirubin, alanine aminotransferase và aspartate aminotransferase tăng khi bị tắc đường mật (bệnh sỏi ống mật chủ).
Viêm tụy cấp • Đau thượng vị lan tỏa ra lưng, tiền sử nghiện rượu trong viêm tụy do rượu có thể giúp chẩn đoán. • Tăng nồng độ amylase và lipase trong huyết thanh và các phát hiện từ chụp CT đều mang tính chẩn đoán.
Viêm gan cấp • Thường có biểu hiện vàng da.

• Các yếu tố nguy cơ mắc viêm gan B và C cấp tính bao gồm quan hệ tình dục không có bảo vệ và dùng thuốc truyền tĩnh mạch.

• Tiền sử nghiện rượu trong viêm gan do rượu.

• Tiền sử dùng thuốc gây độc gan hoặc quá liều thuốc trong viêm gan do thuốc.

• Các biểu hiện về thần kinh và vòng Kayser-Fleischer trong bệnh Wilson.

• Huyết thanh xét nghiệm viêm gan cấp (phác đồ viêm gan cấp), dấu ấn huyết thanh của viêm gan tự miễn, ceruloplasmin trong huyết thanh, nồng độ thuốc (cụ thể là paracetamol) có thể giúp bạn chẩn đoán.

• Khi có biểu hiện giảm bạch cầu và giảm tiểu cầu, có thể cân nhắc khả năng bị nhiễm trùng do ve/rickettsia (sốt đốm Rocky Mountain và Ehrlichia).

Hội chứng kém hấp thu • Thường đi kèm với các triệu chứng mạn tính và suy dinh dưỡng nghiêm trọng, tiền sử phẫu thuật ruột và biểu hiện suy dinh dưỡng và kém hấp thu ngoài ruột. Alpha antitrypsin trong phân, nồng độ pre-albumin, albumin và tổng protein trong huyết thanh thấp, nhiều loại vitamin và thiết hụt các yếu tố.
Tắc ruột già • Căng phồng là triệu chứng thường gặp, kèm theo đó là nôn, bao gồm nôn ra chất như phân, xảy ra ở giai đoạn sau của bệnh. Chụp X-quang bụng bình thường: căng phồng ruột già ứ hơi; quan sát thấy thứ có hình dạng như hạt đậu thận trong chứng xoắn ruột.
Tắc ruột non (SBO) • Có biểu hiện chướng bụng và nôn ở giai đoạn đầu của bệnh; có thể có tiền sử phẫu thuật bụng. Chụp x-quang bụng một màu: các mức khí-dịch, vòng ruột giãn, không có khí trong trực tràng (ở SBO hoàn chỉnh), tràn khí phúc mạc. Tuy nhiên, ngộ độc thực phẩm có thể gắn liền với chứng tắc ruột và tắc nghẽn chức năng và có cùng các phát hiện bằng hình ảnh.
Viêm ruột do phóng xạ • Bệnh nhân có tiền sử được xạ trị. Nội soi và sinh thiết; các phát hiện trước đây ủng hộ chẩn đoán này.
Chứng thiếu máu cục bộ ở màng treo ruột • Đột ngột bị đau bụng lan tỏa có thể là dấu hiệu của chứng thiếu máu cục bộ ở màng treo ruột cấp tính hoặc chứng thiếu máu cục bộ ở màng treo ruột không tắc nghẽn. Tuy nhiên, các triệu chứng mạn tính không rõ và đau bụng lan tỏa có thể là dấu hiệu của chứng thiếu máu cục bộ ở màng treo ruột mạn tính. Trái lại, viêm đại tràng do thiếu máu cục bộ có thể gây đau bụng khu trú hoặc lan tỏa và thường khởi phát triệu chứng âm thầm hơn, kéo dài vài giờ hoặc vài ngày. Chụp CT/nội soi. Phát hiện điển hình là thành ruột dày lên ở một đoạn nào đó.

Các phát hiện nội soi bao gồm màng nhầy thâm tái kèm đốm xuất huyết. Có thể thấy các nốt xuất huyết xanh tím, chứng tỏ có chảy máu dưới màng nhầy; những chỗ như vậy sẽ tương ứng với vùng vân tay trên ảnh thăm khám chụp X-quang.

Tác dụng phụ/độc tính do cách dùng thuốc và thuốc • Tiền sử dùng/sử dụng thuốc. Tầm soát qua nước tiểu và huyết thanh, nồng độ thuốc trong máu.
Viêm túi thừa • Tăng bạch cầu và sốt ở bệnh nhân lớn tuổi. Chụp CT/WBC.
Viêm mạch toàn thân • Tổn thương đa hệ (da, khớp, máu) và biểu hiện mạn tính. Sinh thiết cho thấy có chiều hướng viêm mạch (hủy bạch cầu, hoại tử).

Các tiêu chí chẩn đoán

Phân lập mầm bệnh cụ thể

Phân lập mầm bệnh nghi ngờ khỏi các mẫu phân được xử lý đúng cách ở ít nhất 2 người bị bệnh và không có các phát hiện tương tự ở các mẫu đối chứng khỏe mạnh từ cùng môi trường ở cùng thời điểm.

Sự hiện diện của vi khuẩn trong các sản phẩm thực phẩm phải được duy trì trong phạm vi được pháp luật quy định. Việc vượt ra ngoài các mức đó có thể dẫn đến một cuộc đánh giá sức khỏe môi trường đối với cơ sở chế biến thực phẩm. Khuyến cáo nên liên hệ với sở sức khỏe môi trường địa phương để biết thêm thông tin.

Mức độ mất nước (Tổ chức Y tế Thế giới [WHO])[30]

WHO xếp loại độ mất nước theo thang điểm từ 1-3:

  1. Không bị mất nước; không có dấu hiệu hay triệu chứng nào
  2. Mất nước một phần; biểu hiện qua hai dấu hiệu sau đây trở lên: cảm giác khát nước, bồn chồn không yên hoặc hành vi cáu gắt, da kém đàn hồi và mắt trũng sâu
  3. Mất nước nặng; trong đó các triệu chứng trở nên nặng hơn, biểu hiện qua hai dấu hiệu sau đây trở lên: giảm tỉnh táo/li bì, mắt trũng sâu, không thể’ uống hoặc uống kém, và vết véo vào da đàn hồi trở lại rất chậm (>2 giây).

Điều trị

Cách tiếp cận điều trị từng bước

Bù dịch qua đường uống và kiểm soát triệu chứng là cơ sở của điều trị ở bệnh nhân tiêu chảy nhiều nước không biến chứng. Mục tiêu chính là duy trì lượng nước (hay bù nước cho bệnh nhân bị mất nước) và thay thế chất điện phân. Đôi khi cũng chỉ định thuốc kháng vi sinh vật hoặc các biện pháp trị liệu cụ thể khác.

Ngăn ngừa lây nhiễm mở rộng thông qua báo cáo, khám sàng lọc và theo dõi phù hợp, và phổ biến kiến thức cho bệnh nhân đều là các biện pháp thiết yếu trong điều trị bùng phát bệnh.

Thuốc chống nôn mửa không được chỉ định trong tiêu chảy nhiễm trùng.

Bệnh nhẹ đến vừa

Tự khỏi. Có biểu hiện mất nước nhẹ đến vừa và không có các dấu hiệu hay triệu chứng báo động như máu trong phân, đau bụng nghiêm trọng, sốt, và các biểu hiện ngoài đường tiêu hóa.

Cơ sở của điều trị là dùng dung dịch bù nước qua đường uống. Hiện người ta vẫn đang bàn về giá trị của một loại thuốc kháng nhu động hoặc thuốc chống tiêu chảy không kê đơn (ví dụ: loperamide) ở những bệnh nhân bị tiêu chảy mức độ nhẹ đến trung bình. Những loại thuốc này có thể được kê cho bệnh nhân bị tiêu chảy ảnh hưởng tới khả năng làm việc hoặc người bị tiêu chảy khi đi du lịch.[33] Không nên sử dụng diphenoxylate/atropine hoặc codeine ở các bệnh nhân nghi ngờ có mầm bệnh xâm lấn.

Không cần thiết sử dụng thuốc kháng sinh ở các bệnh nhân này

Bệnh nặng

Bệnh nặng thể hiện qua sự hiện diện của các dấu hiệu và triệu chứng mất nước nghiêm trọng, máu trong phân, có nhiều bất thường đáng kể trong các xét nghiệm phòng thí nghiệm và các biểu hiện ngoài ruột. Khuyến nghị cho nhập viện để bù nước qua tĩnh mạch và theo dõi sát sao các chất điện phân và các xét nghiệm phòng thí nghiệm khác theo chỉ định đối với bệnh nhân bị ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng (đặc biệt là các bệnh nhân có nguy cơ cao, như phụ nữ có thai và người già).

Không nên sử dụng diphenoxylate/atropine hoặc codeine ở các bệnh nhân nghi ngờ có mầm bệnh xâm lấn.

Điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm

Bạn nên thảo luận mọi biện pháp điều trị kháng vi khuẩn đặc hiệu với chuyên gia ở địa phương về vi sinh học/bệnh truyền nhiễm để xác định xu thế nhạy cảm ở địa phương. Cần thường xuyên theo dõi tiến triển bệnh để đảm bảo cách điều trị theo kinh nghiệm có hiệu quả.

Chỉ nên điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm nếu có bằng chứng về bệnh kiết lỵ trực khuẩn qua nuôi cấy. Không khuyến cáo sử dụng ở các nước phát triển trừ khi có bằng chứng về nhiễm Shigella được xác nhận qua nuôi cấy, hoặc một đợt bùng phát bệnh Shigella rõ ràng. [34]

Nếu không bị kiết lỵ thì không nên dùng kháng sinh cho tới khi có khẳng định từ chẩn đoán vi sinh học và loại trừ khả năng nhiễm khuẩn Escherichia coli gây xuất huyết đường ruột và sinh độc tố Shiga (ví dụ: O157:H7).

Nếu được áp dụng, liệu pháp kháng vi sinh vật theo kinh nghiệm phải toàn diện và cần bao quát tất cả các mầm bệnh khả dĩ trong bối cảnh lâm sàng.

Với những bệnh nhân bị tiêu chảy (đi ngoài hơn 4 lần/ngày) hơn 3 ngày và sốt, đau bụng, nôn mửa, đau đầu hay đau cơ, nếu điều trị bằng thuốc như fluoroquinolone, có thể trị được các vi sinh vật Shigella. Tuy nhiên, trong trường hợp nhiễm Campylobacter, nếu không cho dùng kháng sinh sớm (trong vòng 72 giờ) thì kháng sinh sẽ không có tác dụng. Ngoài ra, tình trạng Campylobacter kháng fluoroquinolone đang trở nên phổ biến (30% ở Anh Quốc), vậy nên ta có thể chọn giải pháp thay thế là trị liệu bằng kháng sinh macrolide (ví dụ: erythromycin). Điều trị bậc hai bao gồm clarithromycinazithromycin.

Hầu hết chế độ điều trị Shigella là liều đơn hoặc nhiều nhất là 3 ngày. Bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch có thể cần thuốc kháng vi khuẩn mạnh hơn, đặc hiệu hơn và trong thời gian lâu hơn.

Nhiễm khuẩn E coli gây độc tố ruột (ETEC) (tiêu chảy ở khách du lịch) chủ yếu tự khỏi, nhưng vẫn có thể là dấu hiệu cho phép kê đơn dùng kháng sinh theo kinh nghiệm như fluoroquinolone. Nên đề xuất dùng kháng sinh trong các trường hợp nặng, thường là trong khi bệnh nhân vẫn đi du lịch, nếu thuốc có thể rút ngắn thời gian bị bệnh.[35]

Các loại kháng sinh này không có hiệu lực với vi khuẩn kỵ khí, nên nếu nguyên nhân có thể khiến bệnh nhân bị ốm và tiêu chảy không ra máu là tiêu chảy do khuẩn Clostridium difficile gây ra hoặc nhiễm khuẩn huyết trong bụng, thì cách trị liệu theo kinh nghiệm cần bao gồm metronidazole hay amoxicillin/clavulanic acid.

Điều trị kháng sinh mục tiêu

Lựa chọn kháng sinh cần dựa vào độ nhạy cảm với nuôi cấy khi có.

Một liều fluoroquinolone là liệu pháp bậc một ở Shigella, các loài Salmonella không gây thương hàn và các loài E coli (không gây xuất huyết ruột [sinh độc tố Shiga]) đã biết và trimethoprim/sulfamethoxazole là liệu pháp bậc hai thay thế, nhưng các vi khuẩn kháng thuốc phổ biến ở các vùng nhiệt đới và ở miền Tây. Tuy nhiên, trên Cochrane có một bài đánh giá nói rằng không có khác biệt giữa việc cho dùng kháng sinh và không dùng kháng sinh về phương diện thời gian và mức độ của tiêu chảy, tình trạng có sốt hoặc thời gian bị bệnh ở những bệnh nhân nhiễm Salmonella không gây thương hàn. Mặc dù kháng sinh đảm bảo có nhiều mẫu cấy phân âm tính hơn trong tuần đầu tiên, song tỷ lệ dương tính trong kiểu huyết thanh Salmonella tương tự lại tăng gấp đôi sau 1 tháng điều trị.[36]

Đối với các loài Campylobacter, fluoroquinolone là liệu pháp bậc một; tuy nhiên, có tới 30% số ca kháng thuốc và thuốc có thể có hiệu lực thấp và khi đó thì kháng sinh macrolide erythromycin được khuyến nghị. Macrolide bậc hai bao gồm clarithromycin và azithromycin. Việc điều trị có thể có hiệu quả nếu được bắt đầu từ rất sớm, nhưng thường không có hiệu quả lắm nếu chỉ được tiến hành sau khi có chẩn đoán vi sinh học. Kháng thuốc là một vấn đề nghiêm trọng. Do đó, nền tảng vẫn là bù nước và chăm sóc hỗ trợ.[37]

Nhiều tác nhân thuốc khác nhau, bao gồm doxycycline, trimethoprim/sulfamethoxazole, fluoroquinolone, hay tetracycline, có thể được dùng để điều trị các loài Yersinia, Vibrio cholerae hay V parahaemolyticus, và Isospora.

Nhiễm khuẩn S aureus gây nôn do độc tố ruột thường tự khỏi và chỉ cần điều trị hỗ trợ là đủ. Nếu đi kèm với vãng khuẩn huyết thì nên hỏi ý kiến chuyên gia về bệnh truyền nhiễm/vi sinh học.

Giardia thường được điều trị bằng tinidazole hoặc metronidazole.

Nhiễm cryptosporidiosium tự khỏi ở các bệnh nhân có sức đề kháng bình thường. Thông thường không cần điều trị, ngoài các biện pháp phòng ngừa mất nước. Không có tiêu chí xác định rõ khi nào thì nên bắt đầu điều trị, và việc điều trị là không bắt buộc ngay cả khi xảy ra tiêu chảy trong hơn 7 ngày; tuy nhiên, một số bác sĩ có thể chọn điều trị nhiễm trùng ngay khi có chẩn đoán. Bệnh có thể kéo dài và kháng điều trị ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch. Liệu pháp điều trị kháng vi khuẩn có thể cải thiện các triệu chứng, nhưng hiếm khi chữa khỏi hẳn bệnh mà vẫn thường xuyên tái phát khi ngừng điều trị. Nhìn chung, nguyên tắc điều trị ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch đó là giải quyết tình trạng suy giảm miễn dịch tiềm ẩn, rồi sau đó hệ miễn dịch sẽ cải thiện bệnh nhiễm khuẩn cryptosporidium. Paromomycin hay nitazoxanide được khuyến cáo cho Cryptosporidium.

Bệnh nhân nhiễm Microsporidium và bị suy giảm miễn dịch được điều trị bằng albendazole; thông thường, bệnh nhân có sức đề kháng bình thường không cần điều trị bằng kháng sinh.

Entamoeba histolytica được điều trị bằng metronidazole và paromomycin hoặc diiodohydroxyquin.

Không nên điều trị E coli (xuất huyết ruột [sinh độc tố Shiga]) bằng thuốc kháng sinh.

Viêm dạ dày ruột do Listeria là bệnh tự khỏi, nhưng nằm ở nhóm nguy cơ cao, chẳng hạn như ở bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, người có bằng chứng bị bệnh xâm lấn và phụ nữ mang thai. Khuyến cáo nên điều trị bằng ampicillin hoặc trimethoprim/sulfamethoxazole trong 2 tuần nếu bị dị ứng với penicillin.[38]

Brucella được điều trị bằng doxycycline, rifampicin hoặc một loại aminoglycoside. Có tới 20% số bệnh nhân được điều trị bằng liệu pháp đơn đã bị tái phát bệnh. Do đó, thường có khuyến cáo nên kết hợp với các loại kháng sinh.[39]

Thông thường, bệnh sán lá được điều trị bằng praziquantel;[2] tuy nhiên, nên hỏi ý kiến chuyên gia bởi liều lượng dùng khác nhau tùy vào loại sán lá gan. Khuyến cáo nên dùng triclabendazole đối với các loài Fasciola; tuy nhiên, loại thuốc này không sẵn có ở một số quốc gia.

Ngộ độc botulism

Ngộ độc thịt do thực phẩm được khuyến cáo điều trị có cơ sở nếu có nghi ngờ lâm sàng. Bệnh này thuộc diện cần khai báo và thường thì thuốc kháng độc tố chỉ được cung cấp qua một cơ quan chức năng địa phương/Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ. Thuốc kháng độc tố (gốc equine) nên được cho dùng qua tĩnh mạch theo khuyến cáo của nhà sản xuất.[40]

Tổng quan về các chi tiết điều trị

Lưu ý là dạng bào chế và liều dùng có thể khác nhau giữa các thuốc và dạng biệt dược, công thức, hoặc đường dùng.

Khuyến nghị điều trị cụ thể cho các nhóm bệnh nhân: xem phần miễn trừ trách nhiệm

Bắt đầu (tóm tắt)
Bệnh nhẹ đến vừa
1 Bù nước đường uống
Bổ sung Thuốc kháng nhu động
Bổ sung Thuốc chống tiêu chảy
Bệnh nặng
1 Bù nước truyền tĩnh mạch
  • Tiêu chảy > 3 ngày và/hoặc các triệu chứng toàn thân
Thêm Điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm
Nghi ngờ ngộ độc thịt do thực phẩm
1 Kháng độc tố + chăm sóc hỗ trợ
Cấp tính (tóm tắt)
Vi sinh vật nhiễm trùng đã biết
  • Các loài Shigella
1 Fluoroquinolone hoặc trimethoprim/ sulfamethoxazole
  • Các loài Salmonella không gây thương hàn
1 Fluoroquinolone hoặc trimethoprim/ sulfamethoxazole
  • Khuẩn Escherichia coli gây xuất huyết đường ruột (sản sinh độc tố Shiga)
1 Bù nước và chăm sóc hỗ trợ (không dùng kháng sinh)
  • Các loài Escherichia coli (không bao gồm các loài gây xuất huyết đường ruột [sản sinh độc tố Shiga])
1 Fluoroquinolone
  • Loài Campylobacter
1 Quinolone hoặc macrolide
  • Các loài Yersinia
1 Fluoroquinolone hay doxycycline hay aminoglycoside
  • Vibrio cholerae + Vibrio parahaemolyticus
1 Bù nước + thuốc kháng sinh
  • Độc tố ruột Staphylococcus aureus
1 Chăm sóc hỗ trợ ± tham khảo ý kiến của chuyên gia về bệnh truyền nhiễm/vi sinh học
  • Các loài Giardia
1 Kháng ký sinh
  • Các loài Cryptosporidium
1 Paromomycin hoặc nitazoxanide
  • Cystoisospora belli
1 Trimethoprim/sulfamethoxazole hoặc pyrimethamine và folinic acid
  • Các loài Microsporidium và tình trạng suy giảm miễn dịch
1 Albendazole
  • Entamoeba histolytica
1 Metronidazole + paromomycin hoặc diiodohydroxyquinoline
  • Listeria monocytogenes
1 Ampicillin hoặc trimethoprim/sulfamethoxazole
  • Bệnh Brucella
1 Điều trị kháng sinh kết hợp
  • Xác nhận bị bệnh ngộ độc thịt
1 Antitoxin
  • Trematoda
1 Praziquantel hoặc triclabendazole

Các lựa chọn điều trị

Lưu ý là dạng bào chế và liều dùng có thể khác nhau giữa các thuốc và dạng biệt dược, công thức, hoặc đường dùng.

Khuyến nghị điều trị cụ thể cho các nhóm bệnh nhân: xem phần miễn trừ trách nhiệm

Bắt đầu (tóm tắt)
Bệnh nhẹ đến vừa
1 Bù nước đường uống
» Uống bù nước bằng cách cho uống nước trắng và dung dịch chứa natri và glucose. Một loại dung dịch bù nước qua đường uống (ORS) đơn giản có thể bao gồm 1 muỗng cà phê muối và 4 muỗng cà phê đường thêm vào 1 lít nước.

» ORS thúc đẩy quá trình đồng vận chuyển glucose, natri và nước qua biểu mô ruột, cơ chế không bị ảnh hưởng trong bệnh dịch tả.

» Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo nên uống một dung dịch chứa 3,5 g clorua natri, 2,5 g bicacbonat natri, 1,5 g clorua kali và 20 g glucose trên một lít nước.

Bổ sung Thuốc kháng nhu động
Biện pháp điều trị được khuyến nghị cho MỘT SỐ bệnh nhân trong nhóm bệnh nhân được chọn

Các lựa chọn sơ cấp

» codeine phosphate: 15-60 mg uống 6-8 giờ một lần khi cần, tối đa 240 mg/ngày

» Không nên sử dụng thuốc kháng nhu động (dẫn xuất thuốc phiện) ở những bệnh nhân bị sốt, ngộ độc toàn thân hoặc tiêu chảy ra máu, hay ở những bệnh nhân có tình trạng không cải thiện hoặc ngày càng xấu đi.

» Có thể kê thuốc kháng nhu động hoặc thuốc chống tiêu chảy (ví dụ: loperamide) cho bệnh nhân bị tiêu chảy ra nước không biến chứng, người bị tiêu chảy ảnh hưởng tới khả năng làm việc hoặc người bị tiêu chảy khi đi du lịch.[33]

Bổ sung Thuốc chống tiêu chảy
Biện pháp điều trị được khuyến nghị cho MỘT SỐ bệnh nhân trong nhóm bệnh nhân được chọn

Các lựa chọn sơ cấp

» aluminium hydroxide: tham khảo tài liệu về sản phẩm để có hướng dẫn về liều dùng

HOẶC

» bismuth subsalicylate: tham khảo tài liệu về sản phẩm để có hướng dẫn về liều dùng

HOẶC

» diphenoxylate/atropine: 5 mg đường uống mỗi

6-12 giờ khi cần, tối đa 20 mg/ngày

Liều dùng liên quan đến thành phần diphenoxylate.

HOẶC

» loperamide: 4 mg uống cho liều đầu tiên, sau đó là 2 mg sau mỗi lần đi ngoài phân lỏng, tối đa 16 mg/ngày

» Hiện người ta vẫn đang bàn về giá trị của thuốc kháng nhu động hoặc thuốc chống tiêu chảy không kê đơn (ví dụ: loperamide) ở những bệnh nhân bị tiêu chảy mức độ nhẹ đến trung bình. Những loại thuốc này có thể được kê cho bệnh nhân bị tiêu chảy ảnh hưởng tới khả năng làm việc hoặc người bị tiêu chảy khi đi du lịch.[33]

» Các chất hấp thụ (ví dụ: nhôm hidroxit) giúp bệnh nhân kiểm soát tốt hơn về thời điểm đi tiêu, nhưng không làm thay đổi tiến trình bệnh hay giảm lượng chất lỏng mất đi. Các chất kháng bài tiết (ví dụ: bitmut) có thể giúp ích.

» Chất hấp thụ có thể làm giảm sự hấp thụ digoxin, clindamycin, các loại tetracycline và penicillamine.

» Trong những trường hợp ở mức độ nhẹ, loperamide là chất có hiệu quả và an toàn. Khi nghi bị nhiễm mầm bệnh xâm lấn, nhìn chung là người bệnh nên tránh dùng các loại thuốc chống tiêu chảy tập trung vào tính nhu động.

» Tình trạng giảm nhu động ruột ở những bệnh nhân dùng diphenoxylate/atropine có thể gây hại nếu bệnh nhân đó bị tiêu chảy do vi sinh vật Shigella hay Salmonella.

Bệnh nặng
1 Bù nước truyền tĩnh mạch
» Dung dịch Ringer lactat hay dung dịch nước muối thường. Cả hai loại chất lỏng này về cơ bản đề có tính đẳng trương và khả năng phục hồi thể tích tương đương. Mặc dù ta quan sát được có một số khác biệt giữa các thay đổi về chuyển hóa khi dùng lượng lớn một trong hai loại dung dịch này, song nếu xét về mục đích thực tiễn và trong hầu hết các trường hợp, khác biệt ấy không có ý nghĩa về mặt lâm sàng. Không có khác biệt đáng kể về ảnh hưởng huyết động, tỷ lệ mắc bệnh hay tỷ lệ tử vong giữa phương pháp hồi sức dùng dung dịch nước muối thường hay dung dịch Ringer lactat.

» Bác sĩ hay chỉ định truyền dung dịch qua tĩnh mạch cho những bệnh nhân bị mất nước nặng hoặc nôn mửa khó trị.
» Nhìn chung, ta có thể tiến hành bù nước nhanh mà không gặp biến chứng nào cả. Ví dụ, nếu một người trưởng thành nặng 75 kg bị mất nước 10%, và thiếu 5-7 L chất lỏng, vậy thì phần thể tích này có thể được bổ sung trong 2-4 giờ (cụ thể: 2-4 L/giờ).
» Do dịch phân thường chứa 70 mmol/L kali nên có thể xảy ra tình trạng suy giảm kali và người bệnh có thể cần được thay thế kali, nhưng không được vượt quá 10 mEq/giờ nếu dùng cách truyền tĩnh mạch.

  • Tiêu chảy > 3 ngày và/hoặc các triệu chứng toàn thân
Thêm Điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm
Biện pháp điều trị được khuyến nghị cho TẤT CẢ bệnh nhân trong nhóm bệnh nhân được chọn
Các lựa chọn sơ cấp
» Ciprofloxacin: 500 mg đường uống mỗi ngày hai lần
HOẶC
» gốc erythromycin: 500 mg đường uống mỗi ngày hai lần
HOẶC
» metronidazole: 500 mg đường uống mỗi ngày ba lần
HOẶC
» amoxicillin/clavulanate: 500 mg đường uống mỗi ngày ba lần
Liều dùng tính theo thành phần amoxicillin.
Các lựa chọn thứ cấp
» clarithromycin: 250 mg đường uống mỗi ngày hai lần
HOẶC
» azithromycin: 1000-1500 mg đường uống dưới dạng liều đơn, hoặc 500mg mỗi ngày một lần trong 3 ngày
» Nếu không bị kiết lỵ thì không nên dùng kháng sinh cho tới khi có khẳng định từ chẩn đoán vi sinh học và loại trừ khả năng nhiễm khuẩn Escherichia coli gây xuất huyết đường ruột và sản sinh độc tố Shiga (ví dụ: O157:H7). Không có bằng chứng nào cho thấy việc điều trị bằng kháng sinh sẽ giúp ích trong trường hợp nhiễm khuẩn E coli gây xuất huyết đường ruột và sản sinh độc tố Shiga, thậm chí việc dùng kháng sinh còn có thể’ làm tăng nguy cơ mắc hội chứng huyết tán tăng urê máu.[41] [42] » Với những bệnh nhân bị tiêu chảy hơn 3 ngày và sốt, đau bụng, nôn mửa, đau đầu hay đau cơ, nêu điều trị bằng thuốc chống vi sinh vật Shigella (ví dụ: fluoroquinolone). Tuy nhiên, trong trường hợp nhiễm Campylobacter, nếu không cho dùng kháng sinh sớm (trong vòng 72 giờ) thì kháng sinh sẽ không có tác dụng. Ngoài ra, tình trạng Campylobacter kháng fluoroquinolone đang trở nên phổ biến, vậy nên ta có thể’ chọn giải pháp thay thế là trị liệu bằng kháng sinh macrolide (ví dụ: erythromycin). Điều trị bậc hai bao gồm clarithromycin và azithromycin.
» Nếu nguyên nhân gây tiêu chảy không máu có khả năng liên quan đến Clostridium difficile hoặc nhiễm khuẩn trong ổ bụng, nên chọn kháng sinh điều trị theo kinh nghiệm tiêu diệt các vi khuẩn kỵ khí (ví dụ: metronidazole hoặc amoxicillin/clavulanate).
» Nhiễm khuẩn E coli gây độc tố ruột (ETEC) (tiêu chảy ở khách du lịch) chủ yếu tự khỏi, nhưng vẫn có thể’ là dấu hiệu cho phép kê đơn dùng kháng sinh theo kinh nghiệm như fluoroquinolone. Nên đề xuất dùng kháng sinh trong các ca bệnh nặng, thường là trong khi bệnh nhân vẫn đi du lịch, nếu thuốc có thể’ rút ngắn thời gian bị bệnh.[35] » Hầu hết các loại kháng sinh được kê dùng trong 5-10 ngày tùy vào mầm bệnh nghi nhiễm hoặc được cách ly. Bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch có thể’ cần thuốc kháng vi khuẩn mạnh hơn, đặc hiệu hơn và trong thời gian lâu hơn.
» Cần thường xuyên theo dõi tiến triển bệnh để đảm bảo cách điều trị theo kinh nghiệm có hiệu quả.
Nghi ngờ ngộ độc thịt do thực phẩm
1 Kháng độc tố + chăm sóc hỗ trợ
  » Độc tố mà khuẩn Clostridium botulinum sản sinh ra gây nên triệu chứng.

» Cần phải khai báo, thảo luận với cơ quan chức năng địa phương/Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ để cung cấp kháng độc tố.[40]

» Kháng độc tố có tác dụng chặn độc tố mà C botulinum sản sinh ra.

» Chăm sóc hỗ trợ là cơ sở điều trị chính với ngộ độc botulism. Bệnh nhân nghi hoặc khẳng định mắc bệnh ngộ độc thịt cần được tiến hành hàng loạt đánh giá về dung tích phổi sống ở đơn vị chăm sóc tích cực. Ngoài ra, cần đánh giá bệnh nhân về mức độ phản xạ yết hầu và ho, kiểm soát tiết dịch họng-thanh quản, độ bão hoà oxy và lực hít vào. Cần xem xét cho thở máy với bất kỳ bệnh nhân nào bị suy giảm đường thở trên (do liệt cơ hầu) hoặc giảm dung tích sống.
» Có thể thử rửa dạ dày nếu mới tiếp xúc với đồ ăn, nhưng phải đặt ống nội khí quản để tránh tình trạng hút ngược. Nếu không bị tắc ruột, bạn có thể dùng dụng cụ thụt để loại bỏ độc tố chưa hấp thụ khỏi đường tiêu hóa.

Cấp tính (tóm tắt)
Vi sinh vật nhiễm trùng đã biết
  • Các loài Shigella
1 Fluoroquinolone hoặc trimethoprim/ sulfamethoxazole
Các lựa chọn sơ cấp
» Ciprofloxacin: 500 mg đường uống mỗi ngày hai lần trong 3 ngày
Các lựa chọn thứ cấp
» Trimethoprim/sulfamethoxazole: 160/800 mg đường uống mỗi ngày hai lần trong 3 ngày
» Hầu hết các trường hợp mắc bệnh shigella đều ở mức nhẹ và tự khỏi. Trong các trường hợp nặng hơn, điều trị bù nước là một biện pháp có vai trò quan trọng cùng với hỗ trợ dinh dưỡng và dùng kháng sinh.[43] Trong các trường hợp đó, điều trị kháng sinh giúp cải thiện triệu chứng, điều trị nhiễm trùng và hạn chế sự lây lan của bệnh.
» Quinolone thường được cho sử dụng như liệu pháp bậc một, nhưng thuốc này không có tác dụng với vi khuẩn kỵ khí. Trimethoprim/sulfamethoxazole là một liệu pháp thay thế, nhưng có nhiều loại vi sinh vật kháng thuốc phổ biến ở vùng nhiệt đới và phương Tây.
» Bạn nên thảo luận mọi biện pháp điều trị kháng vi khuẩn đặc hiệu với chuyên gia ở địa phương về vi sinh học/bệnh truyền nhiễm để xác định xu thế nhạy cảm ở địa phương.
  • Các loài Salmonella không gây thương hàn
1 Fluoroquinolone hoặc trimethoprim/ sulfamethoxazole
Các lựa chọn sơ cấp
» Ciprofloxacin: 500 mg đường uống mỗi ngày hai lần trong 3 ngày
Các lựa chọn thứ cấp» Trimethoprim/sulfamethoxazole: 160/800 mg đường uống mỗi ngày hai lần trong 3 ngày
» Các loài Salmonella không gây thương hàn bao gồm tất cả các loài và kiểu huyết thanh của Salmonella, không bao gồm Salmonella typhi và S Paratyphi, nguyên nhân gây sốt trong ruột.
» Người ta không thường xuyên khuyên dùng kháng sinh, nhưng nếu tình trạng nặng hoặc bệnh nhân dưới 6 tháng tuổi hoặc trên 50 tuổi, hoặc có bộ phận giả, bị bệnh van tim, xơ vữa động mạch nặng, ác tính hay tăng urê huyết, nên điều trị bằng cách này trong 5-7 ngày. Bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch có thể cần điều trị trong 14 ngày.
» Trên Cochrane có một bài đánh giá nói rằng không có khác biệt giữa việc cho dùng kháng sinh và không dùng kháng sinh về phương diện thời gian và mức độ của tiêu chảy, tình trạng có sốt hoặc thời gian bị bệnh ở những bệnh nhân nhiễm Salmonella không gây thương hàn. Mặc dù kháng sinh đảm bảo có nhiều mẫu cấy phân âm tính hơn trong tuần đầu tiên, song tỷ lệ dương tính trong kiểu huyết thanh Salmonella tương tự lại tăng gấp đôi sau 1 tháng điều trị.[36] » Quinolone thường được cho sử dụng như liệu pháp bậc một, nhưng thuốc này không có tác dụng với vi khuẩn kỵ khí. Trimethoprim/sulfamethoxazole chỉ được dùng trong những trường hợp đặc biệt như là trẻ nhỏ (dưới 1 tuổi), người bị suy giảm miễn dịch hay nhiễm trùng khu trú.
» Bạn nên thảo luận mọi biện pháp điều trị kháng vi khuẩn đặc hiệu với chuyên gia ở địa phương về vi sinh học/bệnh truyền nhiễm để xác định xu thế nhạy cảm ở địa phương.
  • Khuẩn Escherichia coli gây xuất huyết đường ruột (sản sinh độc tố Shiga)
1 Bù nước và chăm sóc hỗ trợ (không dùng kháng sinh)
» E coli O157:H7 gây viêm đại tràng xuất huyết. Ở độ tuổi rất nhỏ, có tới 15% số nạn nhân bị viêm đại tràng xuất huyết có thể hình thành hội chứng huyết tán tăng urê máu (HUS). Người già có thể bị ban xuất huyết do giảm tiểu cầu.[41] [44] » Điều trị giảm nhẹ không cụ thể, bao gồm bù nước, có vai trò quan trọng.[45] Quan trọng là phải duy trì độ bù nước tốt để giảm thiểu khả năng bị tổn thương thận.[46] » Do đó, không nên sử dụng kháng sinh để điều trị chứng nhiễm trùng này. Không có bằng chứng nào cho thấy việc điều trị bằng kháng sinh sẽ giúp ích, thậm chí việc dùng kháng sinh còn có thể làm tăng nguy cơ mắc HUS.[41] [42]» Các chất kháng nhu động đã được chứng minh làm tăng nguy cơ mắc HUS và các biến chứng hệ thần kinh trung ương.[47]
  • Các loài Escherichia coli (không bao gồm các loài gây xuất huyết đường ruột [sản sinh độc tố Shiga])
1 Fluoroquinolone
Các lựa chọn sơ cấp

» Ciprofloxacin: 500 mg đường uống mỗi ngày hai lần trong 3 ngày
» Nhìn chung, người nhiễm khuẩn E coli gây tiêu chảy sẽ đáp ứng với liệu pháp điều trị giảm nhẹ. Tuy nhiên, với những bệnh nhân nhiễm khuẩn E coli sinh độc tố ruột (ETEC) (tiêu chảy ở khách du lịch) thì nên đề xuất dùng kháng sinh trong các ca bệnh nặng, thường là trong khi bệnh nhân vẫn đi du lịch, nếu thuốc có thể rút ngắn thời gian bị bệnh.[35] » Quinolone thường được cho sử dụng như liệu pháp bậc một, nhưng thuốc này không có tác dụng với vi khuẩn kỵ khí.

  • Loài Campylobacter
1 Quinolone hoặc macrolide
Các lựa chọn sơ cấp
» Ciprofloxacin: 500 mg đường uống mỗi ngày hai lần trong 3 ngày
HOẶC
» gốc erythromycin: 500 mg đường uống mỗi ngày hai lần trong 5 ngày
» Quinolone là liệu pháp bậc một; tuy nhiên, có tới 30% số ca kháng thuốc và thuốc có thể có hiệu lực thấp và khi đó thì khuyến nghị nên dùng erythromycin. Việc điều trị có thể có hiệu quả nếu được bắt đầu từ rất sớm, nhưng thường không có hiệu quả lắm nếu chỉ được tiến hành sau khi có chẩn đoán vi sinh học. Kháng thuốc là một vấn đề nghiêm trọng. Do đó, nền tảng vẫn là bù nước và chăm sóc hỗ trợ.[37] » Bạn nên thảo luận mọi biện pháp điều trị kháng vi khuẩn đặc hiệu với chuyên gia ở địa phương về vi sinh học/bệnh truyền nhiễm để xác định xu thế nhạy cảm ở địa phương.
  • Các loài Yersinia
1 Fluoroquinolone hay doxycycline hay aminoglycoside
Các lựa chọn sơ cấp
» Ciprofloxacin: 500 mg đường uống mỗi ngày hai lần trong 3 ngày
HOẶC» Doxycycline: 200 mg đường uống/tĩnh mạch cho liều đầu tiên, sau đó là 100 mg hai lần một ngày trong 3 ngày; hoặc 100-200 mg đường uống/tĩnh mạch hai lần một ngày trong 14 ngày
HOẶC
» paromomycin: 500 mg đường uống mỗi ngày ba lần trong 5-10 ngày
» Thường không cần dùng kháng sinh, nhưng với trường hợp nhiễm trùng nặng hoặc đi kèm với vãng khuẩn huyết thì nên tiến hành điều trị như với người bệnh bị suy giảm miễn dịch bằng các chất kháng vi khuẩn đặc hiệu mạnh hơn và trong thời gian lâu hơn.
» Bạn nên thảo luận mọi biện pháp điều trị kháng vi khuẩn đặc hiệu với chuyên gia ở địa phương về vi sinh học/bệnh truyền nhiễm để xác định xu thế nhạy cảm ở địa phương.
  • Vibrio cholerae + Vibrio parahaemolyticus
1 Bù nước + thuốc kháng sinh
Các lựa chọn sơ cấp
» Ciprofloxacin: 500 mg đường uống mỗi ngày hai lần trong 3 ngày
HOẶC
» Doxycycline: 300 g đường uống dưới dạng liều đơn
HOẶC
» tetracycline: 500 mg đường uống bốn lần mỗi ngày trong 3 ngày
Các lựa chọn thứ cấp
» azithromycin: 500 mg đường uống mỗi ngày một lần trong 3 ngày
» Về cơ bản, tái bù nước khẩn cấp là yếu tố quan trọng nhất trong điều trị và nên được tiến hành ngay khi có thể’. Kháng sinh làm giảm cả mức đô nghiêm trọng và thời gian mắc bệnh và nên được dùng với trường hợp mắc bệnh nặng nếu có thể. Tình trạng tăng tỷ lệ kháng thuốc của Vibrio cholerae đồng nghĩa với việc phải rất chú trọng tới việc lựa chọn dựa vào dịch tễ học ở địa phương.
  • Độc tố ruột Staphylococcus aureus
1 Chăm sóc hỗ trợ ± tham khảo ý kiến của chuyên gia về bệnh truyền nhiễm/vi sinh học
» Nhiễm khuẩn S aureus gây nôn do độc tố ruột thường tự khỏi và chỉ cần điều trị hỗ trợ là đủ.

» Nếu đi kèm với vãng khuẩn huyết thì nên hỏi ý kiến chuyên gia về bệnh truyền nhiễm/vi sinh học.

  • Các loài Giardia
1 Kháng ký sinh
Các lựa chọn sơ cấp
» metronidazole: 250-750 mg đường uống mỗi ngày ba lần trong 7-10 ngày
HOẶC
» tinidazole: 2 g đường uống dưới dạng liều đơn
HOẶC
» nitazoxanide: 500 mg đường uống mỗi ngày hai lần trong 3 ngày
Các lựa chọn thứ cấp
» paromomycin: 25-35 mg/kg/ngày đường uống chia làm 3 liều trong 5-10 ngày
HOẶC
» furazolidone: 100 mg đường uống mỗi ngày bốn lần trong 7-10 ngày
HOẶC
» mepacrine: 100 mg đường uống mỗi ngày ba lần trong 5 ngày
» Cần điều trị cả bệnh nhân có triệu chứng lẫn người mang bệnh không có triệu chứng ở vùng không lưu hành dịch. Việc điều trị bệnh nhân không có triệu chứng ở vùng lưu hành dịch có thể không đem lại hiệu quả bởi tỷ lệ tái phát là rất cao.[48] » Giardia thường được điều trị bằng tinidazole hoặc metronidazole.
» Bạn nên thảo luận mọi biện pháp điều trị kháng vi khuẩn đặc hiệu với chuyên gia ở địa phương về vi sinh học/bệnh truyền nhiễm để xác định xu thế nhạy cảm ở địa phương.
  • Các loài Cryptosporidium
1 Paromomycin hoặc nitazoxanide
Các lựa chọn sơ cấp
» paromomycin: 500 mg đường uống mỗi ngày ba lần trong 7 ngày
HOẶC» nitazoxanide: 500 mg đường uống mỗi ngày hai lần trong 3 ngày
» Bệnh tự khỏi ở bệnh nhân sức đề kháng bình thường. Bình thường, ngoài các biện pháp ngăn chặn mất nước thì không cần biện pháp nào khác. Không có tiêu chí xác định rõ khi nào thì nên bắt đầu điều trị, và việc điều trị là không bắt buộc ngay cả khi xảy ra tiêu chảy trong hơn 7 ngày; tuy nhiên, một số bác sĩ có thể chọn điều trị nhiễm trùng ngay khi có chẩn đoán.
» Bệnh có thể kéo dài và kháng điều trị ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch. Liệu pháp điều trị kháng vi khuẩn có thể cải thiện các triệu chứng, nhưng hiếm khi chữa khỏi hẳn bệnh mà vẫn thường xuyên tái phát khi ngừng điều trị. Nhìn chung, nguyên tắc điều trị ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch đó là giải quyết tình trạng suy giảm miễn dịch, rồi sau đó hệ miễn dịch sẽ cải thiện bệnh nhiễm khuẩn cryptosporidium. Bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch có thể cần phác đồ điều trị lâu hơn.
» Bạn nên thảo luận mọi biện pháp điều trị kháng vi khuẩn đặc hiệu với chuyên gia ở địa phương về vi sinh học/bệnh truyền nhiễm để xác định xu thế nhạy cảm ở địa phương.
  • Cystoisospora belli
1 Trimethoprim/sulfamethoxazole hoặc pyrimethamine và folinic acid
Các lựa chọn sơ cấp
» Trimethoprim/sulfamethoxazole: người có sức đề kháng bình thường: 160/800 mg đường uống hai lần mỗi ngày trong 7 ngày; người bị ức chế miễn dịch: 160/800 mg đường uống bốn lần mỗi ngày trong 3 đến 4 tuần
Các lựa chọn thứ cấp
» pyrimethamine: 50-75 mg đường uống mỗi ngày một lần
HOẶC
» folinic acid: 10-25 mg/ngày đường uống
» Isospora belli đã được đổi tên và xếp vào chi Cystoisospora. Bệnh thường tự khỏi ở bệnh nhân có sức đề kháng bình thường. Bệnh nhân bị ức chế miễn dịch có thể cần liều lượng cao hơn và thời gian điều trị lâu hơn.
» Bạn nên thảo luận mọi biện pháp điều trị kháng vi khuẩn đặc hiệu với chuyên gia ở địa phương về vi sinh học/bệnh truyền nhiễm để xác định xu thế nhạy cảm ở địa phương.
  • Các loài Microsporidium và tình trạng suy giảm miễn dịch
1 Albendazole
Các lựa chọn sơ cấp
» albendazole: 400 mg đường uống hai lần mỗi ngày trong 3 tuần
» Bệnh nhân nhiễm Microsporidium và bị suy giảm miễn dịch được điều trị bằng albendazole. Với bệnh nhân có sức đề kháng bình thường, họ thường không cần điều trị bằng kháng sinh.
» Bạn nên thảo luận mọi biện pháp điều trị kháng vi khuẩn đặc hiệu với chuyên gia ở địa phương về vi sinh học/bệnh truyền nhiễm để xác định xu thế nhạy cảm ở địa phương.
  • Entamoeba histolytica
1 Metronidazole + paromomycin hoặc diiodohydroxyquinoline
Các lựa chọn sơ cấp
» metronidazole: 250-750 mg uống mỗi ngày ba lần trong 5-10 ngày
–VÀ–
» paromomycin: 500 mg đường uống mỗi ngày ba lần trong 7 ngày
-hoặc-
» diiodohydroxyquinoline: 630-650 mg đường uống mỗi ngày ba lần trong 20 ngày
» Tất cả các trường hợp nhiễm Entamoeba histolytica đều nên được điều trị như bệnh có khả năng gây chết người.[49] [50] » Với những bệnh nhân có triệu chứng, ban đầu nên cho họ dùng một loại nitroimidazole (ví dụ: metronidazole), sau đó là thuốc bacbiturat gây mê (paromomycin hoặc diiodohydroxyquinoline) để loại trừ hoàn toàn tình trạng làm tổ trong ruột và ngăn chặn tái phát.[49] [50] [51]
  • Listeria monocytogenes
1 Ampicillin hoặc trimethoprim/sulfamethoxazole
Các lựa chọn sơ cấp
» ampicillin: 500 mg đường uống bốn lần mỗi ngày trong 14 ngày
HOẶC
» Trimethoprim/sulfamethoxazole: 160/800 mg đường uống hai lần mỗi ngày trong 14 ngày
» Viêm dạ dày ruột do Listeria là bệnh tự khỏi, nhưng nằm ở nhóm nguy cơ cao, chẳng hạn như ở bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, người có bằng chứng bị bệnh xâm lấn và phụ nữ mang thai. Khuyến cáo nên điều trị bằng ampicillin hoặc trimethoprim/sulfamethoxazole trong 2 tuần nếu bị dị ứng với penicillin.[38]
  • Bệnh Brucella
1 Điều trị kháng sinh kết hợp
Các lựa chọn sơ cấp

» Doxycycline: 100 mg đường uống/tĩnh mạch hai lần mỗi ngày
–VÀ–
» gentamicin: 5 mg/kg tiêm vào cơ/tĩnh mạch mỗi ngày một lần
-hoặc-
» streptomycin: 1 g tiêm vào cơ mỗi ngày một lần
HOẶC
ĐIỀU TRỊ
» Doxycycline: 100 mg đường uống mỗi ngày hai lần
-và-
» rifampicin: 600 mg đường uống mỗi ngày một lần
» Brucella được điều trị bằng doxycycline, rifampicin hoặc một loại aminoglycoside (ví dụ: gentamicin, streptomycin). Có tới 20% số bệnh nhân được điều trị bằng liệu phát đơn đã bị tái phát bệnh. Do đó, thường có khuyến cáo nên kết hợp với các loại kháng sinh.[39]

  • Xác nhận bị bệnh ngộ độc thịt
1 Antitoxin
» Cần phải khai báo, thảo luận với cơ quan chức năng địa phương/Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ để cung cấp kháng độc tố.
» Kháng độc tố có tác dụng chặn độc tố mà Clostridium botulinum sản sinh ra.
» Chăm sóc hỗ trợ là cơ sở điều trị chính với ngộ độc botulism. Bệnh nhân nghi hoặc khẳng định mắc bệnh ngộ độc thịt cần được tiến hành hàng loạt đánh giá về dung tích phổi sống ở đơn vị chăm sóc tích cực. Ngoài ra, cần đánh giá bệnh nhân về mức độ phản xạ yết hầu và ho, kiểm soát tiết dịch họng-thanh quản, độ bão hoà oxy và lực hít vào. Cần xem xét cho thở máy với bất kỳ bệnh nhân nào bị suy giảm đường thở trên (do liệt cơ hầu) hoặc giảm dung tích sống.
» Có thể thử rửa dạ dày nếu mới tiếp xúc với đồ ăn, nhưng phải đặt ống nội khí quản để tránh tình trạng hút ngược. Nếu không bị tắc ruột, bạn có thể dùng dụng cụ thụt để loại bỏ độc tố chưa hấp thụ khỏi đường tiêu hóa.
  • Trematoda
1 Praziquantel hoặc triclabendazole
Các lựa chọn sơ cấp

» praziquantel: tham khảo ý kiến chuyên gia để có hướng dẫn về liều dùng
HOẶC
» triclabendazole: tham khảo ý kiến chuyên gia để có hướng dẫn về liều dùng
» Thông thường, bệnh sán lá được điều trị bằng praziquantel;[2] tuy nhiên, nên hỏi ý kiến chuyên gia bởi liều lượng dùng khác nhau tùy vào loại sán lá gan. Khuyến cáo nên dùng triclabendazole đối với các loài Fasciola; tuy nhiên, loại thuốc này không sẵn có ở một số quốc gia.

Giai đoạn đầu

Thảo dược

Ở một số vùng trên thế giới, đặc biệt là nơi có hạn chế trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe do các rào cản kinh tế hoặc địa lý, một số bệnh nhân có thể sử dụng các thảo dược. Mặc dù chưa có các bằng chứng từ thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng, các nghiên cứu ban đầu chứng tỏ triển vọng và đã cho thấy các lĩnh vực cần tập trung nghiên cứu trong tương lai.[52]

Liên lạc theo dõi

Khuyến nghị

Giám sát

Cần đảm bảo rằng bệnh nhân bị bệnh tiêu chảy do vi khuẩn hoặc ký sinh trùng được xác nhận qua xét nghiệm trong phòng thí nghiệm đã được chữa khỏi hay không còn phân nhiễm bệnh, đặc biệt là trong số các nhân viên xử lý thực phẩm và nhân viên y tế, người có thể truyền bệnh do vi khuẩn và ký sinh trùng ngay cả khi họ không có triệu chứng bệnh (có 2 mẫu phân liên tiếp âm tính được lấy cách nhau 24 giờ và ít nhất là 48 giờ sau khi các triệu chứng đã hết).

Nếu bệnh nhân đã được điều trị bằng kháng vi sinh vật, mẫu phân đầu tiên cần được lấy ít nhất là 48 giờ sau liều cuối cùng.[1] [53] [54]

Hướng dẫn dành cho bệnh nhân

Bệnh nhân bị ngộ độc thực phẩm cần được theo dõi chặt chẽ và được phổ biến kiến thức về các biến chứng tiềm tàng.

Do việc bù nước đủ là cơ sở của trị liệu, tất cả bệnh nhân không có khả năng uống bằng miệng cần được hướng dẫn liên hệ với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc của họ hoặc quay lại trung tâm chăm sóc y tế.

Nhiều bệnh tiêu chảy có thể được ngăn chặn bằng việc tuân thủ các quy tắc vệ sinh đơn giản và chế biến thực phẩm an toàn. Rửa tay bằng xà phòng là một cách hiệu quả để ngăn chặn sự lây lan của bệnh và cần được nhấn mạnh đối với những người chăm sóc cho người mắc bệnh tiêu chảy. Nước rửa tay gốc cồn là một biện pháp bổ sung hữu ích, nhưng thường không diệt được vi-rút, khi đó ta phải cần tới xà phòng. Phải luôn coi phân người là ẩn chứa nguy cơ gây bệnh, dù bệnh tiêu chảy hoặc mầm bệnh tiềm tàng đã được xác định hay chưa.

Các biến chứng

Các biến chứng Khung thời gian Khả năng
Suy hô hấp và/hoặc liệt do bệnh ngộ độc thịt Ngắn hạn Cao
Có thể xảy ra suy hô hấp, liệt và thậm chí cả tử vong nếu không nhanh chóng điều trị tình trạng này bằng kháng độc tố. Những bệnh nhân này sẽ cần chăm sóc điều dưỡng tăng cường và hỗ trợ về hô hấp.
Hội chứng huyết tán tăng urê máu Ngắn hạn Thấp
Đi kèm với khuẩn Escherichia coli sản sinh độc tố Shiga (ví dụ O157:H7), nhất là khi sử dụng kháng sinh.

Đặc trưng bởi chứng thiếu máu tan máu bệnh lý vi mạch, suy thận cấp và giảm tiểu cầu.

Tiến trình điều trị thường mang tính hỗ trợ, có thẩm tách nếu cần, và truyền tiểu cầu có thể khiến tình trạng trầm trọng hơn.

Các triệu chứng ruột kích thích Dài hạn Trung bình
Có thể xảy ra sau khi bị viêm dạ dày ruột cấp.

Đặc trưng bởi chứng sôi hoặc đau bụng, có giảm nhẹ sau khi đi tiêu và gắn liền với thay đổi về tần suất đại tiện và/ hoặc tính nhất quán, không có bằng chứng cho thấy có biểu hiện hoặc triệu chứng đáng báo động, tổng thời gian triệu chứng trên 6 tháng.

Hội chứng Guillain-Barre Biến thiên Thấp
Một loại bệnh viêm đa rễ thần kinh cấp, tự miễn ảnh hưởng tới hệ thần kinh ngoại biên, thường do một quá trình lây nhiễm cấp tính gây ra (nhất là quá trình gắn liền với nhiễm khuẩn Campylobacter). Bệnh thường diễn biến nặng và có biểu hiện như chứng liệt tăng dần, thể hiện qua tình trạng suy nhược hai chân lan sang các chi trên và mặt cùng với triệu chứng mất hoàn toàn phản xạ gân sâu. Nếu được điều trị nhanh chóng bằng lọc huyết tương, sau đó dùng globulin miễn dịch và chăm sóc hỗ trợ, đa số bệnh nhân sẽ có thể hồi phục đầy đủ chức năng. Tuy nhiên, bệnh nhân có thể tử vong nếu gặp các biến chứng phổi và rối loạn hệ thần kinh thực vật nặng.
Viêm khớp phản ứng Biến thiên Thấp
Một tình trạng bệnh tự miễn dịch phát triển để đáp ứng với một đợt ngộ độc thực phẩm hoặc một nhiễm trùng đường tiêu hóa, đặc biệt với các loài sau: Shigella, Yersinia và Campylobacter.

Các triệu chứng thường xuất hiện trong vòng 1-3 tuần, nhưng có thể dao động từ 4-35 ngày kể từ khi khởi phát cơn đầu tiên.

Tiên lượng

Do hầu hết các trường hợp ngộ độc thực phẩm đều tự khỏi nên không bắt buộc phải chăm sóc theo dõi lâu dài.

Nên theo dõi cấy phân ở những người làm việc tại các cơ sở như bệnh viện, cơ sở ăn uống và trung tâm chăm sóc trẻ em, những người bị nhiễm khuẩn Escherichia coli sản sinh độc tố Shiga (ví dụ: O157:H7), Salmonella, Shigella hoặc Campylobacter cho tới khi thu được kết quả cấy âm tính mà không cần tới kháng sinh. Những người này không nên trở lại làm việc cho tới lúc đó. Trước khi quay lại làm việc, họ nên tìm hiểu thêm thông tin ở Anh Quốc từ Cơ quan Bảo vệ Sức khỏe, Cơ quan Quản lý Tiêu chuẩn Thực phẩm hoặc Cán bộ Sức khỏe Môi trường ở địa phương chịu trách nhiệm về thực phẩm.

Tỷ lệ tử vong là tương đối hiếm (< 0,1%) nhưng có khả năng cao hơn ở nhóm trẻ em, người già, người bị suy giảm miễn dịch hoặc phụ nữ mang thai.[7] Tử vong xảy ra phổ biến hơn ở nhóm bị nhiễm độc tố từ nấm chuỗi dài và cá nóc (tetrodotoxin).

Hướng dẫn

Hướng dẫn chẩn đoán

Châu Âu

A systematic review of the clinical, public health and cost-effectiveness of rapid diagnostic tests for the detection and identification of bacterial intestinal pathogens in faeces and food

Nhà xuất bản: NIHR Health Technology Assessment Programme

Xuất bản lần cuối: 2007

Quốc tế

Foodborne disease outbreaks: guidelines for investigation and control

Nhà xuất bản: World Health Organization

Xuất bản lần cuối: 2008

Bắc Mỹ

Foodborne illnesses and germs

Nhà xuất bản: Centers for Disease Control and Prevention

Practice guidelines for the diagnosis and management of infectious diarrhea

Nhà xuất bản: Infectious Diseases Society of America

Xuất bản lần cuối: 2017

Châu Á

Food-borne disease and food safety in India

Nhà xuất bản: National Centre for Disease Control, Directorate General of Health Services, Government of India

Xuất bản lần cuối: 2017

Hướng dẫn điều trị

Châu Âu

A systematic review of the clinical, public health and cost-effectiveness of rapid diagnostic tests for the detection and identification of bacterial intestinal pathogens in faeces and food

Nhà xuất bản: NIHR Health Technology Assessment Programme

Xuất bản lần cuối: 2007

Quốc tế

Foodborne disease outbreaks: guidelines for investigation and control

Nhà xuất bản: World Health Organization

Xuất bản lần cuối: 2008

Bắc Mỹ

Practice guidelines for the diagnosis and management of infectious diarrhea

Nhà xuất bản: Infectious Diseases Society of America

Xuất bản lần cuối: 2017

American Gastroenterological Association Institute medical position statement on the use of gastrointestinal medications in pregnancy

Nhà xuất bản: American Gastroenterological Association Institute

Xuất bản lần cuối: 2006

Châu Á

Food-borne disease and food safety in India

Nhà xuất bản: National Centre for Disease Control, Directorate General of Health Services, Government of India

Xuất bản lần cuối: 2017

A guide on infectious diseases of public health importance in Singapore

Nhà xuất bản: Ministry of Health, Singapore

Xuất bản lần cuối: 2011

Nguồn trợ giúp trực tuyến

  1. CDC: burden of foodborne illness (external link)
  2. Fight Bac! Partnership for Food Safety Education (external link)
  3. US Government Food Safety Information (external link)
  4. Food Standards Agency (external link)

Các bài báo chủ yếu

  • Shane AL, Mody RK, Crump JA, et al. 2017 Infectious Diseases Society of America clinical practice guidelines for the diagnosis and management of infectious diarrhea. Clin Infect Dis. 2017 Nov 29;65(12):e45-80. Toàn văn Tóm lược
  • Gould LH, Bopp C, Strockbine N, et al. Recommendations for diagnosis of shiga toxin – producing Escherichia coli infections by clinical laboratories. MMWR Recomm Rep. 2009 Oct 16;58(RR-12):1-14. Toàn văn Tóm lược
  • Gendrel D, Cohen R; European Society for Pediatric Infectious Diseases, et al. Bacterial diarrheas and antibiotics: European recommendations [in French]. Arch Pediatr. 2008 Oct;15(suppl 2):S93-6. Tóm lược

Tài liệu tham khảo

  1. American Medical Association, American Nurses Association/American Nurses Foundation, Centers for Disease Control and Prevention, et al. Diagnosis and management of foodborne illnesses: a primer for physicians and other health care professionals. MMWR Recomm Rep. 2004 Apr 16;53(RR-4):1-33. Toàn văn Tóm lược
  2. Furst T, Sayasone S, Odermatt P, et al. Manifestation, diagnosis, and management of foodborne trematodiasis. BMJ. 2012 Jun 26;344:e4093. Toàn văn Tóm lược
  3. O’Brien SJ, Larose TL, Adak GK, et al. Modelling study to estimate the health burden of foodborne diseases: cases, general practice consultations and hospitalisations in the UK, 2009. BMJ Open. 2016 Sep 13;6(9):e011119. Toàn văn Tóm lược
  4. Food Standards Agency. New UK food poisoning figures published. 26 June 2014 [internet publication]. Toàn văn
  5. Scallan E, Griffin PM, Angulo FJ, et al. Foodborne illness acquired in the United States – unspecified agents. Emerg Infect Dis. 2011 Jan;17(1):16-22. Toàn văn Tóm lược
  6. Centers for Disease Control and Prevention. Burden of foodborne illness: findings. July 2016 [internet publication]. Toàn văn
  7. McCabe-Sellers BJ, Beattie SE. Food safety: emerging trends in foodborne illness surveillance and prevention. J Am Diet Assoc. 2004 Nov;104(11):1708-17. Tóm lược
  8. Wallace DJ, Van Gilder T, Shallow S, et al. Incidence of foodborne illnesses reported by the foodborne diseases active surveillance network (FoodNet)-1997. FoodNet Working Group. J Food Prot. 2000 Jun;63(6):807-9. Tóm lược
  9. World Health Organization. Diarrhoea: why children are still dying and what can be done. 2009 [internet publication]. Toàn văn
  10. Pfeiffer ML, DuPont HL, Ochoa TJ. The patient presenting with acute dysentery – a systematic review. J Infect. 2012 Apr;64(4):374-86. Toàn văn Tóm lược
  11. Lal A, Hales S, French N, et al. Seasonality in human zoonotic enteric diseases: a systematic review. PLoS One. 2012;7(4):e31883. Toàn văn Tóm lược
  12. Koopmans M, von Bonsdorff CH, Vinje J, et al. Foodborne viruses. FEMS Microbiol Rev. 2002 Jun;26(2):187-205. Toàn văn Tóm lược
  13. Leclerc H, Schwartzbrod L, Dei-Cas E. Microbial agents associated with waterborne diseases. Crit Rev Microbiol. 2002;28(4):371-409. Tóm lược
  14. Atreya CD. Major foodborne illness causing viruses and current status of vaccines against the diseases. Foodborne Pathog Dis. 2004 Summer;1(2):89-96. Tóm lược
  15. Kasowski EJ, Gackstetter GD, Sharp TW. Foodborne illness: new developments concerning an old problem. Curr Gastroenterol Rep. 2002 Aug;4(4):308-18. Tóm lược
  16. Altekruse SF, Swerdlow DL. The changing epidemiology of foodborne diseases. Am J Med Sci. 1996 Jan;311(1):23-9. Tóm lược
  17. Kendall PA, Hillers VV, Medeiros LC. Food safety guidance for older adults. Clin Infect Dis. 2006 May 1;42(9):1298-304. Toàn văn Tóm lược
  18. Kendall P, Medeiros LC, Hillers V, et al. Food handling behaviors of special importance for pregnant women, infants and young children, the elderly, and immune-compromised people. J Am Diet Assoc. 2003 Dec;103(12):1646-9. Tóm lược
  19. Hillers VN, Medeiros L, Kendall P, et al. Consumer food-handling behaviors associated with prevention of 13 foodborne illnesses. J Food Prot. 2003 Oct;66(10):1893-9. Tóm lược
  20. Medeiros LC, Kendall P, Hillers V, et al. Identification and classification of consumer food-handling behaviors for food safety education. J Am Diet Assoc. 2001 Nov;101(11):1326-39. Tóm lược
  21. du Preez M, Conroy RM, Ligondo S, et al. Randomized intervention study of solar disinfection of drinking water in the prevention of dysentery in Kenyan children aged under 5 years. Environ Sci Technol. 2011 Nov 1;45(21):9315-23. Tóm lược
  22. Stauber CE, Printy ER, McCarty FA, et al. Cluster randomized con trolled trial of the plastic BioSand Water filter in Cambodia. Environ Sci Technol. 2012 Jan 17;46(2):722-8. Tóm lược
  23. Suchomel M, Kundi M, Pittet D, et al. Testing of the World Health Organization recommended formulations in their application as hygienic hand rubs and proposals for increased efficacy. Am J Infect Control. 2012 May;40(4):328-31. Tóm lược
  24. Greene LE, Freeman MC, Akoko D, et al. Impact of a school-based hygiene promotion and sanitation intervention on pupil hand contamination in Western Kenya: a cluster randomized trial. Am J Trop Med Hyg. 2012 Sep;87(3):385-93. Toàn văn Tóm lược
  25. Ochoa TJ, Chea-Woo E, Baiocchi N, et al. Randomized double-blind controlled trial of bovine lactoferrin for prevention of diarrhea in children. J Pediatr. 2013 Feb;162(2):349-56. Toàn văn Tóm lược
  26. Shane AL, Mody RK, Crump JA, et al. 2017 Infectious Diseases Society of America clinical practice guidelines for the diagnosis and management of infectious diarrhea. Clin Infect Dis. 2017 Nov 29;65(12):e45-80. Toàn văn Tóm lược
  27. Acheson DW, Fiore AE. Preventing foodborne disease – what clinicians can do. N Engl J Med. 2004 Jan 29;350(5):437-40. Tóm lược
  28. Centers for Disease Control and Prevention. Cholera – Vibrio cholerae infection. November 2016 [internet publication]. Toàn văn
  29. Harris S, Cormican M, Cummins E. The effect of conventional wastewater treatment on the levels of antimicrobial-resistant bacteria in effluent: a meta-analysis of current studies. Environ Geochem Health. 2012 Dec;34(6):749-62. Tóm lược
  30. World Health Organization. Diarrhoeal disease. May 2017 [internet publication]. Toàn văn
  31. Abubakar I, Irvine L, Aldus CF, et al. A systematic review of the clinical, public health and cost-effectiveness of rapid diagnostic tests for the detection and identification of bacterial intestinal pathogens in faeces and food. Health Technol Assess. 2007 Sep;11(36):1-216. Toàn văn Tóm lược
  32. Gould LH, Bopp C, Strockbine N, et al. Recommendations for diagnosis of shiga toxin – producing Escherichia coli infections by clinical laboratories. MMWR Recomm Rep. 2009 Oct 16;58(RR-12):1-14. Toàn văn Tóm lược
  33. Riddle MS, Arnold S, Tribble DR. Effect of adjunctive loperamide in combination with antibiotics on treatment outcomes in traveler’s diarrhea: a systematic review and meta-analysis. Clin Infect Dis. 2008 Oct 15;47(8):1007-14. Toàn văn Tóm lược
  34. Gendrel D, Cohen R; European Society for Pediatric Infectious Diseases, et al. Bacterial diarrheas and antibiotics: European recommendations [in French]. Arch Pediatr. 2008 Oct;15(suppl 2):S93-6. Tóm lược
  35. Hill DR, Ericsson CD, Pearson RD, et al. The practice of travel medicine: guidelines by the Infectious Diseases Society of America. Clin Infect Dis. 2006 Dec 15;43(12):1499-539. Toàn văn Tóm lược
  36. Onwuezobe IA, Oshun PO, Odigwe CC. Antimicrobials for treating symptomatic non-typhoidal Salmonella infection. Cochrane Database Syst Rev. 2012;(11):CD001167. Toàn văn Tóm lược
  37. Ternhag A, Asikainen T, Giesecke J, et al. A meta-analysis on the effects of antibiotic treatment on duration of symptoms caused by infection with Campylobacter species. Clin Infect Dis. 2007 Mar 1;44(5):696-700. Toàn văn Tóm lược
  38. Lamont RF, Sobel J, Mazaki-Tovi S, et al. Listeriosis in human pregnancy: a systematic review. J Perinat Med. 2011 May;39(3):227-36. Toàn văn Tóm lược
  39. World Health Organization. Brucellosis in humans and animals. 2006 [internet publication]. Toàn văn
  40. Chalk CH, Benstead TJ, Keezer M. Medical treatment for botulism. Cochrane Database Syst Rev. 2014; (2):CD008123. Toàn văn Tóm lược
  41. World Health Organization. Enterohaemorrhagic Escherichia coli (EHEC). January 2018 [internet publication]. Toàn văn
  42. Tarr PI, Gordon CA, Chandler WL. Shiga-toxin-producing Escherichia coli and haemolytic uraemic syndrome. Lancet. 2005 Mar 19-25;365(9464):1073-86. Tóm lược
  43. World Health Organization. Guidelines for the control of shigellosis, including epidemics due to Shigella dysenteriae type 1. 2005 [internet publication]. Toàn văn
  44. Feng P. Enterohemorrhagic Escherichia coli (EHEC). In: Lampel KA, ed. Bad bug book – foodborne pathogenic microorganisms and natural toxins. 2nd ed. Silver Spring, MD: U.S. Food and Drug Administration; 2012:75-9. Toàn văn
  45. Centers for Disease Control and Prevention. E. coli (Escherichia coli). 25 January 2018 [internet publication]. Toàn văn
  46. Tarr PI, Neill MA. Escherichia coli O157:H7. Gastroenterol Clin North Am. 2001 Sep;30(3):735-51. Tóm lược
  47. Cimolai N, Morrison BJ, Carter JE. Risk factors for the central nervous system manifestations of gastroenteritis- associated hemolytic-uremic syndrome. Pediatrics. 1992 Oct;90(4):616-21. Tóm lược
  48. Gilman RH, Marquis GS, Miranda E, et al. Rapid reinfection by Giardia lamblia after treatment in a hyperendemic Third World community. Lancet. 1988 Feb 13;1(8581):343-5. Tóm lược
  49. Haque R, Huston CD, Hughes M, et al. Amebiasis. N Engl J Med. 2003 Apr 17;348(16):1565-73. Tóm lược
  50. Stanley SL Jr. Amoebiasis. Lancet. 2003 Mar 22;361(9362):1025-34. Tóm lược
  51. Gonzales ML, Dans LF, Martinez EG. Antiamoebic drugs for treating amoebic colitis. Cochrane Database Syst Rev. 2009;(2):CD006085. Toàn văn Tóm lược
  52. Asgari Z, Selwyn BJ, Vonville H, et al. A systematic review of the evidence for use of herbal medicine for the treatment of acute diarrhea. Natural Products Journal. 2012;2:1-8. Toàn văn
  53. Frenzen PD. Deaths due to unknown foodborne agents. Emerg Infect Dis. 2004 Sep;10(9):1536-43. Toàn văn Tóm lược
  54. Scallan E, Jones TF, Cronquist A, et al. Factors associated with seeking medical care and submitting a stool sample in estimating the burden of foodborne illness. Foodborne Pathog Dis. 2006 Winter;3(4):432-8. Tóm lược
  55. Lee MB, Greig JD. A review of enteric outbreaks in child care centers: effective infection control recommendations. J Environ Health. 2008;71:24-32, 46. Tóm lược
  56. Hu Y, Ren J, Zhan M, et al. Efficacy of rifaximin in prevention of travelers’ diarrhea: a meta-analysis of randomized, double-blind, placebo-controlled trials. J Travel Med. 2012;19:352-356. Toàn văn Tóm lược
  57. DuPont HL. Systematic review: prevention of travellers’ diarrhoea. Aliment Pharmacol Ther. 2008;27:741-751. Toàn văn Tóm lược

Những người có đóng góp

// Các tác giả:

Philip Allan, MBBS, DPhil, MRCP

Consultant Gastroenterologist

Department of Gastroenterology, John Radcliffe Hospital, Oxford, UK CÔNG KHAI THÔNG TIN: PA is a consultant for Abbvie and an advisor to Bresmed Health Solutions, and has received travel expenses from NPS Pharmaceuticals (now Shire).

Satish Keshav, MBBCh, DPhil, FRCP

Consultant Gastroenterologist

Department of Gastroenterology, John Radcliffe Hospital, Oxford, UK

CÔNG KHAI THÔNG TIN: SK declares that he has no competing interests.

// Lời cảm ơn:

Dr Philip Allan and Dr Satish Keshav would like to gratefully acknowledge Dr Michael Bennish, Dr Willem J.S. de Villiers, and Dr Houssam E. Mardini, the previous contributors to this topic. MB has received funds, salary, and/or research funding greater than 6 figures USD.

CÔNG KHAI THÔNG TIN: MB declares that he has no other competing interests. WJSDV and HEM declare that they have no competing interests.

// Những Người Bình duyệt:

Franz Allerberger, MD, MPH

Professor of Clinical Microbiology

Austrian Agency for Health and Food Safety (AGES), Vienna, Austria CÔNG KHAI THÔNG TIN: FA declares that he has no competing interests.

Nancy Crum-Cianflone, MD, MPH

Department Head

Naval Health Research Center, San Diego, CA

CÔNG KHAI THÔNG TIN: NCC declares that she has no competing interests.

Xem thêm:

Ngộ độc botulism: Nguyên nhân, chẩn đoán và hướng dẫn điều trị theo BMJ

Để lại một bình luận (Quy định duyệt bình luận)

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

The maximum upload file size: 1 MB. You can upload: image. Drop file here