Nhiễm cúm: Nguyên nhân, chẩn đoán và hướng dẫn điều trị theo BMJ

Xuất bản: UTC +7

Cập nhật lần cuối: UTC +7

Nhiễm cúm: Nguyên nhân, chẩn đoán và hướng dẫn điều trị theo BMJ

Nhà thuốc Ngọc Anh – Để tải bài viết Nhiễm cúm: Nguyên nhân, chẩn đoán và hướng dẫn điều trị theo BMJ file PDF xin vui lòng click vào link ở đây.

Tóm tắt

  • Có đặc trưng là các triệu chứng viêm đường hô hấp trên và dưới như sổ mũi, ho, sốt, ớn lạnh, đau đầu, và đau cơ.
  • Thường xuất hiện trong mùa đông.
  • Có thể xảy ra các đợt bùng phát, dịch bệnh và, hiếm khi, đại dịch trong cộng đồng địa phương.
  • Hiện đã có vắc-xin phòng ngừa.

Thông tin cơ bản

Định nghĩa

Viêm đường hô hấp cấp tính thường do vi-rút cúm theo mùa A hoặc B gây ra. Vi-rút lây truyền do hít chất bài tiết từ đường hô hấp bị nhiễm bệnh tạo thành sol khí thông qua ho, hắt xì hoặc nói chuyện.[1]

Dịch tễ học

Tỷ lệ nhiễm cúm theo mùa mới thay đổi mỗi năm, với sự thay đổi kháng nguyên trong các vi-rút có nghĩa là không có sự bảo vệ gia tăng từ các đợt tiêm chủng trước. Nhìn chung, bệnh cúm theo mùa được cho là ảnh hưởng đến 20% trẻ em và 5% người lớn trên toàn thế giới mỗi năm.[7] Nghiên cứu ở trẻ em báo cáo tỷ lệ mắc mới hàng năm trung bình là 4,6% trong một khoảng thời gian 5 năm ở trẻ em từ 19 tuổi trở xuống. Trong khoảng thời gian 25 năm tại Hoa Kỳ, tỷ lệ mắc mới là 9,5% ở trẻ em <5 tuổi.[7] Ở bắc bán cầu, cúm theo mùa đạt đỉnh từ cuối tháng 12 đến đầu tháng 3 và ở nam bán cầu, đạt đỉnh từ tháng 5 đến tháng 9.

Đã xảy ra 4 đại dịch cúm từ năm 1918, với dịch bệnh ‘cúm heo’ cúm A (H1N1) gần đây nhất xảy ra vào tháng 4 năm 2009. Năm 1957 và 1968, cả hai đại dịch đều do các chủng vi-rút cúm ở người và gia cầm mới xuất hiện. Tuy nhiên, đại dịch năm 2009 xảy ra do vi-rút cúm trên người, gia cầm và lợn sắp xếp lại gen mới.[8]

Năm 2017, chủng cúm A (H3N2) đột biến nhanh đã được báo cáo ở Úc, nơi có số lượng ca bệnh cao nhất kể từ đại dịch năm 2009.[9] Vào mùa 2017-2018, dịch cúm tại Hoa Kỳ cũng được báo cáo là đã đạt mức cao nhất kể từ đại dịch H1N1 năm 2009. [CDC: FluView: weekly influenza surveillance report]

Năm 2005, các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Dịch bệnh (CDC) đã tái tạo lại thành công vi-rút cúm A (H1N1) 1918, giúp hiểu rõ hơn về độc lực của vi-rút này. Rất có thể vi-rút năm 1918 sẽ không xuất hiện trở lại từ nguồn tự nhiên và thậm chí nếu vi-rút này có xuất hiện lại thì với tính miễn dịch tồn dư vi-rút này sẽ không còn được coi là một chủng mới nữa. Nếu vi-rút này đã từng được cô lập bên ngoài phòng thí nghiệm, các phương pháp điều trị hiện tại (như thuốc kháng virus rimantadine và oseltamivir) sẽ có hiệu quả và có khả năng là đã có vắc-xin, vì những vắc-xin này chứa protein kháng nguyên ngưng kết hồng cầu năm 1918 đã được chứng minh là có khả năng bảo vệ chống lại vi-rút ở chuột.[10]

Bệnh căn học

Vi-rút cúm theo mùa là một thành viên của họ orthomyxovirus. Vi-rút này có hệ gen RNA mạch đơn, phân đoạn, có thể phân loại thành cúm A, B, và C dựa trên khác biệt kháng nguyên. Mã RNA cho 5 protein cấu trúc và 3 protein phi cấu trúc. Protein M và các thành phần nucleoprotein NP được sử dụng để phân loại vi-rút thành các loại A, B, và C. Các yếu tố khác của cấu trúc vi-rút, kháng nguyên ngưng kết hồng cầu (kháng nguyên H) và neuraminidase (kháng nguyên N) rất quan trọng trong quá trình sinh bệnh học của bệnh. Bắt buộc phải có kháng nguyên H để vi-rút liên kết và xâm nhập vào tế bào. Kháng nguyên N giúp vi-rút trưởng thành thoát khỏi tế bào.

Các loại vi-rút cúm theo mùa A và B cũng được chia thành một số phân nhóm. Các phân nhóm được xác định bởi các kháng nguyên H và N có trên vi-rút. Có 3 phân nhóm kháng nguyên H (H1, H2 và H3) và 2 phân nhóm kháng nguyên N (N1 và N2), cho phép có một số kết hợp khác nhau. Các kháng thể đối với một phân nhóm kháng nguyên H hoặc N không phản ứng với một loại kháng nguyên H hoặc N khác.

Bệnh cúm C không liên quan đến dịch bệnh hoặc đại dịch và chỉ gây ra bệnh nhẹ. Bệnh cúm A là nguyên nhân gây ra các đợt bùng phát bệnh ở địa phương thường xuyên (thường là hàng năm) hoặc các dịch bệnh lớn hơn với cường độ thay đổi 2 đến 3 năm một lần hoặc đôi khi xảy ra đại dịch. Bệnh cúm B gây ra các đợt bùng phát khoảng 4 năm một lần, thường nhẹ hơn bệnh cúm A.[11] Dịch bệnh thường xảy ra vào cuối mùa thu đến đầu mùa xuân.

Sự đột biến điểm nhỏ trong các protein tạo nên vi-rút cúm gây ra biến đổi kháng nguyên, và đó là lý do tại sao cần phải tiêm vắc-xin mới mỗi mùa cúm. Những thay đổi lớn hơn tạo ra protein kháng nguyên ngưng kết hồng cầu hoặc neuraminidase mới dẫn tới hoán vị kháng nguyên và có thể gây ra đại dịch. Thuật ngữ đặc biệt được sử dụng khi thảo luận về một loại vi-rút cúm bao gồm loại vi-rút cúm, nơi phát hiện virus đầu tiên, và năm phát hiện vi-rút lần đầu tiên.

Sinh lý bệnh học

Vi-rút cúm theo mùa được lây truyền qua các giọt bắn từ đường hô hấp bị nhiễm bệnh tạo thành sol khí khi ho, hắt xì hoặc nói chuyện. Tiếp xúc với đồ vật truyền bệnh có thể lây bệnh dù ít phổ biến hơn.[7]

Vi-rút liên kết với và xâm nhập vào biểu mô có lông rung khí phế quản bằng cách sử dụng kháng nguyên ngưng kết hồng cầu bề mặt vi-rút (kháng nguyên H). Sau đó xảy ra sự tái tạo vi-rút. Vi-rút phát tán nhiều nhất trong vòng 48 đến 72 giờ đầu tiên sau khi tiếp xúc với vi-rút, sau đó giảm xuống và trở nên không phát hiện được trong vòng 10 ngày. Trẻ em và những người bị suy giảm miễn dịch có thể phát tán vi-rút trong vài tuần.[12]

Phân loại

Các loại vi-rút cúm theo mùa

Vi-rút cúm được phân loại thành cúm A, B, và C dựa trên các khác biệt về kháng nguyên. Các yếu tố khác của cấu trúc vi- rút là kháng nguyên ngưng kết hồng cầu (kháng nguyên H) và neuraminidase (kháng nguyên N).

Các loại vi-rút cúm A và B được chia thành một số phân nhóm. Các phân nhóm này được xác định bởi các kháng nguyên H và N có trên vi-rút. Có 3 phân nhóm kháng nguyên H (H1, H2 và H3) và 2 phân nhóm kháng nguyên N (N1 và N2), cho phép có nhiều kết hợp khác nhau.

Bệnh cúm C không liên quan đến bệnh dịch hoặc đại dịch và chỉ gây ra bệnh nhẹ.

Phòng ngừa

Ngăn ngừa sơ cấp

Phòng ngừa ban đầu cho cúm là tiêm vắc-xin cúm.[43] [44] [45] [46] [47] [48] [49] [50] Các hướng dẫn quốc tế có khuyến cáo khác nhau về các đối tượng nên tiêm vắc-xin. Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Dịch bệnh (CDC) Hoa Kỳ hiện đang khuyến cáo sử dụng vắc-xin cúm cho tất cả những người ở độ tuổi >6 tháng không có chống chỉ định tiêm vắc-xin.[51] [CDC: Influenza (Flu)] Từ năm 2018 đến 2019, Ủy ban Tư vấn về Thực hành Tiêm chủng (ACIP) của CDC khuyến cáo rằng có thể sử dụng bất kỳ vắc-xin cúm nào được cấp phép, phù hợp với độ tuổi, bao gồm vắc-xin sống giảm độc lực khi phù hợp (không khuyến cáo vắc-xin cúm sống giảm độc lực cho hai mùa cúm trước đó).[51] Các thử nghiệm đang được tiến hành để sử dụng vắc-xin cúm ở trẻ sơ sinh (<6 tháng tuổi).[52] Trẻ em từ 6 tháng đến 8 tuổi cần hai liều vắc-xin cúm (được tiêm cách nhau >4 tuần) trong mùa tiêm vắc-xin đầu tiên để tối ưu hóa đáp ứng.[51] Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP) khuyến cáo vắc-xin cúm bất hoạt là lựa chọn chính cho tất cả trẻ em từ năm 2018 đến 2019, do tính hiệu quả của vắc-xin sống giảm độc lực đối với cúm A (H1N1) kém hơn trong các mùa trước và không rõ trong mùa hiện tại.[53] ACIP khuyến cáo trẻ em từ 6 tháng đến 8 tuổi trước đây đã được nhận >2 liều vắc-xin ngừa ba chủng cúm hoặc bốn chủng cúm trước ngày 1 tháng 7 năm 2018, chỉ cần một liều cho năm 2018 đến 2019.[51] Bắt đầu từ năm 9 tuổi, chỉ khuyến cáo một liều hàng năm.[54] Phụ nữ mang thai có thể nhận vắc-xin bất hoạt đã được cấp phép, khuyến cáo và phù hợp với độ tuổi; không nên dùng vắc-xin cúm sống giảm độc lực trong thời kỳ mang thai.[51] Tiêm vắc-xin cúm trong thời kỳ mang thai không liên quan đến việc tăng nguy cơ nhập viện của trẻ sơ sinh hoặc tử vong trong 6 tháng đầu đời;[55] và có thể giúp ngăn ngừa nhập viện do cúm ở phụ nữ mang thai.[56] Các hướng dẫn quốc tế khác khuyến cáo tiêm vắc-xin cho các nhóm có nguy cơ cao. Cần tham khảo và tuân thủ các hướng dẫn địa phương.

Trong mùa 2018-2019 (bắc bán cầu), Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo rằng vắc-xin ngừa bốn chủng cúm nên chứa virus chủng A/Michigan/45/2015 (H1N1)pdm09, virus chủng A/Singapore/INFIMH-16-0019/2016 (H3N2), virus chủng B/Colorado/06/2017 (dòng B/Victoria/2/87) và vi-rút chủng B/Phuket/3073/2013 (dòng B/Yamagata/16/88). Thành phần của vắc-xin ngừa ba chủng cúm cho cúm B nên bao gồm virus chủng B/Colorado/06/2017 của dòng B/Victoria/2/87.[57]

Tại Hoa Kỳ, AAP khuyến cáo tất cả trẻ em dị ứng với trứng ở bất kỳ mức độ nào nên nhận vắc-xin cúm bất hoạt hoặc vắc-xin cúm sống giảm độc lực mà không cần thêm bất kỳ biện pháp phòng ngừa nào ngoài biện pháp khuyến cáo cho vắc-xin đó.[19] ACIP khuyến cáo như sau:[51]

  • Những người có tiền sử dị ứng với trứng chỉ bị nổi mề đay sau khi tiếp xúc với trứng nên tiêm vắc-xin cúm (vắc- xin cúm được cấp phép, khuyến cáo và phù hợp với độ tuổi).
  • Những người đã báo cáo phản ứng với trứng (có liên quan đến các triệu chứng như phù mạch, suy hô hấp, chóng mặt hoặc nôn tái phát) hoặc những người cần sử dụng epinephrine (adrenaline) hoặc can thiệp y tế cấp cứu khác, có thể được tiêm vắc-xin cúm (vắc-xin được cấp phép, khuyến cáo và phù hợp với độ tuổi). Vắc-xin phải do một bác sĩ có kinh nghiệm trong việc nhận biết và kiểm soát tình trạng dị ứng nghiêm trọng thực hiện.
  • Những người có thể ăn trứng chín tới (ví dụ như trứng bác) không bị phản ứng không có khả năng bị dị ứng. Những người bị dị ứng với trứng có thể dung nạp trứng có trong các sản phẩm nướng (ví dụ: bánh mì hoặc bánh ngọt). Dung nạp được thực phẩm có chứa trứng không loại trừ khả năng bị dị ứng trứng. Có thể xác nhận bị dị ứng trứng dựa trên bệnh sử nhất quán về các phản ứng bất lợi với trứng và thực phẩm chứa trứng, cộng với các xét nghiệm da và/hoặc máu về globulin miễn dịch E trực tiếp kháng các protein trứng.
  • Cần tham khảo ý kiến của bác sĩ có chuyên môn trong việc kiểm soát các bệnh dị ứng trước khi tiêm vắc-xin cho những người không có tiền sử phơi nhiễm trứng nhưng nghi ngờ bị dị ứng với trứng trên cơ sở các xét nghiệm dị ứng đã thực hiện trước đây.
  • Một phản ứng dị ứng nghiêm trọng trước đây với vắc-xin cúm, bất kể thành phần nghi ngờ gây ra phản ứng là gì, là một chống chỉ định đối với việc tiếp nhận vắc-xin trong tương lai.

Bất kể tiền sử dị ứng, tất cả các loại vắc-xin nên được sử dụng ở những nơi có nhân viên và trang thiết bị để nhận biết và điều trị nhanh chóng sốc phản vệ.

Tiêm vắc-xin theo cách tiếp cận hai bước và thử nghiệm da với vắc-xin là không cần thiết.[58] Một vắc-xin ngừa ba chủng cúm sử dụng hệ thống biểu diễn vi-rút côn trùng và công nghệ ADN tái tổ hợp hiện có sẵn cho người lớn từ 18 tuổi trở lên. Không giống các vắc-xin khác, vắc-xin này không sử dụng vi-rút cúm hay trứng trong quá trình sản xuất.

Hiệu lực của vắc-xin có thể khác nhau tùy theo độ tuổi của người nhận, mức độ đề kháng có trước đó, và việc dự đoán chính xác chủng vi-rút lưu thông cụ thể.[6] [59] [60] [61] [62] [63] [64] [65] [66] 1[A]Evidence

Hiệu lực của vắc-xin ở người già:

  • Hầu hết các ca tử vong liên quan đến cúm xuất hiện ở nhóm người cao tuổi (từ 65 tuổi trở lên).[67] [68] [69] Một nghiên cứu tổng quát cho thấy lợi ích về sức khỏe của việc tiêm vắc-xin là rõ ràng hơn ở nhóm cư dân sống trong các cơ sở chăm sóc dài hạn so với những người cao tuổi khỏe mạnh trong cộng đồng.[18] Một nghiên cứu đoàn hệ theo nhóm được công bố sau các phân tích tổng hợp cho thấy tỷ lệ tử vong giảm đáng kể ở nhóm người cao tuổi được tiêm vắc-xin (1,0% so với 1,6% ở những người không được tiêm vắc-xin)[68] Lợi ích về tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân cao tuổi tăng lên khi tiêm vắc-xin hàng năm.[70] Tiêm vắc-xin liều cao và các chuẩn độ thấp tăng cường ở giữa mùa có thể có lợi cho người cao tuổi.[71] [72] [73]Có thể sử dụng bất kỳ vắc-xin nào có giấy phép và phù hợp với lứa tuổi .[51]

Nguy cơ mắc hội chứng Guillain-Barre (GBS):

  • GBS là một rối loạn tự miễn cấp tính của các dây thần kinh ngoại biên phát triển ở những người nhạy cảm sau khi bị nhiễm bệnh và, trong các trường hợp hiếm gặp, sau khi tiêm chủng. Tại Hoa Kỳ, nguy cơ mắc GBS gia tăng gắn liền với vắc-xin cúm lợn năm 1976 (cúm lợn A H1N1 phân nhóm A/NJ/76).[74] Số báo cáo về GBS liên quan đến vắc-xin cúm cho Hệ thống Ghi nhận Tác dụng Phụ của Vắc-xin Trung ương đã tăng từ 37 trong mùa 1992-1993 lên 74 trong mùa 1993-1994. Các nghiên cứu về những ca bệnh này cho thấy rằng kết hợp hai mùa lại với nhau, nguy cơ tương đối điều chỉnh là 1,7 nghĩa là chỉ có thêm khoảng hơn 1 ca bệnh GBS trên một triệu người tiêm vắc-xin ngừa cúm.[75] Nguy cơ này nhỏ hơn rất nhiều so với nguy cơ về sức khỏe nói chung do bệnh cúm tự nhiên gây ra.
  • Tiền sử GBS trong vòng 6 tuần sau khi được tiêm vắc-xin cúm là dấu hiệu cần cẩn trọng đối với việc sử dụng vắc- xin cúm do nguy cơ tái phát GBS. Các nguy cơ và lợi ích của việc tiêm vắc-xin cần được cân nhắc trong những trường hợp này.[51]

Ngăn ngừa thứ cấp

Cả oseltamivir và zanamivir đã cho thấy có hiệu quả như là biện pháp dự phòng lây nhiễm khi dùng sớm sau khi tiếp xúc với cá nhân bị nhiễm bệnh.[124] Một nghiên cứu cho thấy khi điều trị bằng oseltamivir đường uống hoặc zanamivir dạng hít cho những người tiếp xúc với người bệnh trong hộ gia đình trong vòng 48 giờ kể từ ca bệnh chỉ điểm có các triệu chứng giống cúm theo mùa, số ca bệnh cúm có triệu chứng sau đó giảm đáng kể ở những người tiếp xúc với bệnh nhân trong hộ gia đình.[124] Dự phòng bằng thuốc kháng vi-rút sau khi tiếp xúc với cá nhân bị nhiễm bệnh dành riêng cho những người có nguy cơ cao.[108] [129] Kết quả từ một phân tích tổng hợp cho thấy oseltamivir giúp giảm một chút thời gian để đạt đến trạng thái bớt triệu chứng lâm sàng ở người trưởng thành bị cúm, nhưng tăng tỷ lệ buồn nôn và nôn mửa.[123]

Chẩn đoán

Tiền sử ca bệnh

Tiền sử ca bệnh #1

Một phụ nữ 30 tuổi đến khám vào mùa đông với tiền sử 2 ngày sốt, ho, đau đầu và yếu toàn thân. Sức khỏe của cô bình thường trước khi khởi phát đột ngột các triệu chứng này. Một vài bệnh do vi-rút đã ảnh hưởng đến cô trong mùa đông này, nhưng không nghiêm trọng đến mức độ này. Cô cho biết đã tiếp xúc với người bị bệnh tại nơi làm việc và đã không tiêm vắc-xin cúm mùa này.

Tiền sử ca bệnh #2

Một trẻ sơ sinh 12 tháng tuổi tới khám bác sĩ nhi khoa vào mùa đông với tiền sử 2 ngày sốt 38,9° C (102° F), thở nhanh, xuất huyết dưới kết mạc và nghẹt mũi với nước mũi trong. Đã có biểu hiện ăn mất ngon, với một lần bị nôn. Bệnh cúm đã được báo cáo gần đây tại địa phương. Cha mẹ lo lắng rằng đứa trẻ đã không được tiêm phòng, do tiền sử dị ứng nghiêm trọng với trứng đã biết.

Các bài trình bày khác

Bệnh cúm theo mùa trong trường hợp hiếm gặp có thể có biểu hiện bệnh đường hô hấp trên không sốt, giống với biểu hiện của cảm lạnh thông thường, hoặc có thể chủ yếu có biểu hiện sốt và đau cơ, với một vài triệu chứng hô hấp.[2] Bệnh nhân trong nhóm đối tượng nguy cơ cao (ví dụ, những người mắc bệnh tim hoặc phổi mạn tính, đái tháo đường, bệnh thận, bệnh huyết sắc tố, ức chế miễn dịch, cư trú trong các cơ sở chăm sóc mạn tính, tuổi >50 tuổi hoặc ba tháng cuối của thai kỳ) có thể có biểu hiện viêm phổi do vi-rút nguyên phát hoặc do vi khuẩn thứ phát đã được xác định rõ.[3] Các đặc điểm đặc trưng của bệnh viêm phổi do vi-rút nguyên phát là sốt dai dẳng hoặc sốt nặng hơn, kèm theo khó thở hoặc suy hô hấp khác.[4] Cần nghi ngờ viêm phổi do vi khuẩn thứ phát nếu ban đầu có cải thiện các triệu chứng nhưng rồi lại tái phát sốt kèm ho có đờm và thở dốc. Chụp X-quang ngực xác nhận có sự thâm nhiễm phổi.[5] [6]

Cách tiếp cận chẩn đoán từng bước

Bệnh cúm xảy ra trong các đợt bùng phát chủ yếu từ tháng 12 đến tháng 3 ở bắc bán cầu và từ tháng 5 đến tháng 9 ở nam bán cầu. Hiểu biết về hoạt động của bệnh ở cộng đồng địa phương là quan trọng khi đánh giá khả năng bệnh nhân bị mắc cúm. CDC xuất bản một báo cáo giám sát cúm hàng tuần cho Hoa Kỳ, [CDC: FluView: weekly influenza surveillance report] và WHO cũng theo dõi và báo cáo tỷ lệ mắc mới bệnh cúm.

Chẩn đoán thường được thực hiện lâm sàng trong thời gian bùng phát dịch trong cộng đồng. Bệnh nhân có nguy cơ cao phát triển các biến chứng, bao gồm những người có tiền sử bệnh phổi, tim, hay thận mạn tính, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ và người cao tuổi, cần được đặc biệt chú ý.[15] Cần xét nghiệm thử bệnh cúm nếu điều đó sẽ ảnh hưởng đến quyết định bắt đầu điều trị kháng vi-rút, đề nghị thực hiện thêm xét nghiệm chẩn đoán, tiến hành các biện pháp kiểm soát nhiễm bệnh, và giám sát trong cộng đồng sự lưu truyền bệnh cúm.[76]

Tiền sử và khám

Bệnh cúm có biểu hiện phổ biến nhất như một bệnh hô hấp cấp tính trong mùa đông. Sau giai đoạn ủ bệnh khoảng 2 ngày, sẽ khởi phát đột ngột các triệu chứng sốt cao, ớn lạnh, đau đầu, và đau cơ. Những triệu chứng toàn thân này có thể liên quan đến các triệu chứng đường hô hấp trên và dưới tương tự như chứng cảm lạnh thông thường, chẳng hạn như ho và đau họng.[77] Sự phát tán vi-rút bệnh cúm đạt đỉnh trong vòng 48 giờ kể từ khi mắc bệnh và hầu hết các ca bệnh không biến chứng sẽ khỏi trong vòng 1 tuần.[78] Bệnh cúm không biểu hiện phổ biến với các triệu chứng đường tiêu hóa nguyên phát như buồn nôn và nôn mửa, ngoại trừ ở nhóm đối tượng trẻ em. Hiếm khi xảy ra tiêu chảy với bệnh cúm và việc này có thể là dấu hiệu của viêm dạ dày ruột do vi-rút, thường được gọi là cúm dạ dày.

Trong một đợt bùng phát bệnh cúm đã biết, cần coi bất kỳ người nào có các triệu chứng sốt và hô hấp cấp tính là người có khả năng đã bị nhiễm cúm và thường có thể chẩn đoán lâm sàng với mức độ chắc chắn cao. Tuy nhiên, nếu người đó đã phơi nhiễm cúm hay một tình trạng mà trong đó bệnh cúm có thể lây lan nhanh chóng (ví dụ như du lịch quốc tế, đi tàu du lịch), cần cân nhắc chẩn đoán cúm vào bất kỳ thời điểm nào trong năm.

Mặc dù cúm không có đặc tính đặc trưng bệnh rõ ràng, bệnh ảnh hưởng đến đường hô hấp trên và dưới gắn liền với các triệu chứng toàn thân. Sốt, đau đầu, đau cơ, và mệt mỏi thường liên quan đến các triệu chứng đường hô hấp trên như đau họng và các triệu chứng đường hô hấp dưới là ho.[79] Không phải tất cả bệnh nhân mắc cúm đều có các triệu chứng này và những người có các triệu chứng này không nhất thiết mắc cúm. Nhìn chung, tới 85% số bệnh nhân mắc cúm sẽ có các triệu chứng lâm sàng của bệnh cúm. Các biểu hiện nhiễm cúm cũng phụ thuộc vào độ tuổi và tiền sử tiêm chủng của bệnh nhân.[79] [77]

Với các ca bệnh cúm rải rác, có thể khó phân biệt lâm sàng bệnh cúm với các tình trạng nhiễm bệnh do các vi-rút đường hô hấp khác gây ra. Trong trường hợp đó, nhiễm vi-rút cúm có thể chỉ liên quan đến một số lượng nhỏ các ca bệnh như vậy. Trong một đánh giá đối với 497 đợt nhiễm khuẩn đường hô hấp trên ở bệnh nhân cao tuổi sống tại cộng đồng trong mùa đông các năm từ 1992 đến 1994, mầm bệnh đã được xác định trong 43% các ca bệnh. Mầm bệnh phổ biến nhất là rhinovirus (52%) và coronavirus (26%); cúm A hoặc B chỉ chiếm 10%.[80]

Các phát hiện lâm sàng rất hữu ích, nhưng không khẳng định hay loại trừ được chẩn đoán cúm.[77] Khám bệnh có thể đạt được các kết quả không cụ thể, vì các triệu chứng thực thể thường hiếm gặp trong các ca bệnh cúm không có biến chứng. Bệnh nhân có thể có thân nhiệt cao và đỏ bừng, và họng miệng có thể có xung huyết, và than đau họng nặng. Có thể bị bệnh hạch bạch huyết cổ nhẹ và xuất hiện thường xuyên hơn ở bệnh nhân trẻ tuổi.

Xét nghiệm trong phòng thí nghiệm

Vai trò của xét nghiệm trong phòng thí nghiệm là để giảm việc sử dụng thuốc kháng sinh không phù hợp và để cung cấp lựa chọn sử dụng liệu pháp kháng vi-rút. Xét nghiệm chẩn đoán, kết hợp với giám sát, cũng có thể xác định các nhóm, phân nhóm, và chủng cúm lưu thông chủ yếu.[76]

  • Cần cân nhắc xét nghiệm ngoại trú cho bất kỳ người nào có nguy cơ cao hình thành các biến chứng của cúm và người có biểu hiện ốm sốt cấp tính (tới 5 ngày).
  • Bệnh nhân ngoại trú suy giảm miễn dịch, người cao tuổi, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ bị bệnh hô hấp gây sốt bất kể trong bao lâu cần được khám sàng lọc bệnh cúm trong thời gian bùng phát dịch.
  • Bệnh nhân nhập viện có triệu chứng sốt hay người hình thành triệu chứng sốt trong thời gian nằm viện do viêm đường hô hấp cần được khám sàng lọc bệnh cúm.

Các xét nghiệm chẩn đoán có sẵn đối với bệnh cúm bao gồm cấy vi-rút, huyết thanh, xét nghiệm kháng nguyên nhanh, PCR, và thử nghiệm miễn dịch huỳnh quang.[76] [81]

Khuyến nghị dùng các bệnh phẩm mũi họng để phân lập vi-rút đối với một bệnh phẩm hô hấp. Chúng có hiệu quả hơn so với các bệnh phẩm phết cổ họng. Cấy vi-rút vẫn là một xét nghiệm xác định, bất chấp sự sẵn có của các xét nghiệm chẩn đoán nhanh. Phương thức này thường không được sử dụng để kiểm soát lâm sàng ban đầu vì phải mất đến 72 giờ mới báo cáo được kết quả. Thay vào đó, phương thức này được sử dụng để xác nhận kiểm tra sàng lọc và giám sát y tế công cộng. Chỉ các cách ly nuôi cấy mới có thể cung cấp thông tin cụ thể về các chủng lưu thông và phân nhóm vi-rút cúm. Cách ly virus cũng có thể cung cấp thông tin về sự xuất hiện của hiện tượng nhờn thuốc kháng vi-rút và sự phát triển của các phân nhóm cúm A mới có thể có khả năng gây ra đại dịch.

Ở cơ sở ngoại trú, cần thu thập mẫu phết mũi, rửa, hay hút dịch trong vòng 4 ngày đầu tiên của bệnh. Các xét nghiệm cúm nhanh cung cấp kết quả trong vòng 30 phút hoặc nhanh hơn; cấy vi-rút cung cấp kết quả trong 3 đến 10 ngày. Các xét nghiệm nhanh có độ nhạy khoảng 70% và đặc hữu 90% trong phát hiện cúm.

Xét nghiệm huyết thanh thường quy đối với cúm yêu cầu làm theo cặp huyết thanh giai đoạn cấp tính và giai đoạn dưỡng bệnh. Xét nghiệm đó không được khuyến cáo để ra quyết định lâm sàng chính xác.

Trong thời gian bùng phát bệnh cúm, các mẫu hô hấp cần được xét nghiệm bằng cả xét nghiệm nhanh và cấy vi-rút. Cấy vi-rút là thiết yếu để xác định phân nhóm cúm A và các chủng cúm A và B gây bệnh và để giám sát các chủng mới có thể cần được đưa vào vắc-xin cúm trong năm sau. Cấy vi-rút cũng có thể giúp xác định các nguyên nhân khác gây bệnh.

Viêm phổi

Nếu một bệnh nhân có một tình trạng bệnh lý mạn tính tiềm ẩn hay rơi vào một nhóm có nguy cơ cao, cần cân nhắc khả năng bị viêm phổi do vi khuẩn hoặc virus. Các bệnh nhân này sẽ có các triệu chứng dai dẳng vượt quá thời gian để khỏi bệnh cúm không biến chứng thông thường. Có thể có sốt cao, ho và khó thở. Nếu sốt và ho trở nặng với đờm mủ, khả năng cao nhất là bị viêm phổi do vi khuẩn thứ phát. Chụp X-quang ngực xác nhận có sự thâm nhiễm.

Chẩn đoán ở trẻ em

Các dấu hiệu và triệu chứng liên quan đến đường hô hấp trên và dưới là phổ biến, nhưng bệnh cúm có thể có các biểu hiện đa dạng hơn ở trẻ em, tùy thuộc vào tuổi và phơi nhiễm trước đó.

Các triệu chứng điển hình của nhiễm vi-rút cúm không biến chứng vẫn xuất hiện thường xuyên và bao gồm khởi phát đột ngột sốt, đau đầu, đau cơ, và khó chịu liên quan đến các biểu hiện của bệnh đường hô hấp, như ho, đau họng và viêm mũi.

Tuy nhiên, trẻ nhỏ thường xuyên gặp khó khăn để nói cho ta biết những triệu chứng như đau cơ và đau đầu. Chúng có thể bị sốt cao hơn so với cha mẹ, bị sốt cao co giật, và than phiền về đường tiêu hóa nhiều hơn (ví dụ: buồn nôn và nôn mửa, biếng ăn).[2] [82] Các triệu chứng hô hấp có thể ít nổi bật hơn ở trẻ em ở thời điểm khởi phát bệnh so với ở trẻ vị thành niên và người lớn.[2]

Các phát hiện lâm sàng ở trẻ em có thể bao gồm sốt, thở nhanh, ban đỏ màng kết/ xuất huyết kết mạc mắt, phù nề mũi và chảy dịch, xung huyết hầu họng, và hạch cổ.[83]

Các yếu tố nguy cơ

Thường gặp

Từ 65 tuổi trở lên

  • So với những người trẻ, người lớn khỏe mạnh, những người từ 65 tuổi trở lên có nguy cơ cao bị biến chứng nghiêm trọng do cúm và có nhiều khả năng mắc các bệnh lý kèm theo mà có thể sẽ trầm trọng hơn do nhiễm cúm. Người ta ước tính rằng 90% số ca tử vong do cúm theo mùa và hơn 60% số ca nhập viện do cúm theo mùa xảy ra ở những người từ 65 tuổi trở lên tại Mỹ mỗi năm.[13] [14] Bệnh cúm có thể là một bệnh rất nghiêm trọng khi hệ miễn dịch trở nên yếu hơn theo tuổi tác. Tuổi này cũng nhiều khả năng khiến cho các bệnh lý kèm theo có thể trầm trọng hơn do nhiễm cúm[15]
  • Ở người lớn tuổi, tiêm vắc-xin có thể giảm một nửa tỷ lệ nhiễm cúm huyết thanh và lâm sàng mới.[16] [17]
  • Tiêm vắc-xin có liên quan đến việc giảm đáng kể nguy cơ nhập viện vì bệnh viêm phổi hoặc cúm và nguy cơ tử vong ở những người già trong cộng đồng.[18]

Từ 6 đến 59 tháng tuổi

  • Mặc dù trẻ mắc tình trạng bệnh lý mạn tính như bệnh phổi, thận hoặc tim có nguy cơ cao bị biến chứng của cúm, những trẻ khỏe mạnh có nguy cơ bị biến chứng đơn giản chỉ vì độ tuổi của trẻ. Trẻ em dưới 5 tuổi có nhiều khả năng phải nhập viện hơn trẻ lớn hơn; những trẻ dưới 2 tuổi có nguy cơ cao bị biến chứng do cúm.[19]

Tình trạng bệnh tim mạch hoặc hô hấp mạn tính

  • Ở những bệnh nhân bị COPD mức trung bình hoặc nặng, sự có mặt của bất kỳ vi-rút nào trong dịch tiết đường thở trên có liên quan mật thiết với các cơn kịch phát COPD. Những dữ liệu này minh chứng cho vai trò của vi-rút là yếu tố kích hoạt các cơn kịch phát COPD trong cộng đồng.[20]
  • Ở nhóm người lớn tuổi, tiêm vắc-xin phòng cúm có liên quan đến giảm nguy cơ nhập viện vì bệnh tim, bệnh mạch não, viêm phổi hoặc cúm, cũng như nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân trong mùa cúm. Những phát hiện này nêu bật lợi ích của việc tiêm vắc-xin và hỗ trợ các nỗ lực để tăng tỷ lệ tiêm vắc-xin ở những người lớn tuổi.[21] [22] [23]

Bệnh thận mạn tính (CKD)

  • Bệnh nhân bị CKD có nguy cơ cao bị biến chứng do cúm.[15] Vắc-xin cúm hiện được Ủy ban Tư vấn về Thực hành Tiêm chủng (ACIP) của Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Dịch bệnh (CDC) của Hoa Kỳ khuyến nghị cho các bệnh nhân bị CKD.[24] Trong các nghiên cứu quan sát, tiêm vắc-xin chủng ngừa cúm có liên quan đến giảm nguy cơ nhập viện, tử vong và thăm khám bác sĩ do cúm.[25]

Tiểu đường

  • Người mắc tiểu đường có nguy cơ xảy ra biến chứng cao hơn do bệnh nền của họ. Bệnh tiểu đường làm tăng tỷ lệ tử vong từ 5% đến 12% do nhiễm cúm, được cho là do tăng nguy cơ rối loạn chuyển hóa, tình trạng nhiễm xeton axit, suy giảm đáp ứng miễn dịch và tăng tỷ lệ mắc bệnh khuẩn tụ cầu và liên cầu khuẩn.[26]

Bệnh huyết sắc tố

  • Các bệnh huyết sắc tố như bệnh hồng cầu lưỡi liềm có những bất thường không chỉ ở tế bào hồng cầu mà còn ở màng trong/nội mạc mạch máu, chức năng tế bào bạch cầu, đông máu, và phản ứng viêm. Tiêm vắc-xin phòng cúm thường quy được khuyến nghị để phòng ngừa nhiễm bệnh.[27]

Suy giảm miễn dịch

  • Nhiễm trùng là nguyên nhân hàng đầu gây mắc bệnh và tử vong ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch như người nhận ghép tạng cơ quan tạo máu/ghép tạng đặc và người bị HIV.[28] Vắc-xin ngừa vi-rút cúm bất hoạt được ưa chuộng hơn so với vắc-xin ngừa vi-rút sống cho các thành viên gia đình, nhân viên y tế và những người khác tiếp xúc gần với những người ức chế miễn dịch nặng cần chăm sóc trong một môi trường được bảo vệ.[29]Trong một nghiên cứu, tiêm vắc-xin ngừa ba chủng cúm liều cao làm tăng nồng độ kháng thể ở những người bị HIV.[30] Vắc-xin bất hoạt ngừa ba chủng cúm cũng sinh miễn dịch ở phụ nữ mang thai nhiễm HIV.[31] Cần sử dụng vắc-xin bất hoạt một cách cẩn trọng ở các bệnh nhân suy giảm miễn dịch nghiêm trọng (ví dụ: bệnh nhân được hóa trị liệu, xạ trị, hay liệu pháp ức chế miễn dịch khác, bao gồm corticosteroid liều cao), do có thể kém đáp ứng với việc tiêm vắc-xin. Tuy nhiên, vắc-xin với chất bổ trợ đã được chứng tỏ là an toàn và sinh miễn dịch ở nhóm bệnh nhân ghép tạng.[32] Vắc-xin sống bị làm yếu trong mũi bị chống chỉ định ở bệnh nhân ức chế miễn dịch hoặc suy giảm miễn dịch.

Mang thai

  • Các thay đổi về miễn dịch, hô hấp và tim mạch làm cho phụ nữ mang thai dễ bị bệnh nặng hơn do cúm.[33] Phụ nữ mang thai bị cúm có nguy cơ sinh non và chuyển dạ sớm lớn hơn.[34] Vắc-xin bất hoạt ngừa ba chủng cúm sinh miễn dịch ở cả phụ nữ mang thai nhiễm HIV và phụ nữ mang thai không bị nhiễm.[31] Liên quan đến độ an toàn, việc tiêm vắc-xin cúm cho mẹ không làm tăng nguy cơ gây dị tật bẩm sinh.[35] [36] [37]

Người chăm sóc và những người tiếp xúc với người bệnh trong gia đình là các nhóm có nguy cơ cao

  • Mục đích là để ngăn chặn việc lây truyền vi-rút đến một quần thể có nguy cơ cao.
  • Vắc-xin ngừa vi-rút cúm bất hoạt được ưa chuộng hơn so với vắc-xin ngừa vi-rút sống cho các thành viên gia đình, nhân viên y tế và những người khác tiếp xúc gần với những người ức chế miễn dịch nặng cần chăm sóc trong một môi trường được bảo vệ.

Nhân viên y tế

  • Nhân viên y tế đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Ủy ban Tư vấn về Thực hành Tiêm chủng (ACIP) của Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Dịch bệnh (CDC) khuyến cáo rằng tất cả nhân viên y tế cần phải tiêm vắc-xin ngừa cúm hàng năm để hạn chế việc lây truyền.[38] Vắc-xin ngừa vi-rút cúm bất hoạt được ưa chuộng hơn so với vắc-xin ngừa vi-rút sống cho các thành viên gia đình, nhân viên y tế và những người khác tiếp xúc gần với những người ức chế miễn dịch nặng cần chăm sóc trong một môi trường được bảo vệ.
  • Việc nhân viên y tế được tiêm vắc-xin là một biện pháp bảo vệ cho gia đình ở nhà cũng như bệnh nhân tại nơi làm việc khỏi bị lây truyền cúm có thể xảy ra. Bùng phát bệnh cúm trong bệnh viện và các cơ sở chăm sóc dài hạn được cho là do tỷ lệ tiêm vắc-xin thấp ở các chuyên gia chăm sóc sức khỏe.[39] Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tiêm vắc-xin cao hơn ở các nhân viên y tế có thể làm giảm các bệnh giống cúm, và thậm chí là tử vong, ở các cơ sở như cơ sở chăm sóc dài hạn và nhà điều dưỡng.[40] [41] [42]

Các yếu tố về tiền sử và thăm khám

Các yếu tố chẩn đoán chủ yếu

Mùa đông (thường gặp)

  • Bệnh cúm thường có quy luật bùng phát theo mùa, với bệnh dịch hay xảy ra từ cuối thu đến đầu xuân.

Bùng phát cúm hiện tại (thường gặp)

  • Nghi ngờ khả năng nhiễm cúm mùa cao nếu có ghi chép về bùng phát bệnh trong cộng đồng. Trong mùa cúm, CDC công bố các bản cập nhật hàng tuần trực tuyến tóm tắt thông tin về hoạt động của cúm. [CDC: FluView: weekly influenza surveillance report] WHO cũng theo dõi và báo cáo tỷ lệ mắc bệnh cúm.

Không được tiêm chủng (thường gặp)

  • Cần hỏi bệnh nhân xem họ đã tiêm vắc-xin cúm mỗi năm hay chưa. Những người lớn khỏe mạnh được tiêm bắp vắc-xin bất hoạt giảm đáng kể khả năng nhiễm cúm A hoặc B dựa trên xét nghiệm huyết thanh cẩn thận, so với nhóm đối chứng, và có các triệu chứng cúm lâm sàng nhẹ hơn (1,7% so với 13,4%).[59] [60]

Sốt với ho (thường gặp)

  • Các nghiên cứu trên các bệnh nhân lớn tuổi cho thấy có sự khởi phát cấp tính của sốt và ho có giá trị dự đoán dương tính chỉ từ 30% đến 53% tương ứng với các bệnh nhân bị cúm không nhập viện và nhập viện.[84] [85]
  • Một nghiên cứu về những người lớn tuổi được tiêm vắc-xin ngừa bệnh phổi mạn tính đã báo cáo rằng ho không dự đoán được nhiễm vi-rút cúm đã xác nhận ở phòng thí nghiệm, mặc dù cả sốt hoặc tình trạng sốt và đau cơ có giá trị dự đoán dương tính là 41%.[86]
  • Trẻ nhỏ ít khi báo cáo các triệu chứng cúm điển hình như sốt và ho.[87] 2[C]Evidence
  • Nếu sốt và ho trở nặng hơn, có đờm mủ và khó thở, nên nghi ngờ viêm phổi do vi khuẩn thứ phát. Chụp X-quang ngực xác nhận có sự thâm nhiễm.
  • Viêm phổi do vi khuẩn thứ phát là một biến chứng quan trọng của bệnh cúm và chiếm tới khoảng 25% số ca tử vong liên quan đến cúm.[5]

Các yếu tố chẩn đoán khác

Đau họng (thường gặp)

  • Không thường gặp các triệu chứng miệng hầu ngoài đau họng với chứng xung huyết liên quan

Bệnh hạch bạch huyết cổ (không thường gặp)

  • Một phát hiện không cụ thể có thể phổ biến hơn ở trẻ em.[83]

Khó thở (không thường gặp)

  • Một triệu chứng không phổ biến gợi nhắc đánh giá về biến chứng của bệnh cúm như viêm phổi do vi khuẩn, đặc biệt khi có biểu hiện sốt, ho và đờm mủ.[5]

Xét nghiệm chẩn đoán

Xét nghiệm thứ nhất cần yêu cầu

Xét nghiệm Kết quả
Chẩn đoán lâm sàng

• Không có các đặc điểm bệnh lý của bệnh cúm và có thể cần phải kiểm tra thêm chỉ khi kết quả có khả năng ảnh hưởng đến chẩn đoán và quyết định điều trị cũng như có khả năng giám sát bệnh ở cộng đồng.[76]

Bệnh hô hấp sốt trong một đợt bùng phát bệnh cúm theo mùa đã biết

Các xét nghiệm khác cần cân nhắc

Xét nghiệm Kết quả
Nuôi cấy vi-rút

• Xét nghiệm xác định để chẩn đoán trong phòng thí nghiệm, nhưng phải mất

3 đến 10 ngày mới có kết quả. Phương thức này thường không được sử dụng để kiểm soát lâm sàng ban đầu vì phải mất đến 72 giờ mới báo cáo được kết quả. Phương thức này được sử dụng để xác nhận kiểm tra sàng lọc và giám sát y tế công cộng.

• Nuôi cấy theo phương pháp Shell vial culture (tăng cường ly tâm), nếu có, có thể giảm thời gian nhận kết quả xuống còn 1 đến 3 ngày.[76]

• Các mẫu bệnh phẩm được chấp nhận bao gồm miếng gạc mũi họng, rửa mũi, rửa phế quản, hút mũi và đờm.[89]

Phát hiện vi-rút cúm hoặc kháng nguyên vi-rút.
Nhuộm kháng thể miễn dịch huỳnh quang trực tiếp

• Phát hiện bệnh cúm A và B.

• Các mẫu bệnh phẩm được chấp nhận bao gồm miếng gạc mũi họng, rửa mũi, rửa phế quản, hút mũi và đờm.

• Các kết quả được báo cáo trong 2 đến 4 giờ.

Phát hiện vi-rút cúm
Phản ứng chuỗi sao chép ngược

• Phát hiện bệnh cúm A và B.

• Các mẫu bệnh phẩm được chấp nhận bao gồm miếng gạc mũi họng, rửa mũi, rửa phế quản, hút mũi và đờm.

• Các kết quả được báo cáo trong 2 đến 4 giờ.

Phát hiện vi-rút cúm
Huyết thanh học

• Phát hiện bệnh cúm A và B.

• Đánh giá mẫu huyết thanh trong giai đoạn cấp tính (thu thập trong tuần đầu tiên khi bị bệnh) và hồi sức (lấy mẫu từ 2 đến 4 tuần sau khi lấy mẫu cấp tính).

• Kết quả xét nghiệm dương tính là dấu hiệu của lây nhiễm gần đây.

• Có thể mất từ 2 tuần trở lên mới có kết quả.

Tăng gấp 4 lần chuẩn độ kháng thể từ mẫu giải đoạn cấp tính đến hồi sức
Thử nghiệm miễn dịch enzym (EIA)

• Phát hiện bệnh cúm A và B.

• Các mẫu bệnh phẩm được chấp nhận bao gồm miếng gạc mũi họng, miếng gạc họng, rửa mũi và rửa phế quản.

• Các kết quả được báo cáo trong 2 giờ.

Phát hiện vi-rút cúm
Xét nghiệm chẩn đoán nhanh

• Hiện có nhiều xét nghiệm được thiết kế để phát hiện ra một trong hai hoặc cả hai cúm A và cúm B trong vòng chưa đến 30 phút.

• Có thể hữu ích trong các ca bệnh cúm tản phát mà không thể phân biệt được với các tình trạng nhiễm bệnh do các vi-rút đường hô hấp khác chỉ dựa trên cơ sở lâm sàng.[90] [91] [80] [92]

• Phát hiện lượng RNA vi-rút thấp. Nhạy hơn nuôi cấy.

• Các xét nghiệm nên được thực hiện trong vòng 24 đến 48 giờ tùy thuộc đỉnh phóng thích vi-rút. Độ nhạy và độ đặc hiệu của các xét nghiệm chẩn đoán nhanh tương ứng là khoảng 70% đến 75% và 90% đến 95%.

• Tương đối tốn kém để thực hiện.

• CDC cung cấp một danh sách các xét nghiệm hiện có. [CDC: influenza symptoms and the role of laboratory diagnostics]

Dương tính với cúm A và/hoặc cúm B, tùy theo xét nghiệm cụ thể được sử dụng
X quang ngực

• Nên được thực hiện để loại trừ viêm phổi do vi khuẩn nguyên phát hoặc thứ phát.

• Hình ảnh X quang của bệnh viêm phổi mắc phải từ cộng đồng bao gồm đông đặc thùy, thâm nhiễm kẽ, và sự tạo lỗ hổng.

• Người ta thường nghĩ rằng việc đông đặc thùy gợi ý tới viêm phổi do vi khuẩn và thâm nhiễm mô kẽ là dấu hiệu viêm phổi do nấm Pneumocystis jirovecii (trước đây là P carinii) và các vi-rút. Tuy nhiên, các bác sĩ X-quang không thể phân biệt chính xác viêm phổi do vi khuẩn và không do vi khuẩn chỉ trên cơ sở hình ảnh chụp X quang.[93]

Thông thường ở các cả bệnh không biến chứng; có thể cho thấy các thâm nhiễm phù hợp với viêm phổi trong các cả bệnh phức tạp

Chẩn đoán khác biệt

Tình trạng Các dấu hiệu/triệu chứng khác biệt Các xét nghiệm khác biệt
Viêm phổi do vi khuẩn • Ngoài ho và sốt, có thể có đau ngực kiểu viêm màng phổi, khó thở, và ra đờm mà có thể nhầy mủ. • CXR: phát hiện thường gặp là đông đặc thùy.

• Nuôi cấy máu: dương tính với vi khuẩn gây nhiễm.

• Nuôi cấy đờm: tăng trưởng vi khuẩn gây nhiễm.

Nhiễm vi-rút hợp bào hô hấp (RSV) • Nguyên nhân phổ biến nhất gây nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới ở trẻ em < 1 tuổi.[94]

• Cũng là một nguyên nhân quan trọng và thường không được nhận biết về nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới ở cả những bệnh nhân lớn tuổi và những người bị ức chế miễn dịch.[95]

• Với triệu chứng đường hô hấp trên và dưới tăng lên rõ nhất là trong 3 đến 5 ngày và được chữa khỏi trong vòng 7 đến 10 ngày.

• Có đặc trưng là các đợt bùng phát theo mùa. Ở bán cầu bắc, các đợt bùng phát thường xảy ra từ tháng 11 đến tháng 4, với đỉnh điểm vào tháng 1 hoặc tháng 2. Ở bán cầu nam, các đợt bùng phát mùa đông xảy ra từ tháng 5 đến tháng 9, với đỉnh điểm vào tháng 5, tháng 6 hoặc tháng 7. Ở vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới, các đợt bùng phát theo mùa thường liên quan đến mùa mưa.[96]

• Hiện nay, có thể tiến hành các thử nghiệm nhanh sử dụng kỹ thuật bắt giữ kháng nguyên trong vòng chưa đầy 30 phút. Độ nhạy và độ đặc hiệu của hầu hết các xét nghiệm này vượt quá 90%; và đó là trọng tâm của sơ đồ cây chẩn đoán trong hầu hết các phòng thí nghiệm lâm sàng vì việc xác định bằng cách nuôi cấy có thể mất từ 4 ngày đến 2 tuần.[97]
Nhiễm vi-rút á cúm (PIV) • Một mầm bệnh hô hấp quan trọng ở người lớn và trẻ em; nguyên nhân thường gặp thứ hai, sau RSV, của các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới cấp tính ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.[98]

• Ở người lớn, thường gây nhiễm khuẩn đường hô hấp trên nhẹ, nhưng có thể gây nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới có thể đe dọa tính mạng ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch.[99]

• Các quy luật nhiễm PIV theo mùa tại Mỹ đã thay đổi trong vài thập kỷ qua. Sau năm 1962, PIV-1 và PIV-2 bắt đầu xuất hiện thành dịch bênh, và hiện xuất hiện 2 năm một lần vào mùa thu. Để so sánh, PIV-3 xảy ra trong các dịch bệnh mùa xuân hàng năm, trong khi các quy luật nhiễm PIV-4 theo mùa rất khó thiết lập, vì bệnh thường nhẹ

và khó phát hiện được vi-rút. Ở các nước đang phát triển và nhiệt đới, vi-rút á cúm không biểu hiện các biến thể theo mùa.[100]

• Nuôi cấy PIV từ mũi hầu hoặc đường hô hấp dưới vẫn là xét nghiệm xác định để chẩn đoán.[101]

• Phát hiện kháng nguyên nhanh bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang và EIA, với độ nhạy cảm được báo cáo là từ 75% đến 95%.[102]

• Cũng có thể thực hiện xét nghiệm huyết thanh nhưng mất thời gian.

• Hiện có các xét nghiệm PCR đa mồi để phát hiện một số vi-rút hô hấp có độ nhạy được báo cáo là 95% đến 100%, với độ đặc hiệu tuyệt vời.[103]

Điều trị

Cách tiếp cận điều trị từng bước

Mục tiêu chính của điều trị ở cấp bệnh nhân là giảm mức độ nghiêm trọng và thời gian xảy ra triệu chứng và phòng ngừa biến chứng. Ở cấp y tế công cộng, mục đích là để ngăn ngừa hoặc kiểm soát bùng phát dịch cúm để tránh tình hình dịch bệnh hoặc đại dịch. [CDC: Influenza (Flu)]

Khi chỉ định điều trị kháng vi-rút, tốt nhất nên điều trị trong vòng 48 giờ đầu tiên sau khi nghi ngờ hoặc đã có kết quả xét nghiệm xác nhận bệnh cúm.

Khuyến cáo điều trị với những người có nguy cơ cao hình thành biến chứng bệnh của cúm, và có thể bắt đầu trị liệu trong vòng 48 giờ sau khi khởi phát các triệu chứng. Có thể cân nhắc điều trị với những người được chẩn đoán nhiễm cúm 48 giờ sau khi khởi phát các triệu chứng, là người có các triệu chứng tiếp diễn.

Tất cả các bệnh nhân nhập viện vì bệnh cúm đều cần điều trị kháng vi-rút.

Những người không có nguy cơ biến chứng cao có thể được điều trị kháng vi-rút nếu nghi ngờ bệnh cúm ở mức độ cao hoặc đã được xác nhận, trong vòng 48 giờ sau khi khởi phát các triệu chứng, và nếu họ muốn rút ngắn thời gian bị bệnh.

Biến chứng có thể xảy ra ở bất kỳ bệnh nhân nào, nhưng nhiều phân nhóm nguy cơ cao rất dễ bị. Các nhóm có nguy cơ cao bao gồm:[104]

  • Bệnh nhân bị bệnh phổi mạn tính (bao gồm bệnh hen suyễn) hoặc bệnh tim
  • Bệnh nhân bị tiểu đường, bệnh thận, bệnh gan, bệnh thần kinh mạn tính, hoặc ức chế miễn dịch
  • Bệnh nhân ở nhà điều dưỡng hoặc các cơ sở chăm sóc mạn tính
  • Trẻ sơ sinh từ 6 đến 59 tháng tuổi
  • Người lớn >65 tuổi
  • Phụ nữ mang thai
  • Nhân viên y tế hay người chăm sóc các thành viên thuộc nhóm đối tượng có nguy cơ cao.

Nhiễm cúm không biến chứng

Nhiễm cúm không biến chứng là một chứng nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp tính do các vi-rút cúm A hoặc B gây ra thường tự khỏi ở nhóm dân số nói chung.[105] Điều trị nhằm vào chăm sóc hỗ trợ các triệu chứng liên quan đến nhiễm khuẩn đường hô hấp. Các phương pháp điều trị này thường bao gồm các thuốc hạ sốt/thuốc giảm đau đối với sốt, và tăng lượng chất lỏng để chống mất nước. Các triệu chứng thường hết trong khoảng 1 tuần; tuy nhiên, ho và mệt mỏi có thể kéo dài lâu hơn.[106]

Nhiễm cúm biến chứng

Bệnh nặng, biến chứng có thể xảy ra ở ca nhiễm cúm và thường liên quan nhiều hơn với nhiễm cúm A so với nhiễm cúm B.

Các biến chứng của nhiễm khuẩn đường hô hấp trên bao gồm viêm tai giữa và viêm xoang do vi khuẩn. Biến chứng của nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới bao gồm viêm phổi do vi-rút nguyên phát viêm phổi do vi-rút thứ phát.

Điều trị những biến chứng này có thể cần chăm sóc hỗ trợ quyết liệt hơn, thường cần nhập viện, kèm kháng sinh và/ hoặc điều trị kháng vi-rút.

Tỷ lệ nhập viện cao nhất là ở trẻ sơ sinh, bệnh nhân >65 tuổi, và bệnh nhân có tình trạng bệnh lý mạn tính. Hơn 90% các ca tử vong liên quan đến cúm là ở bệnh nhân >65 tuổi.[106]

Điều trị kháng vi-rút với nhiễm cúm sớm

Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Dịch bệnh Hoa Kỳ khuyến cáo điều trị kháng vi-rút càng sớm càng tốt đối với bệnh nhân đã được xác nhận hoặc nghi ngờ cúm, là người bị bệnh nghiêm trọng, biến chứng, hoặc tiến triển, hoặc người phải nhập viện, cũng như bệnh nhân có nguy cơ cao bị biến chứng.[107] [108] [109]Mặc dù chất ức chế neuraminidase đã được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ phê duyệt để điều trị bệnh cấp tính không biến chứng, các hướng dẫn có xu hướng khuyến cáo sử dụng các loại thuốc này cho bệnh biến chứng cũng như ở những người có nguy cơ biến chứng. Các hướng dẫn địa phương có thể khác nhau và cần được tham khảo.[110]

Các chất ức chế neuraminidase (zanamivir, oseltamivir, và peramivir) có hiệu quả chống lại cả cúm A và B.[111] [112] [107] [113] [114]Oseltamivir và zanamivir có hiệu quả khiêm tốn đối với việc chống lại các triệu chứng cúm ở người lớn khỏe mạnh,[115] và đã được sử dụng rộng rãi trong điều trị cúm A/H1N1 năm 2009.[111] [116] [117] [118] Tuy nhiên, đã có nhiều cuộc tranh luận về việc sử dụng oseltamivir và liệu nó có làm giảm các biến chứng ở người lớn khỏe mạnh và trẻ em hay không.[111] [119] [120] [121] Các nghiên cứu quan sát gợi ý oseltamivir có thể làm giảm tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân nhập viện do mắc cúm theo mùa.[122] Kết quả từ một phân tích tổng hợp cho thấy oseltamivir giúp giảm một chút thời gian để đạt đến trạng thái bớt triệu chứng lâm sàng ở người trưởng thành bị cúm, nhưng tăng tỷ lệ buồn nôn và nôn mửa.[123]

Thuốc ức chế M2 amantadine và rimantadine chỉ có tác dụng kháng cúm A. Có sự đồng thuận rằng rimantadine không nên dùng làm phương pháp điều trị bậc một, bởi vì nó có tính kháng chéo với amantadine cao. Do số vi-rút cách ly nhờn thuốc tăng lên, các bác sĩ cần tìm kiếm lời khuyên từ cơ quan chức năng địa phương liên quan đến các thuốc kháng vi-rút dựa trên các quy luật kháng thuốc theo mùa.[107]

Đã có báo cáo rằng oseltamivir đường uống và zanamivir hít giảm thời gian mắc bệnh cúm khi được bắt đầu trong vòng 48 giờ sau khi khởi phát triệu chứng, cả ở trẻ em tới 12 tuổi và người lớn.[124] [125]Lợi ích của điều trị là lớn nhất khi bắt đầu sử dụng thuốc trong vòng 24 đến 30 giờ đầu tiên sau khi khởi phát triệu chứng.[124] [126] [127] [128]

Nếu được kê toa, oseltamivir và zanamivir nên được dùng ở bệnh nhân đến khám trong vòng 2 ngày kể từ khi khởi phát các triệu chứng và được dùng trong 5 ngày. Peramivir được cho dùng theo cách truyền liều đơn, và cũng cần được cho dùng trong vòng 2 ngày kể từ khi khởi phát triệu chứng.[107] [108]Peramivir có thể được khuyến cáo cho những người không thể uống hay hít chất ức chế neuraminidase.

Người lớn thường dung nạp oseltamivir tốt nhưng thuốc có thể gây nôn mửa ở trẻ em. Zanamivir có ít bằng chứng giảm các biến chứng hô hấp ở người lớn hơn so với oseltamivir.

Một cảnh báo về an toàn thuốc liên quan đến oseltamivir đã được công bố tháng 11 năm 2006 sau khi có các báo cáo về tự làm tổn thương bản thân và sảng liên quan đến việc sử dụng thuốc này. Cảnh báo đó cho biết những người bị cúm, đặc biệt là trẻ em, có thể có nguy cơ gia tăng tự làm tổn thương bản thân và lú lẫn ngay sau khi dùng oseltamivir và cần được theo dõi chặt chẽ để phát hiện các dấu hiệu hành vi bất thường.

Những phụ nữ mang thai có biểu hiện mắc bệnh không biến chứng do cúm, và những người không có bằng chứng về bệnh toàn thân, có thể được sử dụng zanamivir hoặc oseltamivir.[108] Theo quan điểm của phơi nhiễm toàn thân thấp hơn, zanamivir được khuyến nghị là lựa chọn đầu tiên, mặc dù có thể dùng cả hai loại thuốc. Ở phụ nữ đang cho con bú, oseltamivir được ưu tiên hơn zanamivir. Trẻ em < 1 tuổi có triệu chứng cúm theo mùa nên được điều trị bằng oseltamivir.[108]

Điều trị dự phòng bằng thuốc kháng vi-rút sau khi phơi nhiễm

Cần được cân nhắc cho:[108] [129]

  • Những người có nguy cơ cao hình thành biến chứng bệnh cúm nếu bệnh hình thành ngay sau khi tiêm vắc-xin cúm, trước khi hình thành đáp ứng miễn dịch đầy đủ.
  • Những người bị chống chỉ định sử dụng vắc-xin. Điều này có thể bao gồm sốc phản vệ với trứng hoặc dị ứng với các thành phần khác của vắc-xin, bệnh sốt hoặc tiền sử mắc hội chứng Guillain-Barre trong vòng 6 tuần sau khi cho dùng vắc-xin cúm trước đó.
  • Những người chưa được tiêm vắc-xin nhưng có biểu hiện triệu chứng hô hấp cấp tính trong một đợt bùng phát cúm đã biết.
  • Những người không được tiêm vắc-xin có tiếp xúc gần với những người có nguy cơ cao hình thành các biến chứng của bệnh cúm trong một đợt bùng phát cúm.
  • Tất cả những người sống trong cơ sở chăm sóc dài hạn hoặc viện dưỡng lão, bao gồm những người đã được tiêm vắc-xin, nếu bùng phát dịch cúm trong cộng đồng nơi họ đang sống.
  • Những người có nguy cơ bị biến chứng cao nhất, bao gồm cả tử vong. Điều này có thể bao gồm những người bị suy giảm miễn dịch.
  • Những người không thể nhận vắc-xin do thiếu hụt, trừ khi họ có nguy cơ cao hình thành các biến chứng của bệnh cúm.

Cả oseltamivir và zanamivir đã cho thấy có hiệu quả như là biện pháp dự phòng lây nhiễm khi dùng sớm sau khi tiếp xúc với cá nhân bị nhiễm bệnh.[124] Một nghiên cứu cho thấy khi điều trị bằng oseltamivir đường uống hoặc zanamivir dạng hít cho những người tiếp xúc với người bệnh trong hộ gia đình trong vòng 48 giờ kể từ ca bệnh chỉ điểm có các triệu chứng giống cúm theo mùa, số ca bệnh cúm có triệu chứng sau đó giảm đáng kể ở những người tiếp xúc với bệnh nhân trong hộ gia đình.[124]

Điều trị kháng sinh

Viêm phổi do vi khuẩn thứ phát là một biến chứng quan trọng của bệnh cúm theo mùa và chiếm tới 25% số ca tử vong liên quan đến cúm theo mùa.[5] Các vi khuẩn phổ biến nhất có liên quan đến viêm phổi trong bối cảnh đồng nhiễm cúm là Streptococcus pneumoniae, Staphylococcus aureus, và Haemophilus influenzae. Thuốc kháng sinh cần nhằm vào các vi khuẩn này.[130]

Tổng quan về các chi tiết điều trị

Lưu ý là dạng bào chế và liều dùng có thể khác nhau giữa các thuốc và dạng biệt dược, công thức, hoặc đường dùng.

Khuyến nghị điều trị cụ thể’ cho các nhóm bệnh nhân: xem phần miễn trừ trách nhiệm

Bắt đầu (tóm tắt)
Tiếp xúc với nhóm đối tượng có nguy cơ mắc cúm
1 Liệu pháp kháng vi-rút dự phòng
Cấp tính (tóm tắt)
Người lớn 1 Thuốc hạ sốt/thuốc giảm đau
  • Bệnh phức tạp hoặc có nguy cơ biến chứng cao: xuất hiện < 48 giờ sau các triệu chứng đầu tiên
Bổ sung Liệu pháp kháng vi-rút
  • Với bội nhiễm vi khuẩn do nguồn không rõ: không bao gồm viêm tai giữa hoặc Staphylococcus aureus
Thêm Thuốc kháng sinh phổ rộng
  • Bội nhiễm Staphylococcus aureus nghi ngờ hoặc đã biết: không bao gồm viêm tai giữa
Thêm Oxacillin, nafcillin, hay vancomycin
  • Với viêm tai giữa
Thêm Thuốc kháng sinh phổ rộng
Trẻ em
1 Thuốc hạ sốt/thuốc giảm đau
  • Bệnh phức tạp hoặc có nguy cơ biến chứng cao: xuất hiện < 48 giờ sau các triệu chứng đầu tiên
Bổ sung Liệu pháp kháng vi-rút
  • Với bội nhiễm vi khuẩn do nguồn không rõ: không bao gồm viêm tai giữa hoặc Staphylococcus aureus
Thêm Thuốc kháng sinh phổ rộng
  • Bội nhiễm Staphylococcus aureus nghi ngờ hoặc đã biết: không bao gồm viêm tai giữa
Thêm Oxacillin, nafcillin, hay vancomycin
  • Với viêm tai giữa
Thêm Thuốc kháng sinh phổ rộng

Các lựa chọn điều trị

Bắt đầu
Tiếp xúc với nhóm đối tượng có nguy cơ mắc cúm
1 Liệu pháp kháng vi-rút dự phòng
  Các lựa chọn sơ cấp

» Oseltamivir: trẻ 3 tháng đến <1 tuổi: 3mg/kg

đường uống một lần mỗi ngày; trẻ em > 1 tuổi và trọng lượng cơ thể’ <15 kg: 30 mg đường uống mỗi ngày một lần; 15-23 kg: 45 mg đường uống mỗi ngày một lần; 23-40 kg: 60 mg đường uống mỗi ngày một lần; >40 kg và người lớn: 75 mg đường uống mỗi ngày một lần

HOẶC

» zanamivir: trẻ em >5 tuổi và người lớn: 10 mg

(hít hai hơi) mỗi ngày một lần Lựa chọn ưu tiên trong thai kỳ.

» Hướng dẫn của NICE cho biết oseltamivir và zanamivir được khuyến cáo để phòng ngừa cúm nếu đáp ứng tất cả các điều kiện sau:[129]

» Lượng vi-rút cúm lưu thông là đủ để nếu một người có bệnh giống cúm, ta có thể cho rằng bệnh đó nhiều khả năng là do vi-rút cúm gây ra.

» Người đó thuộc nhóm có nguy cơ.

» Người đó đã tiếp xúc với một người bị bệnh giống cúm và có thể bắt đầu điều trị trong vòng 36 giờ (đối với zanamivir) hay 48 giờ (đối với oseltamivir).

» Người đó chưa được tiêm vắc-xin bảo vệ hữu hiệu.

» Các nhóm có nguy cơ bao gồm bệnh nhân bị bệnh phổi mạn tính (bao gồm hen suyễn) hay bệnh tim, tiểu đường, bệnh thận, bệnh gan, bệnh thần kinh mạn tính, hoặc ức chế miễn dịch. Cũng bao gồm bệnh nhân ở nhà điều dưỡng hay các cơ sở chăm sóc mạn tính, trẻ sơ sinh từ 6 đến 59 tháng tuổi, người lớn >65 tuổi, phụ nữ mang thai, và nhân viên y tế hoặc người chăm sóc các thành viên thuộc nhóm đối tượng có nguy cơ.[104]

» Các thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng đã cho thấy khi thuốc kháng vi-rút được cho dùng trong vòng 48 giờ sau khi một người trong gia đình báo cáo về bệnh giống cúm, số ca bị cúm có triệu chứng đã giảm.[124]

» Thuốc kháng vi-rút có thể rút ngắn thời gian mắc các triệu chứng bệnh cúm theo mùa 1 đến 2 ngày, nhưng có thể không có ảnh hưởng đến các triệu chứng gây ra bởi các vi-rút khác có thể không phân biệt lâm sàng được với cúm theo mùa.[125]

» Có thể dùng oseltamivir cho người lớn và trẻ em ở mọi lứa tuổi, và được cho dùng trong 10 ngày ở trẻ em và ít nhất 7 ngày (lên đến 6 tuần) ở người lớn đối với chỉ định này. Nên bắt đầu cho dùng trong vòng 2 ngày kể từ khi phơi nhiễm.

» Zanamivir được cho dùng trong 28 ngày ở người lớn và trẻ em trên 5 tuổi đối với chỉ định này, và nên bắt đầu cho dùng trong vòng 5 ngày kể từ khi bùng phát.

Cấp tính
Người lớn 1 Thuốc hạ sốt/thuốc giảm đau
Các lựa chọn sơ cấp

» Paracetamol: 500-1000 mg uống mỗi 4-6 giờ khi cần, tối đa 4000 mg/ngày

» Ibuprofen: 200-400 mg đường uống mỗi 4-6 giờ khi cần, tối đa 2400 mg/ngày
» Thuốc hạ sốt/thuốc giảm đau được đề xuất để giảm triệu chứng đau đầu, sốt và đau cơ.
» Ibuprofen có nguy cơ cao gây các tác dụng bất lợi nghiêm trọng so với paracetamol. Các NSAID như zaltoprofen và loxoprofen, có ở một số quốc gia, được xác nhận là an toàn và hữu ích cho những bệnh nhân bị nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp tính, bao gồm những người bị cúm.[131]

  • Bệnh phức tạp hoặc có nguy cơ biến chứng cao: xuất hiện < 48 giờ sau các triệu chứng đầu tiên
Bổ sung Liệu pháp kháng vi-rút
Biện pháp điều trị được khuyến nghị cho MỘT SỐ bệnh nhân trong nhóm bệnh nhân được chọn
Các lựa chọn sơ cấp
» Oseltamivir: 75 mg đường uống mỗi ngày hai lần
HOẶC» zanamivir: 10 mg (hít hai hơi) hai lần mỗi ngày
HOẶC» peramivir: 600 mg tiêm tĩnh mạch dưới dạng liều đơn» Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Dịch bệnh Hoa Kỳ khuyến cáo điều trị kháng vi-rút càng sớm càng tốt đối với bệnh nhân đã được xác nhận hoặc nghi ngờ cúm, là người bị bệnh nghiêm trọng, biến chứng, hoặc tiến triển, hoặc người phải nhập viện, cũng như bệnh nhân có nguy cơ cao bị biến chứng.[107] [108] [109] Mặc dù chất ức chế neuraminidase đã được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ chấp thuận để điều trị bệnh cấp tính không biến chứng, các hướng dẫn có xu hướng khuyến cáo sử dụng các loại thuốc này cho bệnh biến chứng cũng như ở những người có nguy cơ biến chứng. Các hướng dẫn địa phương có thể khác nhau và cần được tham khảo.[110]

» Lợi ích của điều trị là lớn nhất khi bắt đầu sử dụng thuốc trong vòng 24 đến 30 giờ đầu tiên sau khi khởi phát triệu chứng.[124] [126] [127] 3[A]Evidence

» Do sự xuất hiện của các mẫu phân lập vi-rút kháng thuốc, CDC hiện khuyến cáo chỉ sử dụng các chất ức chế neuraminidase (ví dụ, oseltamivir, zanamivir, hoặc peramivir) chứ không phải chất ức chế M2 (ví dụ, amantadine hoặc rimantadine) khi chỉ định điều trị nhiễm vi-rút cúm theo mùa.[115] [107] [124] [133]

» Oseltamivir và zanamivir nên được dùng trong vòng 2 ngày kể từ khi khởi phát các triệu chứng và được dùng trong 5 ngày đối với chỉ định điều trị này. Một liều tiêm tĩnh mạch một lần peramivir được chỉ định trong vòng 2 ngày sau khi khởi phát các triệu chứng.[107] [108]Peramivir có thể được khuyến cáo cho những người không thể uống hay hít chất ức chế neuraminidase.

» Thuốc kháng vi-rút không phải là lựa chọn thay thế cho vắc-xin ngừa vi-rút cúm mùa.
» Những phụ nữ mang thai có biểu hiện mắc bệnh không biến chứng do cúm, và những người không có bằng chứng về bệnh toàn thân, có thể được sử dụng zanamivir hoặc oseltamivir.[108] Theo quan điểm của phơi nhiễm toàn thân thấp hơn, zanamivir được khuyến nghị là lựa chọn đầu tiên, mặc dù có thể dùng cả hai loại thuốc.
» Ở phụ nữ đang cho con bú, oseltamivir được ưu tiên hơn zanamivir.

  • Với bội nhiễm vi khuẩn do nguồn không rõ: không bao gồm viêm tai giữa hoặc Staphylococcus aureus
Thêm Thuốc kháng sinh phổ rộng
Biện pháp điều trị được khuyến nghị cho TẤT CẢ bệnh nhân trong nhóm bệnh nhân được chọn
Các lựa chọn sơ cấp
» ceftriaxone: 2 g tiêm tĩnh mạch mỗi ngày một lầnHOẶC
» levofloxacin: 500 mg đường uống/tiêm tĩnh mạch mỗi ngày một lần trong 7-14 ngày; hoặc 750 mg đường uống/tiêm tĩnh mạch mỗi ngày một lần trong 5 ngày
HOẶC
» Moxifloxacin: 400 mg đường uống/tiêm tĩnh mạch mỗi ngày một lần
Các lựa chọn thứ cấp
» cefotaxime: 1-2 g tiêm tĩnh mạch mỗi 6-8 giờ
HOẶC
» cefuroxime: 750-1500 mg tiêm tĩnh mạch mỗi 6-8 giờ
» Chỉ nên dùng thuốc kháng sinh cho một số biến chứng của bệnh cúm cấp tính, như viêm phổi do vi khuẩn hoặc viêm xoang.
» Việc chọn thuốc kháng sinh nên dựa trên nhuộm Gram và nuôi cấy hoặc chỉ định các thuốc kháng sinh theo kinh nghiệm có hiệu quả chống lại các mầm bệnh vi khuẩn phổ biến nhất sau khi bị cúm, cụ thể là Streptococcus pneumoniae, Staphylococcus aureus hoặc Haemophilus influenzae.[130] Có thể tiến hành điều trị như một bệnh nhân ngoại trú nếu bệnh nhân không bị suy hô hấp và ổn định huyết động. Tuy nhiên, phải giám sát và theo dõi chặt chẽ để đánh giá xem bệnh nhân có cần phải được nhập viện để chăm sóc nội trú hay không.
» Quinolone không được khuyến nghị sử dụng khi đang mang thai. Tuy nhiên, cephalosporin thích hợp cho phụ nữ mang thai.
» Liệu trình điều trị thường là từ 7 đến 14 ngày.
  • Bội nhiễm Staphylococcus aureus nghi ngờ hoặc đã biết: không bao gồm viêm tai giữa
Thêm Oxacillin, nafcillin, hay vancomycin
Biện pháp điều trị được khuyến nghị cho TẤT CẢ bệnh nhân trong nhóm bệnh nhân được chọn
Các lựa chọn sơ cấp
» oxacillin: 2 g tiêm tĩnh mạch 4 giờ một lần
HOẶC
» nafcillin: 2 g tiêm tĩnh mạch 4 giờ một lần
HOẶC» vancomycin: 1000 mg tiêm tĩnh mạch mỗi 12 giờ
» Nên bổ sung thêm thành phần chống lại khuẩn tụ cầu khi nghi ngờ Staphylococcus aureus là nguồn lây bệnh. Nên nghi ngờ nhiễm khuẩn S aureus ở những bệnh nhân bị cúm và viêm phổi mắc thêm theo CXR.
» Nếu xác nhận nhiễm khuẩn S aureus thì nên dừng liệu pháp thuốc kháng sinh phổ rộng và tiếp tục điều trị với oxacillin hoặc nafcillin.
» Nếu xác nhận nhiễm MRSA thì nên ngừng điều trị bằng thuốc kháng sinh phổ rộng và tiếp tục điều trị chỉ với vancomycin.
  • Với viêm tai giữa
Thêm Thuốc kháng sinh phổ rộng
Biện pháp điều trị được khuyến nghị cho TẤT CẢ bệnh nhân trong nhóm bệnh nhân được chọn
Các lựa chọn sơ cấp
» Amoxicillin: 500-875 mg đường uống mỗi 12 giờ trong 7 ngày
HOẶC
» amoxicillin/clavulanate: 500-875 mg đường uống mỗi 12 giờ trong 7 ngày
Liều dùng tính theo thành phần amoxicillin.
Các lựa chọn thứ cấp
» cefdinir: 300 mg đường uống mỗi 12 giờ trong 10 ngày
HOẶC
» cefuroxime: 250-500 mg uống mỗi 12 giờ trong 10 ngày
Các lựa chọn cấp ba
» azithromycin: 500 mg đường uống một lần mỗi ngày trong 3 ngày
HOẶC
» clarithromycin: 250-500 mg đường uống mỗi 12 giờ trong 7 ngày
» Không có sự cải thiện trong 48 đến 72 giờ ở bệnh nhân được điều trị bằng kháng sinh cho thấy điều trị ban đầu không thích hợp. Điều này thường liên quan đến nhiễm một vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh beta-lactam (Haemophilus influenzae và Streptococcus pneumoniae kháng thuốc), do đó chỉ ra nhu cầu về một loại thuốc nhạy cảm với beta-lactam như amoxicillin/clavulanate hoặc cephalosporin.» Có thể’ sử dụng azithromycin hoặc clarithromycin như một liệu pháp thay thế cho các bệnh nhân dị ứng penicillin. Tuy nhiên, các mẫu phân lập kháng phế cầu khuẩn có thể’ không đáp ứng với liệu pháp này.[134] » Amoxicillin và cephalosporin được coi là an toàn ở phụ nữ mang thai.
Trẻ em
1 Thuốc hạ sốt/thuốc giảm đau
Các lựa chọn sơ cấp

» Paracetamol: 10-15 mg/kg đường uống mỗi 4-6 giờ khi cần, tối đa 75 mg/kg/ngày
HOẶC
» Ibuprofen: 5-10 mg/kg đường uống mỗi 4-6 giờ khi cần, tối đa 30 mg/kg/ngày
» Thuốc hạ sốt/thuốc giảm đau được đề xuất để giảm triệu chứng đau đầu, sốt và đau cơ.
» Ibuprofen có nguy cơ cao gây các tác dụng bất lợi nghiêm trọng so với paracetamol.
» Không nên dùng aspirin cho trẻ em dưới 16 tuổi do nguy cơ mắc hội chứng Reye.

  • Bệnh phức tạp hoặc có nguy cơ biến chứng cao: xuất hiện < 48 giờ sau các triệu chứng đầu tiên
Bổ sung Liệu pháp kháng vi-rút
Biện pháp điều trị được khuyến nghị cho MỘT SỐ bệnh nhân trong nhóm bệnh nhân được chọn
Các lựa chọn sơ cấp
» Oseltamivir: trẻ sinh non: tham khảo ý kiến chuyên gia để được hướng dẫn về liều dùng; trẻ em <1 tuổi: 3 mg/kg đường uống hai lần mỗi ngày; trẻ em >1 tuổi và trọng lượng cơ thể’ <15 kg: 30 mg đường uống hai lần mỗi ngày; 15-23 kg: 45 mg đường uống hai lần mỗi ngày; 23-40 kg: 60 mg đường uống hai lần mỗi ngày; > 40 kg: 75 mg đường uống hai lần mỗi ngày
HOẶC» zanamivir: trẻ em >7 tuổi: 10 mg (hít hai hơi) hai lần mỗi ngày
HOẶC
» peramivir: trẻ em >2 tuổi: 12 mg/kg tiêm tĩnh mạch dưới dạng liều đơn, tối đa 600 mg/liều
» Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Dịch bệnh Hoa Kỳ khuyến cáo điều trị kháng vi-rút càng sớm càng tốt đối với bệnh nhân đã được xác nhận hoặc nghi ngờ cúm, là người bị bệnh nghiêm trọng, biến chứng, hoặc tiến triển, hoặc người phải nhập viện, cũng như bệnh nhân có nguy cơ cao bị biến chứng.[107] [108] [109]Mặc dù chất ức chế neuraminidase đã được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ phê duyệt để điều trị bệnh cấp tính không biến chứng, các hướng dẫn có xu hướng khuyến cáo sử dụng các loại thuốc này cho bệnh biến chứng cũng như ở những người có nguy cơ biến chứng. Các hướng dẫn địa phương có thể khác nhau và cần được tham khảo.[110] » Lợi ích của điều trị là lớn nhất khi bắt đầu dùng thuốc trong 24 đến 30 giờ đầu tiên sau khi khởi phát triệu chứng.[124] [126] [127] [128] » Do sự xuất hiện của các mẫu phân lập vi-rút kháng thuốc, CDC hiện đang khuyến cáo rằng chỉ nên chỉ định các chất ức chế neuraminidase (tức là oseltamivir hoặc zanamivir) chứ không phải chất ức chế M2 (tức là amantadine hoặc rimantadine) khi điều trị nhiễm vi- rút cúm theo mùa.[107] [124] [133]» Oseltamivir và zanamivir nên được dùng trong vòng 2 ngày kể từ khi khởi phát các triệu chứng và được dùng trong 5 ngày đối với chỉ định điều trị này. Peramivir có thể dùng cho trẻ em từ 2 tuổi trở lên đã có triệu chứng không quá 2 ngày.[107] [108] Peramivir có thể được khuyến cáo cho những người không thể uống hay hít chất ức chế neuraminidase.
» Thuốc kháng vi-rút không phải là lựa chọn thay thế cho vắc-xin ngừa vi-rút cúm mùa.
» Trẻ em <1 tuổi có triệu chứng cúm theo mùa nên được điều trị bằng oseltamivir.[108]
  • Với bội nhiễm vi khuẩn do nguồn không rõ: không bao gồm viêm tai giữa hoặc Staphylococcus aureus
Thêm Thuốc kháng sinh phổ rộng
Biện pháp điều trị được khuyến nghị cho TẤT CẢ bệnh nhân trong nhóm bệnh nhân được chọn
Các lựa chọn sơ cấp
» ceftriaxone: 50-75 mg/kg/ngày, tiêm tĩnh mạch
» Chỉ nên dùng thuốc kháng sinh cho một số biến chứng của bệnh cúm cấp tính, như viêm phổi do vi khuẩn hoặc viêm xoang.
» Việc chọn thuốc kháng sinh nên dựa trên nhuộm Gram và nuôi cấy hoặc chỉ định các thuốc kháng sinh theo kinh nghiệm có hiệu quả chống lại các mầm bệnh vi khuẩn phổ biến nhất sau khi bị cúm, cụ thể là Streptococcus pneumoniae, Staphylococcus aureus hoặc Haemophilus influenzae.[130] Có thể tiến hành điều trị như một bệnh nhân ngoại trú nếu bệnh nhân không bị suy hô hấp và ổn định huyết động. Tuy nhiên, phải giám sát và theo dõi chặt chẽ để đánh giá xem bệnh nhân có cần phải được nhập viện để chăm sóc nội trú hay không.
» Liệu trình điều trị thường là từ 7 đến 14 ngày.
  • Bội nhiễm Staphylococcus aureus nghi ngờ hoặc đã biết: không bao gồm viêm tai giữa
Thêm Oxacillin, nafcillin, hay vancomycin
Biện pháp điều trị được khuyến nghị cho TẤT CẢ bệnh nhân trong nhóm bệnh nhân được chọn
Các lựa chọn sơ cấp
» oxacillin: 100-200 mg/kg/ngày tiêm tĩnh mạch, chia liều mỗi 6 giờ, tối đa 12 g/ngày
HOẶC
» nafcillin: 50-200 mg/kg/ngày, tiêm tĩnh mạch, chia liều mỗi 4-6 giờ, tối đa 12 g/ngày
HOẶC
» vancomycin: 10-15 mg/kg tiêm tĩnh mạch mỗi 6 giờ, tối đa 2000 mg/ngày
» Nên bổ sung thêm thành phần chống lại khuẩn tụ cầu khi nghi ngờ Staphylococcus aureus là nguồn lây bệnh. Nên nghi ngờ nhiễm khuẩn S aureus ở những bệnh nhân bị cúm và viêm phổi mắc thêm theo CXR.
» Nếu xác nhận nhiễm khuẩn S aureus thì nên dừng liệu pháp thuốc kháng sinh phổ rộng và tiếp tục điều trị với oxacillin hoặc nafcillin.
» Nếu xác nhận nhiễm MRSA thì nên ngừng điều trị bằng thuốc kháng sinh phổ rộng và tiếp tục điều trị chỉ với vancomycin.
  • Với viêm tai giữa
Thêm Thuốc kháng sinh phổ rộng
Biện pháp điều trị được khuyến nghị cho TẤT CẢ bệnh nhân trong nhóm bệnh nhân được chọn
Các lựa chọn sơ cấp
» Amoxicillin: 80-100 mg/kg/ngày đường uống,
chia liều mỗi 12 giờ trong 10 ngày
HOẶC
» amoxicillin/clavulanate: >3 tháng tuổi: 80-100 mg/kg/ngày đường uống, chia liều mỗi 12 giờ trong 10 ngày
Liều dùng tính theo thành phần amoxicillin.
Các lựa chọn thứ cấp
» cefdinir: >6 tháng tuổi: 14 mg/kg/ngày đường uống trong 10 ngàyHOẶC
» cefuroxime: 30 mg/kg/ngày đường uống, chia liều mỗi 12 giờ trong 10 ngày
Các lựa chọn cấp ba
» azithromycin: >6 tháng tuổi: 10 mg/kg/ngày đường uống trong ngày đầu, sau đó là 5 mg/kg/ ngày trong 4 ngày; hoặc 10 mg/kg/ngày đường uống trong 3 ngày; hoặc 30 mg/kg/ngày đường uống dưới dạng liều đơn
HOẶC
» clarithromycin: >6 tháng tuổi: 15 mg/kg/ngày đường uống, chia liều mỗi 12 giờ trong 10 ngày
» Hơn 80% trẻ em bị viêm tai giữa cấp tính do phế cầu khuẩn sẽ đáp ứng với điều trị amoxicillin liều cao.[135] » Không có sự cải thiện trong 48 đến 72 giờ ở bệnh nhân được điều trị bằng kháng sinh cho thấy điều trị ban đầu không thích hợp. Điều này thường liên quan đến nhiễm một vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh beta-lactam (Haemophilus influenzae và Streptococcus pneumoniae kháng thuốc), do đó chỉ ra nhu cầu về một loại thuốc nhạy cảm với beta-lactam như amoxicillin/clavulanate hoặc cephalosporin.
» Có thể sử dụng azithromycin hoặc clarithromycin như một liệu pháp thay thế cho các bệnh nhân dị ứng penicillin. Tuy nhiên, các mẫu phân lập kháng phế cầu khuẩn có thể không đáp ứng với liệu pháp này.[134]

Giai đoạn đầu

Baloxivir marboxil

Baloxivir là thuốc kháng vi-rút đường uống mới ức chế khả năng tái tạo vi-rút cúm bằng cách ức chế endonuclease phụ thuộc cap. Thuốc đã được phê duyệt tại Nhật Bản vào tháng 2 năm 2018 để điều trị nhiễm cúm A hoặc B. Vào tháng 10 năm 2018, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã phê duyệt baloxavir marboxil là thuốc điều trị dưới dạng liều đơn, đường uống để điều trị cúm không biến chứng, cấp tính ở những người từ 12 tuổi trở lên đã có triệu chứng trong không quá 48 giờ. Ở thử nghiệm ngẫu nhiên giai đoạn III trên những bệnh nhân từ 12 đến 64 tuổi bị cúm không biến chứng (vào mùa năm 2016-2017), liều đơn baloxavir làm giảm thời gian trung bình để giảm triệu chứng so với giả dược (54 so với 80 giờ) và tương tự như oseltamivir. Baloxavir có liên quan đến việc giảm lượng lớn tải lượng vi-rút một ngày sau khi bắt đầu phác đồ so với cả giả dược và oseltamivir.[136]

Công nghệ không dùng kim tiêm

Công nghệ tiêm jet không dùng kim tiêm để tiêm vắc-xin cúm có thể tránh được vấn đề sợ kim tiêm và nguy cơ gây chấn thương do kim đâm.[137]

Liệu pháp kháng vi-rút kết hợp

Kết hợp 2 thuốc kháng vi-rút có tác dụng trên các khía cạnh khác nhau của vòng đời vi-rút có thể có lợi hơn so với riêng từng loại thuốc, mặc dù các lựa chọn bị giới hạn bởi số lượng nhỏ các loại thuốc kháng vi-rút.[138] Nghiên cứu ở chuột chứng minh trị liệu hiệp lực khi oseltamivir được kết hợp với amantadine,[139] hoặc với favipiravir.[140] Một nghiên cứu trong ống nghiệm cho thấy rằng liệu pháp kết hợp amantadine và oseltamivir có thể làm giảm sự xuất hiện của vi-rút cúm A kháng thuốc.[141] Tuy nhiên, cần thận trọng vì một nghiên cứu kết hợp oseltamivir-zanamivir cho thấy việc đó ít hiệu quả hơn so với dùng riêng oseltamivir.[142]

Protein hợp nhất sialidase DAS181 tái tổ hợp

Hiện đang được phát triển, thuốc này nhằm vào tế bào hô hấp vật chủ thay vì bản thân vi-rút cúm, đặc biệt là các thụ thể sialic acid được vi-rút cúm sử dụng để dính vào biểu mô đường thở.[138] DAS181 là một protein hợp nhất sialidase bao gồm lĩnh giới xúc tác sialidase của Actinomyces viscosus, hợp nhất với một trình tự neo bề mặt tế bào. Protein hợp nhất hít vào này loại bỏ các thụ thể gắn cúm trên biểu mô hô hấp. Các nghiên cứu đến nay chứng tỏ hiệu quả trong ống nghiệm chống lại cả cúm A và B,[105] và hiệu quả trong ống nghiệm và trong cơ thể chống lại vi-rút á cúm.[143]

Cyanovirin-N

Cyanovirin-N là một protein tương tác với protein kháng nguyên ngưng kết hồng cầu trên bề mặt tế bào của cả vi-rút cúm A và cúm B trong ống nghiệm.[124] Thuốc đem lại đặc tính kháng vi-rút bằng cách chặn lối vào của vi-rút,[138] nhưng việc tiếp tục phát triển bị cản trở bởi các vấn đề liên quan đến sinh miễn dịch và gây độc tế bào. Tuy nhiên, một nghiên cứu ban đầu với một dẫn xuất PEGylated cyanovirin-N mới đã cho kết quả tích cực.[144]

RNA can thiệp ngắn

Mặc dù hiện nay chỉ mới nghiên cứu ở chuột, các RNA can thiệp ngắn đặc hiệu cho các khu vực bảo tồn của các gen bệnh cúm đã làm giảm tái tạo vi-rút khi được tiêm qua tĩnh mạch. Gần đây, can thiệp RNA đã được chứng minh là có tác dụng ức chế nhiễm vi-rút cúm khi kết hợp với interferon gamma.[145]

Favipiravir

Một pyrazine thay thế ức chế RNA polymerase của vi-rút.[138] Các nghiên cứu trong ống nghiệm và trên cơ thể đã cho thấy sự ức chế tái tạo virut và các hoạt động chống vi-rút kháng cả amantadines và chất ức chế neuraminidase. Favipiravir ngăn tái tạo nhiều chủng vi-rút cúm, kể cả vi-rút cúm gia cầm H7N9.[146] Ngoài ra, thuốc này có hiệu lực chống lại nhiều arena-, bunya-, flavi-, alpha-, picorna-, và noroviruses.

Viramidine

Một tiền chất của ribavirin, viramidine nhằm vào enzym tế bào IMP dehydrogenase, có liên quan đến tổng hợp RNA vi- rút.[138] Nó hoạt động chống lại các vi-rút cúm A theo mùa và H5N1,[147] và có thể tiêm tĩnh mạch, uống, hoặc phun khí.

Vắc-xin DNA.

Vắc xin DNA phòng chống ba chủng cúm đã được phát triển với ba plasmid trình diện trên kháng nguyên ngưng kết hồng cầu từ các chủng vi-rút cúm theo mùa khác nhau. Thuốc chứng tỏ khả năng bảo vệ chống lại bệnh cúm và có hồ sơ về an toàn tốt.[148] Trong một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I, vắc-xin H5 DNA ngừa chủng đơn có tá dược đã được dung nạp tốt và kích tỷ lệ phản ứng ức chế ngưng kết hồng cầu tương tự như các vắc-xin H5 nguồn gốc protein khử hoạt tính.[149] Kết quả cho thấy rằng vắc-xin DNA có tá dược với việc sản xuất vắc-xin nhanh chóng có thể hữu ích cho việc kiểm soát dịch.

VIS410

VIS410 là kháng thể đơn dòng được thiết kế để nhắm vào tất cả các chủng vi-rút đã biết của cúm A. Kháng thể này kháng lại epitope đặc hiệu trên kháng nguyên ngưng kết hồng cầu, một protein bề mặt được sử dụng để liên kết và xâm nhập tế bào, và được thiết kế để ngừng chu kỳ tái tạo vi-rút cúm. Kháng thể này đang được phát triển để điều trị cho bệnh nhân nhập viện nhiễm cúm A và hiện đang được thử nghiệm giai đoạn 2.

Liên lạc theo dõi

Khuyến nghị

Giám sát

CDC và WHO theo dõi và báo cáo các chủng vi rút cúm cách ly theo mùa trên toàn thế giới để giám sát hoạt động của bệnh và dự đoán các thành phần thích hợp cho vắc-xin cúm theo mùa hàng năm. Thông tin này có thể giúp các bác sĩ theo dõi bất kỳ đợt bùng phát, dịch bệnh, hoặc đại dịch nào để chuẩn bị tốt hơn cho cộng đồng của mình. Thông tin này được cập nhật hàng tuần vào mùa cúm. [CDC: FluView: weekly influenza surveillance report]

Hướng dẫn dành cho bệnh nhân

Khuyên bệnh nhân bị nhiễm cúm tránh tiếp xúc gần gũi với những người không bị nhiễm bệnh để ngăn ngừa lây các chất bài tiết đường hô hấp và do đó hạn chế sự lây lan của vi-rút trong cộng đồng.

Giúp bệnh nhân nhận thức được rằng vắc-xin cúm theo mùa là một vắc-xin hàng năm có các thành phần phản ánh các chủng được dự đoán cho mùa đó. Do đó, vắc-xin cần phải được tiêm mỗi mùa.

Bệnh nhân cũng cần biết về các sản phẩm bán không cần toa bất hợp pháp và không được phê duyệt được cho là ngăn ngừa hoặc chữa khỏi cúm. Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã cảnh báo người tiêu dùng rằng trong khi trên thị trường có các loại thuốc bán không cần toa hợp pháp để giảm các triệu chứng cúm, thì có các loại thuốc bán không cần toa bất hợp pháp trên thị trường để ngăn ngừa hoặc chữa khỏi cúm.[160]

Các biến chứng

<td “>Khung thời gian

Các biến chứng Khả năng
Viêm phổi do vi khuẩn Ngắn hạn Cao
Phổ biến nhất xảy ra ở các nhóm đối tượng có nguy cơ cao, ví dụ như những người bị bệnh mạn tính, và có liên quan đến 25% tất cả các ca tử vong do cúm.[5]

Các vi khuẩn phổ biến nhất có liên quan là Streptococcus pneumoniae, Staphylococcus aureus, và Haemophilus influenzae.[130]

Điều trị với thuốc kháng sinh sẽ bảo vệ chống lại các vi khuẩn này hoặc như được chỉ định dựa trên kết quả nuôi cấy.

Chụp X quang phổi sẽ cho thấy các thâm nhiễm điển hình.

Viêm phổi do virút Ngắn hạn Thấp
Viêm phổi do cúm nguyên phát xảy ra khi việc nhiễm vi-rút cúm trực tiếp liên quan đến nhu mô phổi.

Cần nghi ngờ khi các triệu chứng kéo dài và tăng thay vì thuyên giảm ở bệnh nhân mắc cúm cấp tính.

Có thể quan sát thấy sốt cao, khó thở, và thậm chí là tiến triển thành chứng xanh tím.[4]

Phổ biến nhất xảy ra ở các nhóm đối tượng có nguy cơ cao, ví dụ như những người mắc tình trạng bệnh lý mạn tính.

Viêm tai giiuwax Ngắn hạn Thấp
Làm phức tạp thêm quá trình bệnh cúm ở 10% đến 50% trẻ em.[151] Điều trị với oseltamivir giảm tỷ lệ mắc mới chứng viêm tai giữa cấp tính ở trẻ em.[152]

Căn nguyên do bội nhiễm vi khuẩn thường liên quan đến Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenzae, hay Moraxella catarrhalis.[153] Điều trị dựa trên phạm vi bao quát các vi sinh vật này.

Tiêu cơ vân/viêm cơ Ngắn hạn Thấp
Được báo cáo thường xuyên hơn ở trẻ em, viêm cơ thường có biểu hiện dưới dạng đau các cơ bắp đau ở chân.

Không rõ cơ chế sinh bệnh học; tuy nhiên, đã thấy sự hiện diện của vi-rút cúm ở các cơ bị ảnh hưởng.[154]

Đặc trưng bởi sự gia tăng mức creatine phosphokinase ở huyết thanh, và có thể là myoglobin niệu với suy thận.[155] [156]

Viêm não Ngắn hạn Thấp
Một nghiên cứu đoàn hệ hồi quy đối với 842 trẻ em ở Hoa Kỳ với bệnh cúm đã được xác nhận qua xét nghiệm trong các năm từ 2000 đến 2004 cho thấy tỷ lệ mắc mới biến chứng thần kinh là 4 ca trên 100.000 người một năm.[151]

Biến chứng thần kinh thường xuyên xảy ra hơn đối với trẻ em từ 6 tháng đến 4 tuổi và ở các bệnh nhân bị bệnh thần kinh hay thần kinh cơ tiềm ẩn.

Viêm não xảy ra khi vi-rút xâm nhập hệ thống thần kinh trung ương (CNS). Do các bất thường trong hoạt động của não là phổ biến trong chứng viêm não, cần theo dõi để phát hiện trạng thái tâm lý thay đổi, thiếu vận động hoặc cảm giác, thay đổi hành vi và thay đổi tính cách, và rối loạn trong khả năng nói hoặc vận động.

Điều trị bằng cách hỗ trợ.

Viêm tủy ngang Ngắn hạn Thấp
Đây là chấn thương tủy sống phân đoạn do tình trạng viêm cấp tính gây ra. Thông thường, tình trạng viêm ở cả hai bên, gây ra ốm yếu và các rối loạn cảm giác dưới mức độ của tổn thương.

MRI tủy sống cho thấy bất thường trong tín hiệu tăng gadolinium ở (các) phân đoạn bị ảnh hưởng.

Bệnh nhân thường được điều trị bằng corticosteroid ngoài đường tiêu hóa.[157]

Viêm màng não vô khuẩn Ngắn hạn Thấp
Bệnh nhân bị viêm màng não có thể cảm thấy khó chịu, ngủ lịm và/hoặc bị phân tâm bởi nhức đầu, nhưng chức năng não của họ vẫn bình thường.

Điều trị bằng cách hỗ trợ.

Một nghiên cứu đoàn hệ hồi quy đối với 842 trẻ em ở Hoa Kỳ với bệnh cúm đã được xác nhận qua xét nghiệm trong các năm từ 2000 đến 2004 cho thấy tỷ lệ mắc mới biến chứng thần kinh là 4 ca trên 100.000 người một năm.[151] Biến chứng thần kinh thường xuyên xảy ra hơn đối với trẻ em từ 6 tháng đến 4 tuổi và ở các bệnh nhân bị bệnh thần kinh hay thần kinh cơ tiềm ẩn.

Hội chứng Guillain-Barre (GBS) Ngắn hạn Thấp
Một tình trạng không đồng nhất với nhiều biến thể. Thông thường, GBS có biểu hiện như một căn bệnh gây liệt cấp tính do một lần nhiễm bệnh trước đây gây ra.

Các đặc điểm lâm sàng chính của GBS là yếu cơ khá đối xứng, tiến triển, đi kèm với thiếu hoặc suy giảm phản xạ gân sâu.

Điều trị chủ yếu là hỗ trợ, mặc dù các loại thuốc thay đổi bệnh như corticosteroid và globulin miễn dịch truyền đã được sử dụng.[158]

Hội chứng sốc độc Ngắn hạn Thấp
Hội chứng sốc độc tố, liên quan đến nhiễm Staphylococcus aureus và cúm cấp tính, đã được mô tả sau cả nhiễm cúm A và B trong các báo cáo ca bệnh.[159]
Bệnh não sau cúm Dài hạn Thấp
Một nghiên cứu đoàn hệ hồi quy đối với 842 trẻ em ở Hoa Kỳ với bệnh cúm đã được xác nhận qua xét nghiệm trong các năm từ 2000 đến 2004 cho thấy tỷ lệ mắc mới biến chứng thần kinh là 4 ca trên 100.000 người một năm.[151]

Biến chứng thần kinh thường xuyên xảy ra hơn đối với trẻ em từ 6 tháng đến 4 tuổi và ở các bệnh nhân bị bệnh thần kinh hay thần kinh cơ tiềm ẩn.

Theo dõi để phát hiện trạng thái tâm lý thay đổi, thiếu vận động hoặc cảm giác, thay đổi hành vi và thay đổi tính cách, và rối loạn trong khả năng nói hoặc vận động.

Tiên lượng

Nhiễm cúm theo mùa không có biến chứng

Bệnh cúm theo mùa thường là một bệnh hô hấp cấp tính tự khỏi xuất hiện lặp lại mỗi mùa đông khi các chủng khác xuất hiện. Các vắc xin cúm hàng năm có sẵn để sinh miễn dịch chống lại 3 chủng dự kiến sẽ lưu hành trong một cộng đồng.[150] Nếu nhiễm cúm theo mùa, việc bắt đầu điều trị kháng vi-rút trong vòng 36 đến 48 giờ sau khởi phát các triệu chứng sẽ giảm số ngày bị bệnh từ 1 đến 2 ngày và giảm các biến chứng đường hô hấp dưới.[124]

Cúm theo mùa có biến chứng: viêm phổi do vi-rút

Bệnh nhân được coi là có nguy cơ cao bị cúm theo mùa có thể hình thành một biến chứng đường hô hấp dưới của bệnh viêm phổi do vi-rút. Điều này có thể cần chăm sóc nâng đỡ tích cực hơn hoặc phải nhập viện.

Cúm theo mùa có biến chứng: viêm phổi do vi khuẩn

Bệnh nhân ban đầu thuyên giảm bệnh đường hô hấp rồi sau đó tái phát sốt và ho với nhiều đờm có thể bị bệnh viêm phổi do vi khuẩn, biến chứng của nhiễm cúm theo mùa. Điều này có thể cần chăm sóc hỗ trợ tích cực hơn, liệu pháp kháng sinh phù hợp, và/hoặc phải nhập viện.

Hướng dẫn

Hướng dẫn chẩn đoán

Bắc Mỹ

Influenza signs and symptoms and the role of laboratory diagnostics

Nhà xuất bản: Centers for Disease Control and Prevention

Xuất bản lần cuối: 2016

Pandemic influenza guidance for corporations

Nhà xuất bản: American College of Occupational and Environmental Medicine

Xuất bản lần cuối: 2010

Hướng dẫn điều trị

Châu Âu

Amantadine, oseltamivir and zanamivir for the treatment of influenza

Nhà xuất bản: National Institute for Health and Care Excellence

Xuất bản lần cuối: 2009

Oseltamivir, amantadine (review) and zanamivir for the prophylaxis of influenza

Nhà xuất bản: National Institute for Health and Care Excellence

Xuất bản lần cuối: 2008

Quốc tế

Recommended composition of influenza virus vaccines for use in the 2018-2019 northern

hemisphere influenza season Nhà xuất bản: World Health Organization

Xuất bản lần cuối: 2018

Bắc Mỹ

Recommended immunization schedule for adults aged 19 years or older – United States, 2018

Nhà xuất bản: Centers for Disease Control and Prevention

Xuất bản lần cuối: 2018

Recommended immunization schedule for children and adolescents aged 18 years or younger

– United States, 2018

Nhà xuất bản: Centers for Disease Control and Prevention

Xuất bản lần cuối: 2018

Influenza antiviral medications: summary for clinicians

Nhà xuất bản: Centers for Disease Control and Prevention

Xuất bản lần cuối: 2018

Prevention and control of seasonal influenza with vaccines: recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices, United States, 2018-19 influenza season

Nhà xuất bản: Centers for Disease Control and Prevention Xuất bản lần cuối: 2018

Recommendations for obstetric health care providers related to use of antiviral medications in the treatment and prevention of influenza

Nhà xuất bản: Centers for Disease Control and Prevention

Xuất bản lần cuối: 2017

Guidance for the prevention and control of influenza in the peri- and postpartum settings Nhà xuất bản: Centers for Disease Control and Prevention

Xuất bản lần cuối: 2018

Prevention strategies for seasonal influenza in healthcare settings

Nhà xuất bản: Centers for Disease Control and Prevention

Xuất bản lần cuối: 2018

Recommendations for prevention and control of influenza in children, 2018-2019

Nhà xuất bản: American Academy of Pediatrics

Xuất bản lần cuối: 2018

A guide to utilization of the microbiology laboratory for diagnosis of infectious diseases: 2018 update by the Infectious Diseases Society of America and the American Society for Microbiology

Nhà xuất bản: Infectious Diseases Society of America; American Society for

Xuất bản lần cuối: 2018

Microbiology

Antiviral agents for the treatment and chemoprophylaxis of influenza: Recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices (ACIP)

Nhà xuất bản: Centers for Disease Control and Prevention

Xuất bản lần cuối: 2011

Seasonal influenza in adults and children: diagnosis, treatment, chemoprophylaxis, and institutional outbreak management

Nhà xuất bản: Infectious Diseases Society of America

Xuất bản lần cuối: 2009

Canadian Immunization Guide Chapter on Influenza and Statement on Seasonal Influenza Vaccine for 2017-2018

Nhà xuất bản: Government of Canada

Xuất bản lần cuối: 2018

Update: ACIP recommendations for the use of quadrivalent live attenuated influenza vaccine (LAIV4) — United States, 2018-19 influenza season

Nhà xuất bản: Centers for Disease Control and Prevention

Xuất bản lần cuối: 2018

Châu Phi

Influenza guideline for South Africa: update 2008

Nhà xuất bản: South African Thoracic Society

Xuất bản lần cuối: 2008

Nguồn trợ giúp trực tuyến

  1. CDC: FluView: weekly influenza surveillance report (external link)
  2. CDC: Influenza (Flu) (external link)
  3. CDC: influenza symptoms and the role of laboratory diagnostics (external link)

Điểm số bằng chứng

  1. Hiệu lực của vắc-xin ở người lớn khỏe mạnh: có bằng chứng chất lượng cao cho thấy rằng việc tiêm vắc-xin cúm sống bị làm yếu hoặc vắc-xin cúm bất hoạt ở người lớn khỏe mạnh có hiệu quả cao trong việc phòng ngừa nhiễm cúm.[59] [60] [61] [62] [63] Bằng chứng cấp độ A: Đánh giá hệ thống (SR) hoặc các thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng (RCT) với >200 người tham gia.
  2. Các yếu tố chẩn đoán chính ở trẻ em: có bằng chứng chất lượng thấp cho thấy sốt và ho là dấu hiệu dự đoán bệnh cúm theo mùa ở trẻ em. Trong các nghiên cứu tiến hành trên trẻ em từ 5 đến 12 tuổi, giá trị dự đoán dương tính là sốt và ho kết hợp cùng nhau để chẩn đoán bệnh cúm là từ 71% đến 83%, so với 64% ở trẻ em <5 tuổi.[88] Trong một nghiên cứu giám sát lớn, dựa trên nhóm đối tượng trong đó tất cả các trẻ em bị sốt hoặc các triệu chứng của nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp tính đã được xét nghiệm tìm cúm, 70% trẻ em nằm viện <6 tháng tuổi với bệnh cúm được xác nhận qua xét nghiệm trong phòng thí nghiệm đã được báo cáo là bị sốt và ho, so với 91% ở trẻ em nằm viện từ 6 tháng đến 5 tuổi.[88] Bằng chứng cấp độ C: Các nghiên cứu quan sát (thuần tập) có chất lượng thấp hoặc các thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng (RCT) có lỗi về phương pháp với <200 người tham gia.
  3. Phòng ngừa các triệu chứng: có bằng chứng chất lượng cao cho thấy zanamivir hít vào bằng miệng có hiệu quả hơn so với giả dược trong việc ngăn ngừa triệu chứng của bệnh cúm nhưng không phải bệnh giống cúm. Ngoài ra, trong một phân tích tổng hợp 29 thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng, tỷ số nguy cơ đối với thời gian để giảm các triệu chứng cúm tương ứng là 1,33 và 1,30 đối với oseltamivir và zanamivir, với điều kiện là bắt đầu điều trị trong vòng 48 giờ sau khi khởi phát triệu chứng.[132] Bằng chứng từ các thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng hỗ trợ nhất quán quan điểm rằng cả oseltamivir và zanamivir đều có hiệu quả lâm sàng để điều trị và phòng ngừa bệnh cúm.[127] Bằng chứng cấp độ A: Đánh giá hệ thống (SR) hoặc các thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng (RCT) với >200 người tham gia.

Tài liệu tham khảo

  1. Brankston G, Gitterman L, Hirji Z, et al. Transmission of influenza A in human beings. Lancet Infect Dis. 2007;7:257-265.
  2. Glezen WP, Taber LH, Frank AL, et al. Influenza virus infections in infants. Pediatr Infect Dis J. 1997;16:1065-1068.
  3. Neuzil KM, Wright PF, Mitchel EF Jr, et al. The burden of influenza illness in children with asthma and other chronic medical conditions. J Pediatr. 2000;137:856-864.
  4. Martin CM, Kunin CM, Gottlieb LS, et al. Asian influenza A in Boston, 1957-1958. Arch Intern Med. 1959;103:515-531.
  5. Simonsen L. The global impact of influenza on morbidity and mortality. Vaccine. 1999;17(suppl 1):S3-S10.
  6. Fukuda K, Kieny MP. Different approaches to influenza vaccination. N Engl J Med. 2006;355:2586-2587. Toàn văn
  7. Nicholson K, Wood JM, Zambon M, et al. Influenza. Lancet. 2003;362:1733-1745.
  8. Zimmer SM, Burke DS. Historical perspective – Emergence of influenza A (H1N1) viruses. N Engl J Med. 2009;361:279-285.
  9. Australian Government Department of Health. Australian Influenza Surveillance Report. No. 12, 2017. October 2017 Toàn văn
  10. Centers for Disease Control and Prevention (CDC). Reconstruction of the 1918 influenza pandemic virus. July 2014. http://www.cdc.gov/ (last accessed 9 March 2017). Toàn văn
  11. Stephenson I, Zambon M. The epidemiology of influenza. Occup Med (Lond). 2002;52:241-247.
  12. Klimov A, Rocha E, Hayden FG, et al. Prolonged shedding of amantadine-resistant influenzae A viruses by immunodeficient patients: detection by polymerase chain reaction-restriction analysis. J Infect Dis. 1995;172:1352-1355.
  13. Centers for Disease Control and Prevention (CDC). Estimates of deaths associated with seasonal influenza United States, 1976-2007. MMWR Morb Mortal Wkly Rep. 2010;59:1057-1062. Toàn văn
  14. 1ostova D, Reed C, Finelli L, et al. Influenza illness and hospitalizations averted by influenza vaccination in the United States, 2005-2011. PLoS One. 2013;8:e66312. Toàn văn
  15. Centers for Disease Control and Prevention (CDC). Influenza (Flu). April 2018. Toàn văn
  16. Wilkinson K, Wei Y, Szwajcer A, et al. Efficacy and safety of high-dose influenza vaccine in elderly adults: A systematic review and meta-analysis. Vaccine. 2017 May 15;35(21):2775-2780. Toàn văn
  17. Govaert TM, Thijs CT, Masurel N, et al. The efficacy of influenza vaccination in elderly individuals: a randomized double-blind placebo-controlled trial. JAMA. 1994;272:1661-1665.
  18. Jefferson T, Rivetti D, Rivetti A, et al. Efficacy and effectiveness of influenza vaccines in elderly people: a systematic review. Lancet. 2005;366:1165-1174.
  19. Committee on Infectious Diseases. Recommendations for prevention and control of influenza in children, 2018-2019. Pediatrics. 2018 Oct;142(4). Toàn văn
  20. Hutchinson AF, Ghimire AK, Thompson MA, et al. A community-based, time-matched, case-control study of respiratory viruses and exacerbations of COPD. Respir Med. 2007;101:2472-2481.
  21. Kopsaftis Z, Wood-Baker R, Poole P. Influenza vaccine for chronic obstructive pulmonary disease (COPD). Cochrane Database Syst Rev. 2018 Jun 26;6:CD002733. Toàn văn
  22. Bekkat-Berkani R, Wilkinson T, Buchy P, et al. Seasonal influenza vaccination in patients with COPD: a systematic literature review. BMC Pulm Med. 2017 May 3;17(1):79. Toàn văn
  23. Nichol KL, Nordin J, Mullooly J, et al. Influenza vaccination and reduction in hospitalizations for cardiac disease and stroke among the elderly. N Engl J Med. 2003;348:1322-1332. Toàn văn
  24. Centers for Disease Control and Prevention (CDC). Guidelines for vaccinating kidney dialysis patients and patients with chronic kidney disease. December 2012. www.cdc.gov/ (last accessed 9 March 2017). Toàn văn
  25. Hak E, Nordin J, Wei F, et al. Influence of high-risk medical conditions on the effectiveness of influenza vaccination among elderly members of 3 large managed-care organizations. Clin Infect Dis. 2002;35:370-377.
  26. Orzeck EA, Shi N, Blumentals WA. Oseltamivir and the risk of influenza-related complications and hospitalizations in patients with diabetes. Clin Ther. 2007;29:2246-2255.
  27. Mehta SR, Afenyi-Annan A, Byrns PJ, et al. Opportunities to improve outcomes in sickle cell disease. Am Fam Physician. 2006;74:303-310.
  28. Kim YJ, Boeckh M, Englund JA. Community respiratory virus infections in immunocompromised patients: hematopoietic stem cell and solid organ transplant recipients, and individuals with human immunodeficiency virus infection. Semin Respir Crit Care Med. 2007;28:222-242.
  29. Beck CR, McKenzie BC, Hashim AB, et al. Influenza vaccination for immunocompromised patients: systematic review and meta-analysis from a public health policy perspective. PLoS One. 2011;6:e29249. Toàn văn
  30. McKittrick N, Frank I, Jacobson JM, et al. Improved immunogenicity with high-dose seasonal influenza vaccine in HIV-infected persons: a single-center, parallel, randomized trial. Ann Intern Med. 2013;158:19-26. Toàn văn
  31. Madhi SA, Cutland CL, Kuwanda L, et al.; Maternal Flu Trial (Matflu) Team. Influenza vaccination of pregnant women and protection of their infants. N Engl J Med. 2014;371:918-931. Toàn văn
  32. Kumar D, Campbell P, Hoschler K, et al. Randomized controlled trial of adjuvanted versus nonadjuvanted influenza vaccine in kidney transplant recipients. Transplantation. 2016;100:662-669.
  33. Centers for Disease Control and Prevention (CDC). Recommendations for obstetric health care providers related to use of antiviral medications in the treatment and prevention of influenza. December 2017 [internet publication]. Toàn văn
  34. Centers for Disease Control and Prevention (CDC). Influenza vaccination in pregnancy: practices among obstetrician-gynecologists – United States, 2003-04 influenza season. MMWR Morb Mortal Wkly Rep. 2005;54:1050-1052. Toàn văn
  35. Nunes MC, Aqil AR, Omer SB, Madhi SA. The effects of influenza vaccination during pregnancy on birth outcomes: a systematic review and meta-analysis. Am J Perinatol. 2016 Sep;33(11):1104-14. Toàn văn
  36. American College of Obstetricians and Gynecologists. Influenza vaccination during pregnancy. ACOG Committee Opinion No. 732. Obstet Gynecol 2018;131:e109-14. Toàn văn
  37. Polyzos KA, Konstantelias AA, Pitsa CE, et al. Maternal influenza vaccination and risk for congenital malformations: a systematic review and meta-analysis. Obstet Gynecol. 2015;126:1075-1084.
  38. Advisory Committee on Immunization Practices; Centers for Disease Control and Prevention (CDC). Immunization of health-care personnel: recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices (ACIP). MMWR Recomm Rep. 2011;60:1-45. Toàn văn
  39. Bernstein HH, Starke JR; American Academy of Pediatrics; et al. Policy statement – recommendation for mandatory influenza immunization of all health care personnel. Pediatrics. 2010;126:809-815.
  40. Lorenc T, Marshall D, Wright K, et al. Seasonal influenza vaccination of healthcare workers: systematic review of qualitative evidence. BMC Health Serv Res. 2017 Nov 15;17(1):732. Toàn văn
  41. Ng AN, Lai CK. Effectiveness of seasonal influenza vaccination in healthcare workers: a systematic review. J Hosp Infect. 2011;79:279-286.
  42. Centers for Disease Control and Prevention (CDC). Prevention strategies for seasonal influenza in healthcare settings. February 2018 [internet publication]. Toàn văn
  43. Jackson LA, Gaglani MJ, Keyserling HL, et al. Safety, efficacy, and immunogenicity of an inactivated influenza vaccine in healthy adults: a randomized, placebo-controlled trial over two influenza seasons. BMC Infect Dis. 2010;10:71.
  44. Beyer WE, Nauta JJ, Palache AM, et al. Immunogenicity and safety of inactivated influenza vaccines in primed populations: a systematic literature review and meta-analysis. Vaccine. 2011;29:5785-5792.
  45. Demicheli V, Jefferson T, Ferroni E, et al Vaccines for preventing influenza in healthy adults. Cochrane Database Syst Rev. 2018 Feb 1;2:CD001269. Toàn văn
  46. Bitterman R, Eliakim-Raz N, Vinograd I, et al. Influenza vaccines in immunosuppressed adults with cancer. Cochrane Database Syst Rev. 2018 Feb 1;2:CD008983. Toàn văn
  47. Jefferson T, Rivetti A, Di Pietrantonj C, Demicheli V. Vaccines for preventing influenza in healthy children. Cochrane Database Syst Rev. 2018 Feb 1;2:CD004879. Toàn văn
  48. Demicheli V, Jefferson T, Di Pietrantonj C, et al. Vaccines for preventing influenza in the elderly. Cochrane Database Syst Rev. 2018 Feb 1;2:CD004876. Toàn văn
  49. Rondy M, El Omeiri N, Thompson MG, et al. Effectiveness of influenza vaccines in preventing severe influenza illness among adults: A systematic review and meta-analysis of test-negative design case-control studies. J Infect. 2017 Nov;75(5):381-394. Toàn văn
  50. Vasileiou E, Sheikh A, Butler C, et al. Effectiveness of influenza vaccines in asthma: a systematic review and meta¬analysis. Clin Infect Dis. 2017 Oct 15;65(8):1388-1395. Toàn văn
  51. 51. Grohskopf LA, Sokolow LZ, Broder KR, et al. Prevention and control of seasonal influenza with vaccines: recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices—United States, 2018-19 influenza season. MMWR Recomm Rep 2018;67(No. RR-3): 1-20. Toàn văn
  52. Englund JA, Walter E, Black S, et al. Safety and immunogenicity of trivalent inactivated influenza vaccine in infants: a randomized double-blind placebo-controlled study. Pediatr Infect Dis J. 2010;29:105-110.
  53. Committee on Infectious Diseases. Recommendations for prevention and control of influenza in children, 2018-2019. Pediatrics. 2018 Oct;142(4). Toàn văn
  54. Robinson CL, Romero JR, Kempe A, et al. Advisory Committee on Immunization Practices recommended immunization schedule for children and adolescents aged 18 years or younger – United States, 2018. MMWR Morb Mortal Wkly Rep. 2018 Feb 9;67(5):156-157. Toàn văn
  55. Sukumaran L, McCarthy NL, Kharbanda EO, et al. Infant hospitalizations and mortality after maternal vaccination. Pediatrics. 2018 Feb 20. pii: e20173310. Toàn văn
  56. Thompson MG, Kwong JC, Regan AK, et al; PREVENT Workgroup. Influenza vaccine effectiveness in preventing influenza-associated hospitalizations during pregnancy: a multi-country retrospective test negative design study, 2010-2016. Clin Infect Dis. 2018 Oct 11. [Epub ahead of print]. Toàn văn
  57. World Health Organization. Recommended composition of influenza virus vaccines for use in the 2018-2019 northern hemisphere influenza season. February 2018 [internet publication]. Toàn văn
  58. Kelso JM, Greenhawt MJ, Li JT, et al. Adverse reactions to vaccines practice parameter 2012 update. J Allergy Clin Immunol. 2012;130:25-43.
  59. Wilde JA, McMillan JA, Serwint J, et al. Effectiveness of influenza vaccine in health care professionals: a randomized trial. JAMA. 1999;281:908-913. Toàn văn
  60. Bridges CB, Thompson WW, Meltzer MI, et al. Effectiveness and cost-benefit of influenza vaccination of healthy working adults: a randomized controlled trial. JAMA. 2000;284:1655-1663. Toàn văn
  61. Nichol KL, Mendelman PM, Mallon KP, et al. Effectiveness of live, attenuated intranasal influenza virus vaccine in healthy, working adults: a randomized controlled trial. JAMA. 1999;282:137-144. Toàn văn
  62. Edwards KM, Dupont WD, Westrich MK, et al. A randomized controlled trial of cold-adapted and inactivated vaccines for the prevention of influenza A disease. J Infect Dis. 1994;169:68-76.
  63. Ohmit SE, Victor JC, Rotthoff JR, et al. Prevention of antigenically drifted influenza by inactivated and live attenuated vaccines. N Engl J Med. 2006;355:2513-2522. Toàn văn
  64. DiazGranados CA, Denis M, Plotkin S. Seasonal influenza vaccine efficacy and its determinants in children and non-elderly adults: a systematic review with meta-analyses of controlled trials. Vaccine. 2012;31:49-57. Toàn văn
  65. Manzoli L, Ioannidis JP, Flacco ME, et al. Effectiveness and harms of seasonal and pandemic influenza vaccines in children, adults and elderly: a critical review and re-analysis of 15 meta-analyses. Hum Vaccin Immunother. 2012;8:851-862. Toàn văn
  66. Osterholm MT, Kelley NS, Sommer A, et al. Efficacy and effectiveness of influenza vaccines: a systematic review and meta-analysis. Lancet Infect Dis. 2012;12:36-44.
  67. Monto AS, Rotthoff J, Teich E, et al. Detection and control of outbreaks in well-vaccinated nursing home populations. Clin Infect Dis. 2004;39:459-464.
  68. Nichol KL, Nordin JD, Nelson DB, et al. Effectiveness of influenza vaccine in the community-dwelling elderly. N Engl J Med. 2007;357:1373-1381. Toàn văn
  69. De Villiers PJ, Steele AD, Hiemstra LA, et al. Efficacy and safety of a live attenuated influenza vaccine in adults 60 years of age and older. Vaccine. 2009;28:228-234.
  70. Armstrong BG, Mangtani P, Fletcher A, et al. Effect of influenza vaccination on excess deaths occurring during periods of high circulation of influenza: cohort study in elderly people. BMJ. 2004;329:660. Toàn văn
  71. Cools HJ, Gussekloo J, Remmerswaal JE, et al. Benefits of increasing the dose of influenza vaccine in residents of long-term care facilities: a randomized placebo-controlled trial. J Med Virol. 2009;81:908-914.
  72. DiazGranados CA, Dunning AJ, Kimmel M, et al. Efficacy of high-dose versus standard-dose influenza vaccine in older adults. N Engl J Med. 2014;371:635-645. Toàn văn
  73. Nace DA, Lin CJ, Ross TM, et al. Randomized, controlled trial of high-dose influenza vaccine among frail residents of long-term care facilities. J Infect Dis. 2015;211:1915-1924. Toàn văn
  74. Lehmann HC, Hartung HP, Kieseier BC, et al. Guillain-Barré syndrome after exposure to influenza virus. Lancet Infect Dis. 2010;10:643-651.
  75. Lasky T, Terracciano GJ, Magder L, et al. The Guillain-Barré syndrome and the 1992-1993 and 1993-1994 influenza vaccines. N Engl J Med. 1998;339:1797-1802.
  76. Centers for Disease Control and Prevention (CDC). Influenza signs and symptoms and the role of laboratory diagnostics. October 2016 [internet publication]. Toàn văn
  77. Call SA, Vollenweider MA, Hornung CA, et al. Does this patient have influenza? JAMA. 2005;293:987-997.
  78. Hayden FG, Fritz R, Lobo MC, et al. Local and systemic cytokine responses during experimental human influenza A virus infection. Relation to symptom formation and host defense. J Clin Invest. 1998;101:643-649. Toàn văn
  79. Monto AS, Gravenstein S, Elliott M, et al. Clinical signs and symptoms predicting influenza infection. Arch Intern Med. 2000;160:3243-3247. Toàn văn
  80. Nicholson KG, Kent J, Hammersley V, et al. Acute viral infections of upper respiratory tract in elderly people living in the community: comparative, prospective, population based study of disease burden. BMJ. 1997;315:1060-1064. Toàn văn
  81. Vesikari T, Beran J, Durviaux S, et al. Use of real-time polymerase chain reaction (rtPCR) as a diagnostic tool for influenza infection in a vaccine efficacy trial. J Clin Virol. 2012;53:22-28.
  82. Peltola V, Ziegler T, Ruuskanen O. Influenza A and B virus infections in children. Clin Infect Dis. 2003;36:299-305.
  83. Glezen WP. Influenza viruses. In: Feigin RD, Cherry JD, Demmler GJ, et al., eds. Textbook of pediatric infectious diseases. 5th ed. Philadelphia, PA: WB Saunders; 2004:2252-2269.
  84. Govaert TM, Dinant GJ, Aretz K, et al. The predictive value of influenza symptomatology in elderly people. Fam Pract. 1998;15:16-22. Toàn văn
  85. Walsh EE, Cox C, Falsey AR. Clinical features of influenza A virus infection in older hospitalized persons. J Am Geriatr Soc. 2002;50:1498-1503.
  86. Neuzil KM, O’Connor TZ, Gorse GJ, et al. Recognizing influenza in older patients with chronic obstructive pulmonary disease who have received influenza vaccine. Clin Infect Dis. 2003;36:169-174. Toàn văn
  87. Ohmit SE, Monto AS. Symptomatic predictors of influenza virus positivity in children during the influenza season. Clin Infect Dis. 2006;43:564-568. Toàn văn
  88. Advisory Committee on Immunization Practices. Prevention and control of seasonal influenza with vaccines: recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices (ACIP) – United States, 2013-2014. MMWR Recomm Rep. 2013;62:1-43. [Erratum in: MMWR Recomm Rep. 2013;62:906.] Toàn văn
  89. Miller JM, Binnicker MJ, Campbell S, et al. A guide to utilization of the microbiology laboratory for diagnosis of infectious diseases: 2018 update by the Infectious Diseases Society of America and the American Society for Microbiology. Clin Infect Dis. 2018 Aug 31;67(6):e1-e94. Toàn văn
  90. Merckx J, Wali R, Schiller I, et al. Diagnostic accuracy of novel and traditional rapid tests for influenza infection compared with reverse transcriptase polymerase chain reaction: a systematic review and meta-analysis. Ann Intern Med. 2017 Sep 19;167(6):394-409.
  91. Bruning AHL, Leeflang MMG, Vos JMBW, et al. Rapid tests for influenza, respiratory syncytial virus, and other respiratory viruses: a systematic review and meta-analysis. Clin Infect Dis. 2017 Sep 15;65(6):1026-1032. Toàn văn
  92. Petrozzino JJ, Smith C, Atkinson MJ. Rapid diagnostic testing for seasonal influenza: an evidence-based review and comparison with unaided clinical diagnosis. J Emerg Med. 2010;39:476-490.
  93. Marrie TJ. Community-acquired pneumonia. Clin Infect Dis. 1994;18:501-513.
  94. Shay DK, Holman RC, Newman RD, et al. Bronchiolitis-associated hospitalizations among US children, 1980-1996. JAMA. 1999 Oct 20;282(15):1440-6. Toàn văn
  95. Wald TG, Miller BA, Shult P, et al. Can respiratory syncytial virus and influenza A be distinguished clinically in institutionalized older persons? J Am Geriatr Soc. 1995;43:170-174.
  96. Rose EB, Wheatley A, Langley G, et al. Respiratory syncytial virus seasonality – United States, 2014-2017. MMWR Morb Mortal Wkly Rep. 2018 Jan 19;67(2):71-76. Toàn văn
  97. American Academy of Pediatrics. Respiratory syncytial virus. In: Pickering LK, ed. Red book: 2006 report of the Committee on Infectious Diseases, 27th ed. Elk Grove Village, IL: American Academy of Pediatrics; 2006:561.
  98. Hall CB. Respiratory syncytial virus and parainfluenza virus. N Engl J Med. 2001;344:1917-1928.
  99. Wendt CH, Hertz MI. Respiratory syncytial virus and parainfluenza virus infections in the immunocompromised host. Semin Respir Infect. 1995;10:224-231.
  100. Denny FW, Clyde WA Jr. Acute lower respiratory tract infections in nonhospitalized children. J Pediatr. 1986;108:635-646.
  101. Frank AL, Couch RB, Griffis CA, et al. Comparison of different tissue cultures for isolation and quantitation of influenza and parainfluenza viruses. J Clin Microbiol. 1979;10:32-36.
  102. Ray CG, Minnich LL. Efficiency of immunofluorescence for rapid detection of common respiratory viruses. J Clin Microbiol. 1987;25:355-357.
  103. Osiowy C. Direct detection of respiratory syncytial virus, parainfluenza virus, and adenovirus in clinical respiratory specimens by a multiplex reverse transcription-PCR assay. J Clin Microbiol. 1998;36:3149-3154.
  104. World Health Organization. Who is more at risk of severe illness? What about other risks? February 2010. http:// www.who.int (last accessed 9 March 2017). Toàn văn
  105. Fox JP, Cooney MK, Hall CE, et al. Influenza virus infection in Seattle families, 1975-1979. II. Pattern of infection in invaded households and relation of age and prior antibody to occurrence of infection and related illness. Am J Epidemiol. 1982;116:228-242.
  106. Cox NJ, Fukuda K. Influenza. Infect Dis Clin North Am. 1998;12:27-38.
  107. Centers for Disease Control and Prevention. Influenza Antiviral Medications: Summary for Clinicians. February 2018 [internet publication]. Toàn văn
  108. Fiore AE, Fry A, Shay D, et al. Antiviral agents for the treatment and chemoprophylaxis of influenza: recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices (ACIP). MMWR Recomm Rep. 2011;60:1-24. Toàn văn
  109. Harper SA, Bradley JS, Englund JA, et al. Seasonal influenza in adults and children – diagnosis, treatment, chemoprophylaxis, and institutional outbreak management: clinical practice guidelines of the Infectious Diseases Society of America. Clin Infect Dis. 2009;48:1003-1032. Toàn văn
  110. Public Health England. Influenza: treatment and prophylaxis using anti-viral agents. October 2017. Toàn văn
  111. Jefferson T, Jones M, Doshi P, et al. Neuraminidase inhibitors for preventing and treating influenza in healthy adults: systematic review and meta-analysis. BMJ. 2009;339:b5106. Toàn văn
  112. Shun-Shin M, Thompson M, Heneghan C, et al. Neuraminidase inhibitors for treatment and prophylaxis of influenza in children: systematic review and meta-analysis of randomised controlled trials. BMJ. 2009;339:b3172. Toàn văn
  113. Doll MK, Winters N, Boikos C, et al. Safety and effectiveness of neuraminidase inhibitors for influenza treatment, prophylaxis, and outbreak control: a systematic review of systematic reviews and/or meta-analyses. J Antimicrob Chemother. 2017 Nov 1;72(11):2990-3007.
  114. Venkatesan S, Myles PR, Leonardi-Bee J, et al. Impact of outpatient neuraminidase inhibitor treatment in patients infected with influenza A(H1N1)pdm09 at high risk of hospitalization: an individual participant data metaanalysis. Clin Infect Dis. 2017 May 15;64(10):1328-1334.
  115. Jackson RJ, Cooper KL, Tappenden P, et al. Oseltamivir, zanamivir and amantadine in the prevention of influenza: a systematic review. J Infect. 2011;62:14-25.
  116. Jefferson T, Jones MA, Doshi P, et al. Neuraminidase inhibitors for preventing and treating influenza in healthy adults and children. Cochrane Database Syst Rev. 2014;(4):CD008965. Toàn văn
  117. Heneghan CJ, Onakpoya I, Thompson M, et al. Zanamivir for influenza in adults and children: systematic review of clinical study reports and summary of regulatory comments. BMJ. 2014;348:g2547. Toàn văn
  118. Jefferson T, Jones M, Doshi P, et al. Oseltamivir for influenza in adults and children: systematic review of clinical study reports and summary of regulatory comments. BMJ. 2014;348:g2545. Toàn văn
  119. Cohen D. Complications: tracking down the data on oseltamivir. BMJ. 2009;339:b5387. [Erratum in: BMJ. 2010;340:c406.]
  120. Doshi P. Neuraminidase inhibitors – the story behind the Cochrane review. BMJ. 2009;339:b5164.
  121. Jefferson T, Doshi P, Thompson M, et al. Ensuring safe and effective drugs: who can do what it takes? BMJ. 2011;342:c7258.
  122. Uyeki T. Antiviral treatment for patients hospitalized with 2009 pandemic influenza A (H1N1). N Engl J Med. 2009;361:e110.
  123. Dobson J, Whitley RJ, Pocock S, et al. Oseltamivir treatment for influenza in adults: a meta-analysis of randomised controlled trials. Lancet. 2015;385:1729-1737.
  124. Jefferson T, Demicheli V, Rivetti D, et al. Antivirals for influenza in healthy adults: systematic review. Lancet. 2006;367:303-313.
  125. Wang K, Shun-Shin M, Gill P, et al. Neuraminidase inhibitors for preventing and treating influenza in children (published trials only). Cochrane Database Syst Rev. 2012;(1):CD002744. Toàn văn
  126. Stiver G. The treatment of influenza with antiviral drugs. CMAJ. 2003;168:49-56. Toàn văn
  127. Cooper NJ, Sutton AJ, Abrams KR, et al. Effectiveness of neuraminidase inhibitors in treatment and prevention of influenza A and B: systematic review and meta-analyses of randomised controlled trials. BMJ. 2003;326:1235. Toàn văn
  128. Heinonen S, Silvennoinen H, Lehtinen P, et al. Early oseltamivir treatment of influenza in children 1-3 years of age: a randomized controlled trial. Clin Infect Dis. 2010;51:887-894. Toàn văn
  129. National Institute for Health and Care Excellence. Oseltamivir, amantadine (review) and zanamivir for the prophylaxis of influenza. September 2008. http://www.nice.org.uk/guidance/TA158/ (last accessed 9 March 2017). Toàn văn
  130. Schwarzmann SW, Adler JL, Sullivan RJ Jr, et al. Bacterial pneumonia during the Hong Kong influenza epidemic of 1968-1969. Arch Intern Med. 1971;127:1037-1041.
  131. Azuma A, Kudoh S, Nakashima M, et al. Antipyretic and analgesic effects of zaltoprofen for the treatment of acute upper respiratory tract infection: verification of a noninferiority hypothesis using loxoprofen sodium. Pharmacology. 2011;87:204-213.
  132. Jefferson TO, Rivetti D, Di Pietrantonj C, et al. Vaccines for preventing influenza in healthy adults. Cochrane Database Syst Rev. 2007;(2):CD001269.
  133. Bright RA, Medina MJ, Xu X, et al. Incidence of adamantane resistance among influenza A (H3N2) viruses isolated worldwide from 1994 to 2005: a cause for concern. Lancet. 2005;366:1175-1181.
  134. Dowell SF, Butler JC, Giebink GS, et al. Acute otitis media: management and surveillance in an era of pneumococcal resistance – a report from the Drug-resistant Streptococcus Pneumoniae Therapeutic Working Group. Pediatr Infect Dis J. 1999;18(suppl 1):1-9.
  135. American Academy of Pediatrics Subcommittee on Management of Acute Otitis Media. Diagnosis and management of acute otitis media. Pediatrics. 2004;113:1451-1465. Toàn văn
  136. Hayden FG, Sugaya N, Hirotsu N, et al. Baloxavir marboxil for uncomplicated influenza in adults and adolescents. N Engl J Med. 2018 Sep 6;379(10):913-923. doi: 10.1056/NEJMoa1716197. PubMed PMID: 30184455.
  137. McAllister L, Anderson J, Werth K, et al. Needle-free jet injection for administration of influenza vaccine: a randomised non-inferiority trial. Lancet. 2014;384:674-681.
  138. Moscona A. Medical management of influenza infection. Annu Rev Med. 2008;59:397-413.
  139. Ilyushina NA, Hoffmann E, Salomon R, et al. Amantadine-oseltamivir combination therapy for H5N1 influenza virus infection in mice. Antivir Ther. 2007;12:363-370.
  140. Smee DF, Hurst BL, Wong MH, et al. Effects of the combination of favipiravir (T-705) and oseltamivir on influenza A virus infections in mice. Antimicrob Agents Chemother. 2010;54:126-133. Toàn văn
  141. Ilyushina NA, Bovin NV, Webster RG, et al. Combination chemotherapy, a potential strategy for reducing the emergence of drug-resistant influenza A variants. Antiviral Res. 2006;70:121-131.
  142. Duval X, van der Werf S, Blanchon T, et al. Efficacy of oseltamivir-zanamivir combination compared to each monotherapy for seasonal influenza: a randomized placebo-controlled trial. PLoS Med. 2010;7:e1000362. Toàn văn
  143. Moscona A, Porotto M, Palmer S, et al. A recombinant sialidase fusion protein effectively inhibits human parainfluenza viral infection in vitro and in vivo. J Infect Dis. 2010;202:234-241. Toàn văn
  144. Wu C, Chen W, Chen J, H. Preparation of monoPEGylated Cyanovirin-N’s derivative and its anti-influenza A virus bioactivity in vitro and in vivo. J Biochem. 2015;157:539-548.
  145. Svancarová P, Svetlíková D, Betáková T. Induction of interferon lambda in influenza a virus infected cells treated with shRNAs against M1 transcript. Acta Virol. 2015;59:148-155.
  146. Furuta Y, Gowen BB, Takahashi K, et al. Favipiravir (T-705), a novel viral RNA polymerase inhibitor. Antiviral Res. 2013;100:446-454. Toàn văn
  147. Beigel J, Bray M. Current and future antiviral therapy of severe seasonal and avian influenza. Antiviral Res. 2008;78:91-102. Toàn văn
  148. Jones S, Evans K, McElwaine-Johnn H, et al. DNA vaccination protects against an influenza challenge in a double¬blind randomised placebo-controlled phase 1b clinical trial. Vaccine. 2009;27:2506-2512.
  149. Smith LR, Wloch MK, Ye M, et al. Phase 1 clinical trials of the safety and immunogenicity of adjuvanted plasmid DNA vaccines encoding influenza A virus H5 hemagglutinin. Vaccine. 2010;28:2565-2572.
  150. Influenza Vaccine 2007-2008. Med Lett Drugs Ther. 2007;49:81.
  151. Newland JG, Laurich VM, Rosenquist AW, et al. Neurologic complications in children hospitalized with influenza: characteristics, incidence, and risk factors. J Pediatr. 2007;150:306-310.
  152. Winther B, Block SL, Reisinger K, et al. Impact of oseltamivir treatment on the incidence and course of acute otitis media in children with influenza. Int J Pediatr Otorhinolaryngol. 2010;74:684-688.
  153. Casey JR, Pichichero ME. Changes in frequency and pathogens causing acute otitis media in 1995-2003. Pediatr Infect Dis J. 2004;23:824-828.
  154. Gamboa ET, Eastwood AB, Hays AP, et al. Isolation of influenza virus from muscle in myoglobinuric polymyositis. Neurology. 1979;29:1323-1335.
  155. Dell KM, Schulman SL. Rhabdomyolysis and acute renal failure in a child with influenza A infection. Pediatr Nephrol. 1997;11:363-365.
  156. Dietzman DE, Schaller JG, Ray CG, et al. Acute myositis associated with influenza B infection. Pediatrics. 1976;57:255-258.
  157. Brinar VV, Habek M, Brinar M, et al. The differential diagnosis of acute transverse myelitis. Clin Neurol Neurosurg. 2006;108:278-283.
  158. Ropper AH. The Guillain-Barré syndrome. N Engl J Med. 1992;326:1130-1136.
  159. MacDonald K, Osterholm M, Hedberg C, et al. Toxic shock syndrome: a newly recognized complication of influenza and influenza-like illness. JAMA. 1987;257:1053-1058.
  160. US Food & Drug Administration. FDA warns of fraudulent and unapproved flu products. March 2018 [internet publication]. Toàn văn

Những người có đóng góp

// Các tác giả:

Cristine Radojicic, MD

Staff Physician

Department of Pulmonary, Allergy and Critical Care, Cleveland Clinic, Cleveland, OH CÔNG KHAI THÔNG TIN: CR declares that she has no competing interests.

// Những Người Bình duyệt:

Waleed Javaid, MD, FACP, FIDSA

Associate Professor

Medical Director of Infection Control, Infectious Disease, Department of Medicine, SUNY Upstate Medical University, Syracuse, NY

CÔNG KHAI THÔNG TIN: WJ declares that he has no competing interests.

Rachel L. Miller, MD, FAAAAI

Associate Professor of Clinical Medicine and Environmental Health Sciences

Columbia University College of Physicians and Surgeons, New York, NY CÔNG KHAI THÔNG TIN: RLM declares that she has no competing interests.

Mark Sands, MD, FAAAAI

Chief

SUNY Buffalo School of Medicine, Division Allergy and Immunology, Buffalo, NY CÔNG KHAI THÔNG TIN: MS declares that he has no competing interests.

An De Sutter, MD, PhD

Associate Professor

Department of General Practice and Primary Health Care, Ghent University, Ghent, Belgium CÔNG KHAI THÔNG TIN: ADS declares that she has no competing interests.

Xem thêm:

Nhiễm Coxiella burnetii: Nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị theo BMJ

Trả lời (Quy định duyệt bình luận)

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

The maximum upload file size: 1 MB. Bạn chỉ được tải lên hình ảnh định dạng: .jpg, .png, .gif Drop file here