Bài viết Bảo thai thần hiểu toàn thư: các phương thuốc trị bệnh phụ nữ.
Tham khảo từ quyển I, tập 1, 2 “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” – Nhà xuất bản Y học tải bản pdf Tại đây.
Tác giả Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
GIỚI THIỆU VÀ KHẢO CHỨNG BẢO THAI CHỦNG TỬ QUỐC ÂM TOẢN YẾU
Bảo thai chủng tử quốc âm toản yếu là nội dung của tác phẩm Bảo thai thần hiệu toàn thư giải âm (Thư viện Khoa học xã hội, ký hiệu AB 429) khác in năm Tự Đức thứ 8 (1854) theo nguyên bản của Hải Thượng. Nó là một trong 3 tác phẩm của Lãn Ông Lê Hữu Trác trong bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh mới sưu tầm được ở thế kỷ này, và chưa được chép vào mục lục của bộ sách, cũng như các tập Vệ sinh yếu quyết và Nữ công thắng lãm.
Để khảo chứng chúng tôi đã tìm hiểu sự liên quan của tác phẩm với tập Phụ đạo xán nhiên, Tọa thảo lương mô bằng chữ Hán nói về phụ khoa, thai sản, và tập Vệ sinh yếu quyết diễn ca về vệ sinh phụ nữ. Chúng tôi nhận thấy có sự phù hợp về nội dung, tạm nêu mấy điểm như sau:
- “Nam hình tượng Khảm, nữ hình tượng Ly” nói về thụ thai, nếu tinh của nam đến trước, huyết của nữ tới sau bao ngoài, tượng như quẻ Khảm (2 hào âm ở ngoài, hào dương ở giữa) thì sinh nam. Nếu huyết cùa nữ đến trước tinh của nam bao ngoài tượng như quẻ Ly (2 hào dương ở ngoài, hào âm ở giữa) thì sinh nữ. Điều này đã được Lãn ông giải thích ở Phụ đạo xán nhiên quyển tiền, trang 56-58 (sách chữ Hán).
- Một số phương thuốc phù hợp với sách trên, như:
- Tử tô hòa khí dùng chữa bệnh tử huyền, (thai trồi lên); cháo cá chép chữa tử màn (đái không thông); Toàn sinh bạch truật tán chữa tử thũng, Giao ngải Tứ vật thang chữa thai lậu rong huyết; An vinh thang chửa tử lâm (dái rát); Sa nhân, Hoàng cầm, Bạch truật chữa đau bụng âm ỉ, phòng sẩy thai; (Phụ đạo xán nhiên quyển hậu trang 19 và 23-24) An thai ẩm dùng chữa đau bụng trong khi có thai. Phật thủ tán chữa đau bụng từng cơn, chảy nước nguồn, mật ong với dầu mè chữa đau bụng sắp đẻ, Phàn hòn đan chữa suyễn cấp sau khi sinh (Tọa thảo lương mô trang 13, 32, 49). Đốt sơn khô xông chữa sau khi đẻ máu xấu xung lên hôn mê, dùng Thất tiếu tán Huyết phong thang chữa sản hậu máu hôi ứ đọng; Tứ nghịch, Lý trung thang chữa sản hậu quyết lạnh, Ngũ linh tán chữa sản hậu thổ tả, Quân linh thang, chữa ỉa chảy; Lâu lô thang chữa ít sữa (PĐXN quyển hậu trang 44, 52, 56, 70).
- Một. số phương khác đã được điều chế, cải tiến trên cơ sở các phương cũ trong tác phẩm Phụ đạo xán nhiên, được thích hợp hơn, như các phương thuốc chữa sau khi đẻ sốt rét, phong chạy đau xương, hay chóng mặt ở Phụ đạo xán nhiên quyển hậu trang 59b và 63, 64.
Theo tinh thần lời mở đầu, tác phẩm này đã ra đời sau khi đất nước ta đã được yên ổn, không còn phải lo việc chống giặc ở biên giới nữa, tức là vào khoảng 1789-1790. sau khi Nguyễn Huệ đã đánh đuổi quân phong kiến Mãn Thanh và thống nhất Nam Bắc. Việc soạn thêm tập sách này bằng quốc âm có lẽ nhằm phổ cập việc bảo vệ thai nghén rộng rãi, vừa bổ sung một số điểm ở Phụ đạo xán nhiên soạn trước với nhiều phương phức tạp khó vận dụng, thí dụ:
- Chữa sốt rét cơn trong khi có thai, đây chỉ dùng 1 phương Sài cầm (20) thay 5 phương cũ Tiêu dao cán, Lục vị hoàn, Nhân sâm dưỡng vinh, Thắng kim đan, Tĩnh tỳ ẩm ở Phụ đạo xán nhiên quyển hậu trang 29, là thích hợp.
- Chữa lỵ trong khi có thai, đây dùng Hương liên tán (23) thích đáng hơn thang Bổ trung ích khí ở trang 29b sách trên.
- Chữa đi lỵ ra máu mũi sau khi đẻ, dùng hoàng liên thang (44) mà bỏ Lý trung thang ở trang 57 sách trên là thỏa đáng.
- Chữa sau khi đẻ nôn ói, đây chỉ dùng Để tránh thang (50) mà không dùng Lục quân thang, Bổ trung ích khí, Nhân sâm dưỡng vinh như ở trang 56 sách trén, chép theo Trung y, là đơn giản và độc đáo v.v… Đối chiếu với mục Phụ nữ của Vệ sinh yếu quyết diễn ca, các điểm được nói đến trong tài liệu này, đều có sự phù hợp nhất quán. Duy tập sách này đã được khấc in 60 nồm sau khi biên soạn, sớm hơn hết nên đã giữ vẹn được nguyên văn cả từ ngữ và lối viết chữ nôm, không bị sửa chữa qua việc sao đi chép lại của người đời sau như Vệ sinh yếu quyết.
Tập Bảo thai chủng từ quốc âm toản yếu chưa có mặt trong thư mục của bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh in năm 1876 – 1883 có thể vì lúc bấy giờ chưa phát hiện được hoặc vì quan niệm là một tài liệu phụ thêm ít nhiều trùng phúc với Phụ đạo xán nhiên, Tọa thảo lương mô đã được coi như đầy đủ!
Thực tế, tập sách này có giá trị phổ cập y thuật về thai sản và có giá trị riêng của nó khác các tác phẩm nói trên.
=> Đọc thêm: Ma chẩn chuẩn thằng: phương pháp và kinh nghiệm trong điều trị bệnh sởi.
BẢO THAI CHỦNG TỬ QUỐC ÂM TOẢN YẾU
Nay mừng vận mở thái hanh
Ải lang (biên thùy) tắt khói, biển kình bặt (im) hơi.
Nhân khi thong thả ngồi chơi,
Chép phương chủng tử bảo thải để truyền.
Thập tu cổ huấn di biên,
Đặt lời quốc ngữ ngỏ khuyên phép màu.
Gẩm cơ tạo hóa trước sau,
Kể từ thái cực một bầu khỉnh thanh.
Đêm ngày khí hóa vận hành,
10 Đã chia động tĩnh (d) mới sinh ra người.
Thuộc dương nam vốn dạng trời,
Thuộc âm dạng đất ấy vòi nữ nhi (con gái).
m dương phối hợp phải thì,
Trai đừng sớm dục, gái tùy nghi gia.
Sá khuyên sửa lấy mình ta,
Chỗ cậy cường tráng, ở ra dông dài.
Tiếc tinh khí mới là trai,
Được người điều huyết có thai sự thường.
Trải xem Lục nữ nhân phương,
20 Kể từ Nhâm mạch gây đương nguyệt kinh.
Cứ tuần nhi thất khéo lành,
Nhược bằng bủng quá bủng xanh nhưng nào.
Kinh ra ít ỏi chẳng đào,
Làm bài Tứ vật gia sao Hoàng kỳ(1)
Hoặc là máu lạnh nữ nhi,
Hợp cùng Quế, Truật, Trần bì, Can khương.
Người nào máu sứt (chậm) chảng thường,
Quá kỳ mới thấy dùng phương Quy tỳ
Hoặc ra đen tím chín ghê,
30 Gia thêm Thăng, Bá, cầm, Chi hợp đồng.
Hoặc ai huyết đạm (nhạt) thiển (ít) hồng,
Mỗi lần một ít chẳng thông được nhiều:
Nhị tràn (3) Tứ vật phải điều,
Gia Kỳ Quế, Truật Khương bào càng hay.
Chảng thông dạ (bụng) dưới chói thay,
Tứ vật thang nãy gia bội Bong nga (4)
Huyền hồ lạnh nhiệt: Nhục quế, Lệ chi hạch – Hồng hoa
Nhũ hương – Một dược, huyết tà lại thông.
Hoặc là máu trắng lạt không,
40 Xích bạch hỗn đồng thanh thoát như vôi.
Áo quần chẳng có tanh hôi,
Ruột sốt (nóng) bồi hồi ấy chứng bạch dâm.
Nhị trần Bối mẫu (5) khử tâm,
Thăng, Sài, nhị truật, Ngải, cầm đều thang.
Hoặc ra hôi hám khác thường,
Ấy chứng bạch đới dùng phương Bạch quỳ (6)
Có người báng lậu một khi,
Máu xuống dì dì làm tán Tung lư (7).
Máu ra khi ít khi vừa,
50 Khi dừng, khi có, sớm trưa chẳng nề,
Ấy là loạn huyết, phải e,
Làm bài Sinh thục thăng đề (8) mới ngoan.
Điều kinh trước hết tiên đan,
Sau xem vượng tướng chi can nhật thần:
Xuân thì giáp, ất, mão dần,
Hạ thi chọn tuần tí, ngọ, bính, đinh.
Thu thì tân dậu, tân canh,
Nhâm, quý, tỵ, hợi tiết lành đông thiên.
Tứ quý sửu, mùi, tuất, thìn
60 Những ngày thượng cát (thật tốt) mới nên chung tình
Lại khi bán dạ (nửa đêm) dương sinh,
Dược giờ phối hợp hòa bình càng hay.
Rằng khi mưa gió tối ngày,
Hối, huyền, sóc, vong răn nay chứ hề.
Cùng ngày bạo thự; (nhật nguyệt thực) hồng nghê (cầu vồng)
Tinh thần biến động phải dè cách xa.
Thần từ cổ miếu (b) gìn già,
Hoặc bên giếng bếp hoặc nhà tăng trai (nơi chay tĩnh)
Chẳng nên tiết hiệp (đùa cợt) dông dài,
70 Mấy ngày kiêng kỵ đầu ai cũng dè.
Dù ai lòng muốn nọ, kia,
Đợi kinh đủ lệ, huyết vừa trọn trong.
Tử cung mở đợi hóa công,
Gặp ngày giờ tốt sẽ dùng mới ngoan.
Hễ là được chóng thông khoan,
Chín nâng, sâu một, đã an phép mầu.
Chờ ba nữ quốc ra đầu,
Nam giao dốc đợi mặc dầu vui chơi.
Đoạn nằm im vậy nghỉ ngơi,
80 Chớ dậy chạy ngồi giữ lấy tiên thiên
Ghé răng sẽ cắn môi trên,
Để thai súc (giữ) lại vẹn tuyền chẳng sai.
Dặn cho ngoan biết gái trai,
Một ngày nhẩm tính, rút hai ba ngày.
Dương là số lẻ đã hay,
m là số chẵn ắt rày nữ sinh.
Tự nhiên tượng bởi thiên thành,
Nam hình tượng khảm, nữ hình tượng Ly
Dành hay âm thự, dương thi
90 Tìm hiểu ỷ lạc (vui mừng) chẳng gì lo âu.
Để cho khí huyết chu lưu,
Mưa (chớ) hề uất trệ, mới hầu được yên.
Trước thì dưỡng bảo thai nguyên,
Sau thì chát dục (nén dục) kín bên khuê phòng.
Ở thì điềm tĩnh thong dong,
Ràn điều táo cấp (vội vã) chớ lòng nộ xân (giận dỗi)
Chuyển thai học phép cổ nhân,
Sá treo cung ti phủ cân (cung tên rìu búa) dưới giường.
Hoặc là đeo túi Hùng Hoàng,
100 Cùng hoa Huyên thảo phép thường xưa kia.
Nếu từ kinh dứt trở đi,
Đến ngày ba tháng xong bề xôn xan.
Ít cơm, yêu giống cam toan (ngọt chua),
Làm bài Sâm Quít (9) bệnh thuyên chẳng là.
Rõ thay nảng bước đường hoa,
Để cho khí huyết điều hòa chu thân (kháp mình).
Lâu đi mỏi nhọc thương cân (mỏi gân),
Lâu ngồi lâu đứng lao (mệt) thần chẳng hay.
Chẳng nên nằm ngủ ban ngày,
110 Chẳng nên quá nhọc sợ nay khiếm (kém) hòa.
Chẳng nên tay với cao xa,
Bao nhiêu của xấu (vật quái lạ) chớ ra xem nhìn.
Mấy lời răn bảo mựa (chớ) quên,
Hễ nơi chênh lệch thiên nhiên chớ ngồi.
Áo mặc vừa ấm thì thôi,
Cơm vừa lưng chừng, chớ xơi (ăn) quá thường.
Muốn con đoan chính nghiêm trang,
Chớ cưu thói dữ, đừng mang lòng tà.
Những điều ngoan ác điêu ngoa,
120 Miệng thì chớ nói, tai hòa chớ nghe.
Dâm thanh răn nét éo le,
Thi thư hằng lệ, di quy (nếp xưa) giảng bàn.
Hễ người đoản thiểu phi nhân (không ra người),
Cùng loài khỉ vượn chớ gần, chớ trông.
Muốn sinh trai nối tổ tông,
Thắt lưng hàng giữ dây cung đòi thì.
Ai muốn đẻ gái phương phi,
Thường đeo trâm nhĩ (hoa tai) chớ khi bỏ rời.
Muốn con đẹp đẽ tốt tươi,
130 Mỹ châu, khổng tước thường ngồi ngắm trông.
Muốn con khỏe mạnn anh hùng,
Tim trâu, gạo mạch thường dùng miệng ăn.
Các đồ ăn uống có ngần,
Khi thai nên kỵ, phải nhuần cho tinh.
Thịt gà cơm nếp cực lành,
Chép, mè, cua, ốc đã đành cực ghê.
Thịt lửa, thịt ngựa, thịt dê,
Cua đinh, sứa, giải, chớ hề mới hay.
Gà đồng, mèo, thỏ, chó cầy,
140 Rượu tám, cùng giống chua cay tỏi, gừng.
Thịt nhạn, thịt ú, loài măng,
Cá nheo, cá ngạnh, cá lãng chớ hề.
Uống ăn thèm phải cứ lề,
Còn khi thai bệnh, phải e quan phòng (đề phòng).
Thai hoặc tức ở nương long (ngực),
Cách (mô) đầy nghịch khí, thai cung rất phiền.
Chứng ấy gọi là Tử Huyền, Tử tô hòa khí (10) uống liên đờ ngay.
Thai còn 5 tháng chữa chầy,
150 Dạ đã cả tày (to bằng) người đến tháng sinh.
Ấỵ đại tiểu (tiên) chẳng thông hành,
Nấu canh cá chép (11) cứ kinh (sách) ổn mười.
Thai tự 5, 6 tháng trời,
Chân tay mặt mũi, mọi nơi sưng đầy.
Gọi là Tử thủng cho hay,
Toàn sinh (12) chữa thũng đỡ ngay như tờ.
Thai đã 7, 8 tháng dư,
Trên mình bằng phẳng nặng từ hai chân.
Ấy điềm dị sản (để đẻ) đã phân,
160 Sinh đoạn (xong) đã (khỏi) dần, chẳng lọ (cần) thuốc theo
Có thai thấp thoảng huyết lề
Chửa bồ câu ấy, chẳng chi cũng lành.
Huyết ra lắm nớ (như) kinh hành,
Ay chứng thai lậu, chớ khinh làm thường.
Đồng tiện chế Khung Quy thang
Giao Ngải Tứ vật (13) giữ đàng thai cung.
Hoặc là một lạng Sáp ong,
Rượu ngon hòa nấu uống phòng lại thôi.
Trứng gà luộc lấy một đôi,
170 Dập ra hòa bột uống ròi chỉ (ngừng) ngay.
Hoặc thai tiểu dắt (đái nhắt) thâu ngày,
Thoạt nằm, thoạt dậy, ắt dày Tử lâm.
Bài An vinh (14) dùng Phiến cầm,
Rõ hư: Bạch truật, Nhân sâm điều cùng.
Động thai ê ẩm trong lòng,
Sa nhân (15) Cầm truật (16) ngừa phòng lại yên.
Đầy buồn thai ấy Tử phiền,
Làm bài Trúc diệp (17) lại thuyên chẳng chầy.
Thai hặc Tử giản khốn (khó) thay,
180 Đảm diên (đờm rãi) chảng tinh, chân tay giật đùng,
Bài Linh dương giấc (18) phải dùng,
Uống vào khỏi lòng, bệnh ấy liền tiêu.
Có thai sốt rét cũng nhiêu,
Nhức đầu chóng mặt, làm liều Khung tô (19)
Thai ngược: sốt rét lắm vừa,
Sài Cầm (20) cho uống đòi trừ cất (cơn) ngay.
Thai mà sôi bụng tối ngày,
Nước tiểu trong trắng: thai nay hiệp hàn.
Nhị truật, Sa nhân (21) làm thang,
190 Nước khát tiểu vàng, làm tề Thông linh (22).
Đại tiện xích bạch (mấu mũi) rành rành,
Ấy chứng thai lị, phải hành Hương liên (23).
Hoặc thai đau tức bụng trên,
Ấy chứng tâm thống dùng hoàn Hỏa long (24)
Hoặc thai trướng thống trong lòng,
Dùng An thai ẩm (25) bổ trong cũng lành.
Hễ gần tháng phải sắm sanh,
Những người chốc (lở) chứng, hôi tanh chớ cầu.
Chọn đội mũ lão sạch làu,
200 Vả thêm được sẵn ở hầu mới an.
Đừng mời bà đỡ mới ngoan,
Dầu khi trở dạ, sốt gan (nóng ruột) chớ ồn.
Hoặc bào tương thủy nước tuôn,
Bụng đâu từng trận chẳng dồn nhặt mau.
Ấy là thai lộng chẳng âu (lo),
Làm bài Phật thủ (26) lại dầu như xưa.
Liệu chứng bữa đã hầu (gần) trưa,
Cháo hoa nấu nhừ, sẻ ít cho ăn.
Thấy còn âm ỉ băn khoăn,
210 Thì hòa Bạch mật (27) uống yên bây giờ.
Nếu thai chín tháng có thừa,
Nhặt đau lưng bụng chẳng thưa chút nào,
Ví thuyền đương vượt ba đào,
Xả hơi nằm ngửa thuận chiều càng xong.
Bao giờ tứ chứng đã cùng,
Vả chờ giờ tốt dầu lòng ta sinh.
Chớ nên dục dã thăm linh (thăm xét)
Khoan khoan hãy đợi giờ lành nở hoa.
Hễ là tương thủy nước ra,
220 Khi đau thì dở, ấy lã mau (mót) sinh.
Dặn thôi mụ nở (bà đỡ) đinh ninh
Đau thì nói chuyện làm thinh kẻo buồn.
Thấy khi nhị tiện bốn chồn,
Ấy là đã hạ sản môn (cửa mình) tức thì.
Mụ già gìn giữ mọi bề,
Ấy tay thăm biết đầu nhi dường nào.
Thấy đầu đã chính cửa bào,
Bấy giờ hãy rặn, cho đào đỡ hơi,
Thai sinh bụng nhẹ như chơi,
230 Khác nào bế sóng mấy vời vượt qua.
Hoặc nhau còn chậm chưa ra,
Mực tốt mài hòa nước nóng làm thang.
Hoặc sinh bọc cũng là thường,
Tay kíp dứt màng giữ lẩy tiểu nhi.
Vuông tròn lại vẹn tức thì,
Sinh đoạn (xong) mọi bề bảo phép cho hay
Khiến người bọc lụa ngon tay,
Sờ vào cuộn lấy huyết dây trong hàm.
Kịp thời chưa khóc mới cam,
240 Dầu ai việc ấy cần làm cho tinh.
Nước thang Cam thảo sắm sanh,
Nhỏ vào cho kịp nhi sinh bấy giờ.
Lâng lâng cuốn lây tanh nhơ,
Khiến sau chẩn (sởi) đậu ít thưa vững vàng.
Dùng năm thức chỉ (ngũ sắc) cho tường,
Rốn đo sáu tấc, buộc ngang phải chừng.
Lẩy dao nứa cát lưng chừng,
Đoạn rồi lau sạch ẵm nâng chớ rời.
Còn khi trứng nước dời dời.
250 Áo trong đồng khí lấy hơi ôn hòa.
Phau phau phấn trắng tay xoa,
Gặp mình con trẻ, khí tà dễ lôi.
Khiến ông trưởng lão han hoi,
Xin người mở miệng chào đời thông minh.
Hễ là chôn nhau phải kiêng,
Cửu lương tinh kỵ mỗi phương tháng lần
Giêng tý, hai sửu, ba dần,
Bốn tức mão vị, năm vần thin cung.
Sáu lỵ bảy ngọ chớ dùng
260 Tám e vị hướng, chín phòng phương thân.
Tháng mười chín dậu đừng gần,
Một tuất, chạp hợi, khuyên răn giữ giàng.
Đến khi sản phụ an sàng (lên nằm)
Đồng tiện, Cóc Mắn (28) uống càng hiệu thay.
Uống thôi ngồi lặng một chi (chốc)
Hình dung đoan chính (ngay ngắn) ngày rày chớ quên,
Để cho thuốc dẫn chu tuyền (khắp)
Chẳng lo huyết vạn (máu xâm) lại yên huyết vần.
Đoạn thổi nằm nghỉ an thần,
270 Khép chân rồi sẽ dần dần duỗi ra.
Trên đầu cao đệm gối hoa,
Tượng trời khuynh bấc (chếch về bắc) cho tà huyết thông.
Sản hậu lại luận cho dòng,
Co người mới đẻ thường công lên đầu.
Hôn mê nào biết chi đau,
Trước xông Can tất (sơn khô) (29) uống sau Thanh hồn (30)
Thấy người đau nổi dạ con,
Làm bài Thất tiếu (31) chẳng còn có nghi.
Trúng phong đờm có sè sè,
280 Làm bào Cổ bái (32) thang thì Đậu đen.
Tay chân co quắp yếu hèn,
Ày phong nuy chứng: Tháp toàn (33), Huyết phong (34).
Sinh thôi (rồi) chẳng đáp lá Đồng (uông)
Đẻ căng vú sữa, đầu đông (đau) nhiệt cường.
Dặt ngoài: Long não (35) lá Tràng (35)
Uống trong Ngọc lộ (36) còn căng được nào.
Sữa còn ít ỏi chẳng đào
Lậu lô thang (37) ẩm uống vào tuôn ra.
Mê trầm bại huyết như tà,
290 Đêm ngày coi thấy quỷ ma nói cười.
Bài Điều kinh (38) ấy nên ghi,
Sắc liền cho uống tức thì lại an.
Nhức đầu sốt rét bàng hoàng,
Xương đau tự hãn (ra mồ hôi) làm thang Sâm kỳ (39)
Huyết hư sốt rét một khi,
Tiểu sài, Tủ vát (40) chín thì hiệu thay.
Co người tiết tả (ỉa chảy) luôn ngày,
Nhiệt tà chứng ấy dùng rày Quân linh (41)
Tiểu đỏ, khát nước năm canh,
300 Nhiệt tiết (tả) chứng ấy đã dành Mộc thông.
Đau bụng, chảng khát, tiểu trong,
Hiệp hàn chứng ấy Điều trung thang hoàn (43)
Hạ ly xích bạch (ỉa ra áu mũi) đôi đường,
Lý cấp hậu trọng (vội đi mót rặn) dạ thường đau âm:
Hoàng liên (44) thang ấy chớ nhầm,
Chữa sản hậu lỵ, cổ kim phép truyền,
Hoắc loạn (dịch tả) chuyển gân kéo lên
Nước khất lao phiên dùng Ngũ linh phương (45)
Sản hậu tẩu chú (phong chạy) nhức xương,
310 Thân thống trực cường (co cứng) Sấn thông (46) càng ghê.
Quay đầu chóng mặt đòi khi,
Gia giảm tứ vật (47) Khung quy chữa nà (khó).
Chân tay lạnh ngắt trúng hàn,
Làm phương Tứ nghịch (48) cùng hoàn Lý trung (49).
Có khi ẩu nghịch (nôn ói) phiền lòng,
Cơm ăn chẳng được, tức xông dạ dày:
Làm bãi Đế thánh (50) rất hay,
Xích thượng, Bán hạ chế rày Sinh khương.
Có người lăng thắng chạy quàng,
320 Tứ quân (51) gia giảm là phương nghiệm nhiều.
Sinh rồi suyễn cấp chẳng tiêu,
Ấy chứng phế tuyệt dùng liều Hồn đan (52).
Sản hậu cước khí câu loan (chân đau co rút).
Làm Tiểu lục mênh (52) cứu nàn tri yên.
Hoặc là thấy đau bụng phiền,
Trứng gà luộc rượu, ăn liền lại thôi.
Thuốc thang bào chế hẳn hoi,
Liệu mùa, liệu bệnh, liệu người sẽ gia.
Khung quy thánh dược đàn bà,
330 Tùy cơ ứng biến mặc ta liệu dùng.
Uống rồi tay vuốt, nương long (ngực)
Vuốt lui dàn xuống cho thông huyết thừa.
Ba ngày gìn giữ sớm trưa,
Chớ lấy làm dễ, thờ ơ chẳng phòng.
Ngủ thì có kẻ ngồi cùng,
Mối thì thay đổi chớ không một mình.
Sau rồi lại hỏi xem tình,
Thấy rằng đã tỉnh mới đành, chớ sai.
Chẳng nên để ngủ giấc dài,
340 Hoặc khi huyết vận, nào ai biết gì.
Kiêng khem càng lợi tiểu nhi,
Xem người có sự nguyệt kỳ (kinh nguyệt) lánh xa.
Phòng nhi kẻo “đẹn” trẻ mà,
Vật gì của lạ, để ra chớ vào.
Cửa ngoài nghiêm nớ (tựa) thiên tào,
Xương bồ, Ngưu tắt treo cao trừ tà.
Kẻ ngoài văng vắng hỏi xa,
Người trong chẳng khá thoát ra mấy lời.
Lệ (e) khi khí vận theo hơi,
350 Chẳng hình, chẳng ảnh, nào ai biết gì.
PHƯƠNG THUỐC TRỊ BỆNH PHỤ NỮ
- Chữa người gầy bủng xanh xao, huyết bư, kinh ra ít, dùng Tử vật thang. Thục địa, Bạch thược, Đương quy, Xuyên khung mỗi vị 2 đồng cân, gia Hoàng kỳ 2 đồng cân. Trường hợp hư hàn (kinh thấy chậm kỳ, huyết nhạt) thì gia: Bạch truật, Trần bì, Nhục quê, Can khương đều 2 đồng cân.
- Chữa người khí huyết hư kinh trệ, quá kỳ mới thấy, dùng Quy tỳ thang: Nhân sâm, Hoàng kỳ, Đương quy, Bạch truật, Phục thần, Viên chí, Táo nhân sao, Long nhãn đều 2 đồng cân. Mộc hương 5 phân, Cam thảo 3 phân. Nếu huyết đen sẫm không đò, thì gia Thăng ma 3 phân, Hoàng bá, Hoàng cầm sao rượu, Chi tử đều 1 đồng cân, Gừng, Táo sắc uống.
- Chữa hành kinh huyết nhạt không tươi, ra ít một, không thông, dùng: Nhị trần thang. Trần bì, Bán hạ chế (ngâm gừng sao), Phục linh, Cam thảo đều 2 đồng cân, hợp với phương Gia vị Tứ vật (số 1) nói trên.
- Chữa kinh bế không thông, đau bụng dưới, dùng Tứ vật thang gia vị: Xuyên khung, Đương quy, Thục địa, Bạch thược, Bồng nga truật (nghệ đen), Huyền hồ, Hồng hoa, Nhũ hương, Một dược. Hãn thì gia Nhục quế, nhiệt thì gia Lệ hạch (hạt vải) và thay Thục địa bằng Sinh địa.
- Chữa chứng bạch dâm, ra huyết bạch, trắng nhạt như máu cá, dùng Nhị trần thang gia vị: tức thang Nhị Trần (3) gia Bối mẫu (bỏ ruột), Thăng ma, Sài hồ, Thương truật, Bạch truật, Ngải diệp, Hoàng cầm.
- Chữa cứng bạch đới, ra chất trắng nhầy hôi hám, dùng: Bạch quỳ thang: Bạch quỳ hoa, Trắc bá diệp, Mâu lệ, Ô tặc cốt, Bách thảo sương, Hồng quỳ. Thuốc thu sáp theo phụ đạo xán nhiên quyển tiền trang 39b.
- Chữa băng huyết rong huyết, dùng Bẹ móc đốt ra tro tán nhỏ uống.
- Chữa kinh loạn kỳ, huyết ra bất thường khi ít khi nhiều dùng Lương huyết thăng đề thang Sinh địa, Bạch thược, Hoàng cầm, Hoàng liên, Thiên môn, Địa cốt bì, Sài hồ, Địa du (Xem y học nhập môn ca).
- Chữa chứng nôn nghén, chán cơm, dùng: Sâm quít thang Nhăn sám, Quít bì, Phục linh, Bạch truật, hậu phác sao, Gừng sống đều 1 đồng cân, Trúc nhự (tinh tre) 1 nắm, sắc uống.
- Chữa chứng tử huyên, thai trồi lên, dùng Tử tô hòa khí: Tô diệp 2 đồng 6 phân, Xuyên khung, Đương quy, Bạch thược, Nhân sâm, Cam thảo, Đại phúc bì, Trần bì đều 1 đồng cân, Gừng sống 3 miếng, Hành trắng 7 tép.
- Chữa có thai, bụng trướng đầy nước, dùng: Thiện kim lý ngư thang: Bạch truật 2 đồng 5 phân, Phục linh 1 đồng 5 phân Đương quy, Bạch thược đều 1 đồng, Quít hồng bì 5 phân. Cá chép 1 con bỏ vảy ruột, nấu lấy nước để sắc thuốc trên mà uống, thì bụng sẽ rút nước. Hoặc dùng cá Chép, gạo tẻ, Gừng, Hành nấu cháo ăn.
- Chữa chứng tử thũng, mặt, mắt chân tay đều phù, dùng Toàn sinh phục linh tán: Xích phục linh, Đông quỳ tử bằng nhau, tán nhỏ, uống mỗi lần 5 đồng cân với nước nóng vào lúc đói.
- Chữa chứng thai lậu, ra máu như hành kinh, dùng Giao Ngài Tứ vật thang: Thục địa, Bạch thược sao rượu, Đương quy tẩm rượu, đều 1 lạng, Xuyên khung 8 phân, A giao 8 phản, Điền cầm 1 đồng 5 phân, Bạch truật 2 đông Hương phụ sao 1 đồng, Ngải cứu tươi 1 đồng, gạo tẻ 1 nhúm, sắc uống. (Hoặc để riêng A giao, sắc thuốc rồi sau hòa tan A giao vào uống).
- Chữa chứng có thai, đái nhắt, gọi là tử lâm, dùng An vinh thang: Mạch môn, Thông thào, Hoạt thạch, Nhân sâm, Đương quy, Đăng tâm, Cam thảo đều 1 đồng cân, tán bột, uống mỗi lần 1 đồng cân với nước sắc Mạch môn làm thang, (ở phụ đạo xán nhiên có thêm Bạch thược).
- Chữa đau bụng âm ỉ trong khi co thai, dùng Sa nhân tán nhỏ uống 2 đồng cân với nước gừng.
- Chữa đau bụng, thai không yên, phòng sẩy thai, dùng Cầm truật thang: Hoàng cầm 1 lạng, Bạch truật 5 đồng cân sắc uống dần dần.
- Chữa chứng tử phiên, trong lòng buồn bực bồn chồn dùng Trúc diệp thang: Mạch môn, Hoàng cầm, Bạch linh, Phòng phong với lá tre sắc uống.
- Chữa chứng tử giản, hôn mê không tỉnh, đờm dãi sùi ra, tay chân co giật, dùng: Hắc giác dương thang: Linh dương giác, Hổ hình cốt, Bạch linh, Táo nhân sao, Thục địa, Quế tâm, Cam thảo, đều bằng nhau, tán bột, uống mỗi lần 1 đồng cân.
- Chữa trong khi có thai, cảm sốt, nóng rét, nhức đầu chóng mặt, dùng Khung tô tán: Xuyên khung, Bạch thược, Bạch truật, Tủ tô, đều 8 phân, Cát căn 5 phân, Hoàng cầm, Tiên hồ, Mạch món đều 1 đồng cân, Cam thảo 3 phân, Gừng, Hành sắc uống.
- Chữa chứng sốt rét cơn trong khi có thai, sổt nhiêu rét ít dùng: Sài cám thang: Sài hồ 3 đồng cân, Hoàng cầm 2 đồng cân, Phục linh, Trư linh, Trạch tả đều 1 đồng 5 phân, Nhân sâm, Bán hạ chế đều 1 đồng, Cam thảo 4 phân, Gừng 3 miếng, sắc uống.
- Chữa lạnh dạ sôi bụng, ỉa chảy, nôn, đầy không tiêu, dùng Nhi truật Sa nhân thang: Bạch truật, Thương truật, Sa nhân, Tô diệp đều 1 lạng, Nhân sâm, Bạch chỉ sao đều 7 đồng 5 phân, Xuyên khung, Kha tử bì, Thanh bi đều 5 đồng, Cam thảo nướng 2 đồng 5 phân, tán bột uống mỗi lần 1-2 đồng cân với nước gừng, hoặc dùng 1/10 lượng trên với 3 lát gừng sắc uống.
- Chữa sôi bụng, ỉa chảy, nước tiểu vàng (thấp nhiệt) dùng Thông linh tán: Trư linh, Phục linh, Trạch tả, Bạch truật, Mộc thông tán bột, hay sắc uống.
- Chữa chứng đi lỵ ra máu mũi, dùng Hương liên tán: Mộc hương, Hoạt thạch, Bạch truật, Bạch thược sao đều 1 đồng cân, Hoàng liên 1 đồng cân, Cam thảo 6 phân tán bột uống hoặc sắc uống.
- Chữa đau vùng thượng vị, tức bụng trên, dùng Hỏa long thang, Xuyên luyện tử, Hồi hương đều 2 đồng, Ngải diệp 1 đồng sắc uống ít một, (nếu nhiệt thì không dùng).
- Chữa co thai bụng trướng đau, không nên, dùng An thai ẩm: Sinh địa, Bạch thược, Xuyên khung, Đương quy, Nhân sâm, Bạch truật, Hoàng cầm, Cam thảo, Tử lê, Trần bì (liều lượng tùy nghi: mỗi vị 1-2 đồng cân).
- Chữa chứng lộng thai, đau bụng từng cơn, hoặc động thai ra máu, dùng Phật thủ tán: Dương quy 6 đồng, Xuyên khung 4 đồng, ích mẫu 5 đồng sắc uống.
- Chữa gần đến ngày sinh mà bụng đau âm ỉ, thì dùng: mật ong hòa với dầu mè cho uống.
- Thuốc cho sản phụ uống để phòng các bệnh máu xâm, máu xấu xung lên nhức đầu chóng mặt, xây xẩm, dùng: cây Cúc mẩn (cóc mẳn: Nga bất thực thảo) giã nhỏ, chế đồng tiện và gạn lấy nước uống.
- Chữa sau khi đẻ, máu xung lên, hôn mê không tỉnh dùng gấy Sơn khô hay đồ sơn củ (can tất) đốt để xông khói vào mũi miệng. Hoặc đốt thân, lấy giấm thanh tưới vào, để xông hơi khói vào mũi sản phụ thỉ tỉnh.
- Tiếp sau cho uống Thanh hồn tán: Mần tưới, Nhân sâm đều 1 dòng, Kinh giới tuệ 4 lạng, Xuyên khung 2 lạng, cam thảo nướng 8 phân tán nhỏ, uống mỗi lần 2 đồng cân với rượu hòa cùng đồng tiện.
- Chữa đau dạ con, Thất tiếu tán: Bồ hoàng sao, Ngũ linh chi đều bằng nhau, tán nhỏ uống mỗi lần 2 đồng cân với nước chín.
- Chữa sau khi đẻ, trúng phong đờm kéo lên, dùng Cổ bái thang: Kinh giới tuệ tán nhỏ, uống mỗi lần 2 đồng cân với nước sắc Đậu đen.
- Chữa sau khi để tay chân co quắp, suy nhược, dùng Thập toàn đại bổ: Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Cam thảo, Thục địa, Bạch thược, Đương quy, Xuyên khung, Hoàng kỳ, Nhục quế đều 6 phân rưỡi, Gừng, Táo.
- Hoặc dùng Huyết phong thang: Tần giao, Khương hoạt, phòng phong, Bạch chỉ, Xuyên khung, Thược dược, Bạch truật, Đương quy, Thục địa, Phục linh, Bán hạ, Hoàng kỳ bằng nhau, tán nhỏ, uống mỗi lần 1 đồng cân với rượu vào lúc đói, và làm viên uống dần.
- Chữa cương sữa nhức đầu phát sốt dùng Lá vông chưng nóng đắp lên đầu. Lá Tràng (sưng) hay lá sẻn (Zanthixylum nitidum DC) với lá Long não hay Đại bì (Blumla babsamifesa DC) giã nhỏ chưng nóng đắp lên vú.
- Trong uống Ngọc lộ ẩm: Xuyên khung, Bạch chi, Cát cánh đều 5 đồng cân, Đương quy, Bạch thược đều 1 đồng 5 phân, Nhân sâm, Phục linh, Cam thảo đều 2 đồng 5 phân, sắc hoặc tán bột mỗi lần uống 2 đồng 2 đồng cân.
- Chữa ít sữa và sữa không thông, dùng Lậu lô thang: 2 công thức: Lậu lô 1 lạng 5 đồng, Qua lâu 1 quả, xác rắn đốt 1 con tán nhỏ uống với rượu mỗi lần 2 đồng cân. Lậu lô, Mộc thông, Mạch môn, Thiên hoa phấn, Sâm, Quỳ tử, giò lách heo, nấu với thuốc mà ăn (Phụ đạo xán nhiên).
- Chữa sau khi đẻ ngất lịm, nói nhảm do máu xấu vào tim, dùng Điều kinh tán: Ngải diệp, Hổ phách đều 1 đồng cân, Quế tám, xích thược, Đương quy đều 1 lạng, Tế tăn, Xạ hương đều 5 phần, tán bột, uống mỗi lần 1 đồng cân với nước gừng, rượu và đồng tiện làm thang.
- Chữa sau khi đẻ, nhức đầu, sốt rét, nhức xương, ra mồ hôi dũng: Nhân sâm dương quy thang: Nhãn sâm, Đương quy, Thục địa, Nhục quế, Mạch Môn, Bạch thược sao đều 1 đồng cân, Lá tre 6 đồng cân, Gừng sống 3 miếng, sắc uống. Hoặc dùng Đương quy Hoàng kỳ thang: Đương quy, Hoàng kỳ, Bạch thược đều 2 đồng cân, Gừng sống 3 miếng, sắc uống.
- Chữa sau khi đẻ, huyết hư sinh sốt rét, dùng: Tiểu sài hồ hợp Tứ vật thang: Sài hồ, Hoàng cảm, Nhân sâm, Cam thảo hợp với thang Tứ vật (Thục địa, Bạch thược, Đương quy, Xuyên khung) sắc uống.
- Chữa sau khi đẻ tỳ hư, ỉa chảy không ngừng, dùng Quân linh thang tức thang Tứ quân tử (Sâm, Bạch linh, Bạch truật, Cam thảo) hợp với Tứ linh tán (Bạch truật, Thương truật, Trư linh, Trạch tả).
- Chữa sau khi đẻ bị bệnh nhiệt tả, ia ra nước, đái đỏ, khát nước nhiều dùng; Mộc thông thang: Mộc thõng, Quỳ tủ, mè đen, Hạt cau, Chỉ xác Hoạt thạch, Cam thảo mỗi vị 5 đồng sắc uống.
- Chữa sau khi đẻ bị bệnh hàn tả, đái nước trong, không khát, dùng Điều trung thang: Riềng âm, Đương quy, Quế chi, Xuyên khung, Bạch thược, Phụ tử chế đều 1 đồng cân Cam thảo nướng 5 phân, thêm Gừng sắc uống.
- Chữa sau khi đẻ, đi ly ra máu mũi và đau quặn mót rặn, dùng Hoàng liên thang: Hoàng liên 8 phân, Háu phác, A giao, Đương quy, Can khương đều 6 phân, Hoàng bá, Ngải diệp đều 4 phân, sắc uống.
- Chữa hoắc loạn (thổ tả) vọp bẻ, khát nước, hư phiền dùng Ngũ linh tán: Bạch tinh, Trư linh, Trạch tả, Quế chi, Thương truật.
- Chữa sau khi đẻ, phong chạy, nhức xương, co cứng, dùng Sấn thống thang: Ngưu tát, Quan chế, Đương quy, Bạch truật, Hoàng kỳ, Độc hoạt, Sinh khương đều 5 phân Củ kiệu 2 đồng cân, sác uổng. Hoặc gia thêm Tầm gửi dâu càng tốt.
- Chữa sau khi đẻ nhức đầu chóng mặt, dũng Gia giảm Tứ vật thang: Xuyên khung, Đương quy, Cảo bản, Tế tân, Thăng ma, Sài hồ, Nhân sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Trần bì đều 1 đồng cân, Cam thảo 5 phân, thêm gừng sống sắc uống.
- Chữa sau đẻ, trùng hàn, bị ngất, tay chân giá lạnh, dùng: Tứ nghịch thang: Can khương 5 đồng, Phụ tử sống 2 đồng 5 phân, Cam thảo 1 lạng nướng, sắc uống khi thuốc còn ấm.
- Hoặc Lý trung thang: Nhân sâm, Bạch truật, Can khương đều 2 đồng, Cam thảo nướng 1 đồng 5 phân, sắc uống.
- Chữa sau khi đẻ nôn ói, tâm phiền, tức bụng, dùng: Để thánh tán: Bán hạ chế, xích thược, Mần tưới sắc uống.
- Chữa sau khi đẻ tâm thần không yên, tay chân buồn bã, dùng Tứ quân tử thang gia giảm: Nhãn sâm, Bạch linh, Bạch truật, Cam thảo.
- Chữa sau khi đẻ, huyết hư khí nhược suyễn thở nguy cấp, dùng Phản hồn đan: Ích mẫu 8 lạng, Đương quy, Xuyên khung đều 3 lạng, Mộc hương, Khương hoạt đều 2 lạng, tán nhỏ, viên với mật, uống mỗi lần 2 đồng cân. Hoặc dùng 1/10 làm thang sắc uống, có công năng hồi sinh, (Lương mô tr.49).
- Chữa sau khi đẻ, cước khí, chân sưng đau, co rút, dùng Tiểu tục mệnh thang: Nhân sâm, Ma hoàng, Hạnh nhân, Quế chi, Bạch thược, Xuyên khung, Hoàng cầm, Phòng kỷ đều 1 đồng cân, Phụ tử chế 5 phân, Gừng, Táo sắc uống (Nhật quyển trang 26b).
=> Tham khảo thêm: Bách bệnh cơ yếu: Lý luận và kinh nghiệm chữa bệnh.