Dược mỹ phẩm trong điều trị da sần vỏ cam

Xuất bản: UTC +7

Cập nhật lần cuối: UTC +7

Dược mỹ phẩm trong điều trị da sần vỏ cam

Nhà thuốc Ngọc Anh – Chương 23: Dược mỹ phẩm trong điều trị da sần vỏ cam

Tác giả: Mark V. Dahl

Nguồn: Dược mỹ phẩm và ứng dụng trong thẩm mỹ

Bác sĩ: PATRICIA K.FARRIS

Giới thiệu

Da sần vỏ cam là kết quả của những thay đổi trong da và mô dưới da dẫn đến những vùng lồi lõm bất thường trên bề mặt da. Hình thái lâm sàng biểu hiện khác nhau giữa các bệnh nhân bao gồm dạng vỏ cam, dạng phô mai tươi hoặc dạng nệm của bề mặt da. Sần vỏ cam thường xảy ra trên mông và đùi, nhưng nó cũng có thể ảnh hưởng đến các vùng khác như bụng, cánh tay và lưng.

Mô tả lâm sàng của bệnh (sinh bệnh học và thách thức trong điều trị)

Các tổn thương lõm xuống là do sự hiện diện của vách ngăn dạng sợi kéo bề mặt da lõm xuống. Một nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng có sự gia tăng độ dày vách ngăn xơ dưới da ở những vùng lõm của da sần vỏ cam. Mặt khác, các khu vực được nâng lên lại là kết quả của chất béo nhô lên trên bề mặt da.

Giải phẫu mô dưới da (vách ngăn dạng sợi và thùy mỡ) ở nam giới khác với nữ giới, làm sáng tỏ lý do tại sao tình trạng này chủ yếu gặp ở nữ giới. Ở nữ, vách ngăn dạng sợi được định hướng theo chiều dọc từ lớp bì đến cân mạc sâu. Khi có sự tích tụ chất béo giữa các vách ngăn này và lớp mỡ mở rộng, sẽ có sự hình thành các “túi”, và do đó chất béo được tập trung hình thành tại lớp bì theo cách rất giống với chăn bông hoặc nệm, dẫn đến biểu hiện nhăn nheo trên bề mặt da. Ngoài ra, phụ nữ có “túi” mỡ hình chữ nhật và to hơn so với nam giới. Ở nam giới, mô liên kết được định hướng theo kiểu đan chéo, có tác dụng giữ lớp mỡ và ngăn cản sự nhô lên của mô mỡ lên bề mặt da.

Các yếu tố khác có liên quan đến bệnh sinh của sần vỏ cam, chẳng hạn như các nội tiết tố, yếu tố hóa sinh hóa, phản ứng viêm và lưu lượng tuần hoàn. Hơn nữa, sần vỏ cam còn trở nên trầm trọng hơn do lắng đọng chất béo cục bộ, béo phì, và tình trạng da lỏng lẻo hoặc mềm nhão tiến triển xảy ra khi lão hóa.

Do đó, sần vỏ cam là một tình trạng rất khó điều trị, bởi các cấu trúc giải phẫu sâu liên quan đến cơ chế bệnh sinh và bản chất đa yếu tố của nó. Hơn nữa, có sự khác biệt lớn về hình thái lâm sàng giữa các nghiên cứu khác nhau. Điều trị nên được cá nhân hóa tùy thuộc trên các biểu hiện lâm sàng, và nó thường đòi hỏi sự kết hợp của nhiều phương thức, bao gồm các liệu trình và thiết bị nhắm mục tiêu vào vách ngăn, mô mỡ tích tụ, chảy xệ, lưu thông tuần hoàn và dẫn lưu bạch huyết. Mặc dù sự kết hợp các phương pháp điều trị này thường không dẫn đến biến mất hoàn toàn tình trạng trên, nhưng vẫn có cải thiện.

Chương này mô tả các loại dược mỹ phẩm có thể có hiệu quả về mặt lý thuyết khi bôi tại chỗ cho các vùng bị sần vỏ cam, dựa trên cơ chế hoạt động của chúng, giúp phục hồi lớp bì, mô dưới da hoặc tác động đến mô mỡ bằng cách làm giảm quá trình tạo mỡ hoặc phân giải lipid, hay hoạt động như chất chống oxy hóa, hoặc tăng cường lưu thông tuần hoàn.

Vai trò của dược mỹ phẩm trong điều trị tình trạng này

Phương pháp điều trị sần vỏ cam dù đã giảm cân, điều chỉnh chế độ ăn uống và tập luyện còn bị hạn chế. Mặc dù thực tế là nhiều thành phần dược mỹ phẩm để điều trị dùng tại chỗ được bán trên thị trường trên toàn thế giới, nhưng rất ít bằng chứng khoa học hiện có để chứng thực hiệu quả của hầu hết các sản phẩm đó. Hơn nữa, các sản phẩm phải trải qua các biện pháp kiểm soát chất lượng thích hợp và được pha chế ở nồng độ thích hợp để đạt được hiệu quả lâm sàng, có thể tiếp cận lớp bì và mô dưới da để thực hiện những tác dụng mong muốn. Hơn nữa, một số hình thái nhất định của sần vỏ cam sẽ không bị tác động bởi dược mỹ phẩm, chẳng hạn như tổn thương do xơ vách ngăn dưới da kéo da đi xuống. Do đó, vai trò của dược mỹ phẩm trong việc điều trị sần vỏ cam chủ yếu là sử dụng chúng kết hợp với các biện pháp khác chẳng hạn như giảm cân, cắt đáy sẹo và kết hợp các thiết bị nhắm mục tiêu vào mô mỡ và mô liên kết.

Vì sần vỏ cam là một tình trạng ảnh hưởng đến hình thái của da đối với chất béo và cân mạc, hiệu quả lâm sàng của nhiều loại dược mỹ phẩm bị hạn chế do chúng không có khả năng xuyên qua hàng rào và đến các lớp sâu hơn của da. Vì lý do này, các dược mỹ phẩm bôi tại chỗ phải bao gồm phương tiện thích hợp để tăng cường khả năng thâm nhập qua da. Các chất hoạt hóa hóa học hoặc hoạt động bề mặt gây ra những thay đổi trong cấu trúc của lớp lipid kép và tỉ lệ thấm qua da của thuốc. Các phương pháp vật lý như xoa bóp, điện thẩm và điện di cũng rất hữu ích đối với các phân tử ion, các hoạt chất có trọng lượng phân tử lớn và các chất quan trọng có khả năng hấp thu thấp. Hệ thống thẩm thấu qua da, chẳng hạn như miếng dán thẩm thấu qua da, có khả năng làm cho việc phân phối 1 lượng thuốc chính xác để đạt hiệu quả tại vị trí cần tác động dễ dàng hơn. Hệ thống nhũ tương đa hạt liên quan đến việc tạo ra hệ nhũ tương hai pha có dạng khối cầu nhiều phiến đồng tâm của dầu và nước. Bằng các hệ thống phân phối qua da này, các thành phần hoạt tính có thể được giải phóng từ từ qua các lớp khi thoa lên da.

Vì sần da cam ảnh hưởng đến các vùng da rộng lớn, nên cần biết nồng độ và sự thâm nhập của các thành phần hoạt tính vì lý do an toàn cho người bệnh.

Các thành phần và hoạt chất dược mỹ phẩm thích hợp để điều trị tình trạng này

Các thành phần có thể tác động đến cấu trúc của lớp bì

Biểu hiện lâm sàng của sần vỏ cam có thể được cải thiện bằng cách tăng độ dày của lớp bì, việc này có thể là giảm hiện tượng thoát vị mỡ vào lớp mô bề mặt.

  • Retinoids tại chỗ đã được sử dụng để điều trị sần vỏ cam. Nó giúp tăng lắng đọng collagen ở lớp bì, thúc đẩy sự tổng hợp của glycosaminoglycans, cải thiện chất lượng của sợi elastin, tăng độ đàn hồi của da, cải thiện tuần hoàn và giảm kích thước tế bào mỡ. Một nghiên cứu đối chứng với giả dược của Kligman đã khảo sát về vấn đề này sử dụng retinol 0,3% trên đùi trong sáu tháng ở 19 bệnh nhân, và nó chứng minh cải thiện tình trạng sần da cam ở khu vực được điều trị trên 63,1% bệnh nhân so với bên không được điều trị, bằng phương pháp đánh giá da liễu lâm sàng và phép đo vận tốc Dopier laser.
  • Thêm vào đó, vitamin C giúp ổn định collagen và kích thích sự lắng đọng collagen. Do đặc tính này có khả năng giúp tăng cường sức khỏe lớp bì, nó có thể được sử dụng trong các loại kem trị da sần vỏ cam nhưng chưa được kiểm chứng trong các thử nghiệm lâm sàng.
  • Chiết xuất Centella asiatica (từ rau má),có nguồn gốc từ cây thủy sinh trồng ở Ấn Độ và Đông Nam Á, kích thích hoạt động nguyên bào sợi và collagen tổng hợp trong chất nền ngoại bào, và làm giảm kích thước của tế bào mỡ. Nó cũng kích thích dẫn lưu bạch huyết, và có hoạt tính chống viêm. Nó có thể được sử dụng với nồng độ từ 2-5%.
  • Bladderwrack (Tảo bẹ) (Fucus vesiculosus) là một loại tảo biển nâu được ghi nhận tạo ra sự thu nhỏ của mô liên kết dưới da thông qua việc tăng biểu hiện của integ-rin (1 loại liên kết tế bào). Nó cũng kích thích tăng lưu thông mạch máu.

Các tác nhân có thể tác động đến chất béo cục bộ

Các tác nhân làm giảm quá trình tạo lipid và thúc đẩy quá trình phân giải lipid có thể làm giảm kích thước và khối lượng tế bào mỡ, làm giảm sức căng bề mặt xung quanh mô liên kết nên có thể giảm biểu hiện lâm sàng của da sần vỏ cam.

Chất béo của tế bào mỡ đến từ các lipoprotein trong huyết tương. Suốt trong quá trình phân giải lipid, chất béo được thủy phân và loại bỏ trở lại huyết tương dưới dạng axit béo tự do và glicerol. Các enzym khác nhau chẳng hạn như insulin, adenosine monophosphat vòng (cAMP) và đặc biệt là lipase triglycerid đều tham gia vào tiến trình này.

Hơn nữa, chất béo của tế bào mỡ bộc lộ các thụ thể thúc đẩy quá trình dự trữ chất béo và tạo lipid, chẳng hạn như neuropeptide Y và peptide YY. Mặt khác, các thụ thể bề mặt, chẳng hạn như pl và P2, cũng thúc đẩy quá trình phân giải lipid và loại bỏ chất béo.

  • Phosphatidylcholine (chiết xuất lecithin từ đậu nành) gây ra sự phân giải lipid thông qua hoạt hóa các thụ thể b-adrenoreceptor, và nó gây ra viêm mô mỡ thùy và vách ngăn hỗn hợp, kết quả dẫn đến teo và hoại tử mỡ. Trong một nghiên cứu mù đôi có đối chứng ngẫu nhiên, chín nữ tình nguyện viên khỏe mạnh với sần vỏ cam ở đùi độ II – III được điều trị bằng gel chống sần vỏ cam chuyên dụng có phosphatidylcholine. Hai lần mỗi tuần, mỗi bên đùi được điều trị bằng điốt phát sáng (LED) ở bước sóng 660 nm và 950 nm trong 24 buổi. Tám trong số chín người được điều trị đã hạ mức độ sần vỏ cam thấp hơn qua khám lâm sàng, chụp ảnh kỹ thuật số và pinch test. Siêu âm kỹ thuật số ở mặt phẳng chuyển tiếp da-mỡ dưới da cho thấy sự giảm đáng kể về mặt thống kê của độ dấy hạ bì được xác nhận bởi ba lần sinh thiết. Trong chín người thuộc nhóm chứng và được điều trị bằng đèn LED và một đùi được điều trị tích cực, những thay đổi lâm sàng tối thiểu đã được quan sát thấy. Ở giai đoạn đánh giá ở tháng 18 cho tám đùi đáp ứng, năm đùi quay trở lại phân độ sần vỏ cam ban đầu, cho thấy nhu cầu cần thiết để điều trị duy trì.
  • Methylxanthines, chẳng hạn như caffeine, aminophylline, theophylline và theobromine là những chất chủ vận p làm giảm quá trình tạo lipid và thúc đẩy quá trình phân giải lipid. Chúng là những hoạt chất được sử dụng thường xuyên nhất trong các sản phẩm chống sần vỏ cam.
  • Caffeine, được chiết xuất từ hạt cà phê của cây Coffea arabica (L), thường được sử dụng với nồng độ 1-2%. Nó thâm nhập và hấp thụ tốt qua da. Caffeine tác dụng trên các tế bào mỡ, thúc đẩy sự phân giải lipid và kích hoạt enzyme triglyceride lipase phân hủy triglyceride thành axit béo tự do và glycerol. Nó cũng có tác dụng kích thích vi tuần hoàn trên da. Lupi và cộng sự công bố một nghiên cứu lâm sàng có kiểm soát (N = 134) sử dụng dung dịch 7% caffeine, cho thấy chu vi đùi giảm trung bình 2,1 cm ở > 80% bệnh nhân được điều trị. Không có phương pháp ước lượng hiệu quả cụ thể để đánh giá tác dụng trên sần VỎ cam. Có báo cáo về phản ứng dị ứng với các sản phẩm bôi ngoài da có chứa caffeine cũng như các báo cáo về trường hợp viêm da ở công nhân xử lý hạt cà phê. Lesser và cộng sự cũng đã chứng minh giảm độ dày của mô mỡ trong một nghiên cứu mù đôi, đơn trung tâm, có đối chứng với giả dược (N = 41).
  • Aminophylline cũng có tác dụng phân giải mỡ. Collis và cộng sự đánh giá hiệu quả của gel aminophylline tại chỗ kết hợp với 10% glycolic axit và kết luận rằng nó không thể cài thiện sần vỏ cam trong thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng trên 52 phụ nữ. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nào trong các phép đo giữa các vị trí bị ảnh hưởng trong các nhóm.
  • Các tác nhân khác đã được chứng minh là có hoạt tính phân giải lipid bao gồm chất chủ vận B-adrenergic như isoprotenerol, adrenaline, và chất đối vận a-adrenergic như phentolamine, dihydroergotamỉne, yo-himbine và piperoxan. Greenway và Bray trong một nghiên cứu mù đôi, có đối chứng với giả dược, cho thấy sự giảm có ý nghĩa thống kê ở các phép đo nhân trắc vùng giữa đùi với việc sử dụng isoprotenerol tại chỗ, aminophylline và yohimbine. Mức giảm là lớn nhất khi kết hợp tất cả các loại thuốc sử dụng. Và trong số các tác nhân được sử dụng riêng biệt, aminophylline đã cho kết quả tốt nhất.
  • Coenzyme A và axit amin L-carnitine mô phỏng sự huy động và phá hủy các axit béo tự do, ngăn chặn các phản hồi ngược âm tính (negative feedback) về phấn giải lipid và kích thích hoạt động của lipase tế bào mỡ. Chúng cũng làm tăng tác dụng phân giải chất béo của methylxanthine.
  • Axit Petroselinic và axit linolenic liên hợp cải thiện sự biệt hóa của biểu bì, giảm viêm, tăng các thành phần chất nền ngoại bào và làm săn chắc da. Hơn nữa, các nghiên cứu trong ống nghiệm đã chỉ ra rằng axit linolenic liên hợp có thể ngăn chặn sự tích tụ lipid trong tế bào mỡ và một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng cho thấy cải thiện lâm sàng về sần vỏ cam ở 75% bệnh nhân, cũng như giảm trung bình 2,2 cm chu vi đùi khi sử dụng uống với liều 800 mg kết hợp với một viên thuốc chống sần vỏ cam dạng thảo dược. Chỉ riêng viên thuốc chống sần vỏ cam thảo dược đã có tác dụng tối thiểu đối với chứng cellulite. Chất chống oxy hóa Các tác nhân chống oxy hóa có thể bảo vệ màng tế bào mỡ dưới da và lớp bì khỏi sự peroxy hóa lipid màng gây độc từ các gốc tự do. Ví dụ như vitamin c, vitamin E, chiết xuất trà xanh và flavonoid, trong sô’ nhiều loại khác.Tác nhân có thể kích thích lưu thông tuần hoàn tại chỗ và dẫn lưu bạch huyết Mô mỡ có rất nhiều mạch máu, dẫn đến giả thuyết rằng tình trạng sần vỏ cam có thể trở nên trầm trọng hơn ở các khu vực dẫn lưu tuần hoàn và bạch huyết kém dẫn đến giảm thoát dịch, có thể do chấn thương hoặc viêm nhiễm. Hơn nữa, sự suy giảm tuần hoàn vi mạch có thể dẫn đến tăng phù vi mô ở lớp mỡ dưới da. Do đó, có nhiều phương pháp điều trị cho sần vỏ cam với mục tiêu cải thiện lưu thông mạch máu và dẫn lưu bạch huyết.
  • Ginko biloba chứa flavonoid, biflavones và terpen làm giảm độ nhớt của máu, ức chế yếu tố kích hoạt tiểu cầu, cải thiện trương lực mạch máu, và do đó dẫn đến cải thiện vi tuần hoàn. Flavonoid cũng hoạt động như chất chống oxy hóa. Nồng độ đề nghị là 1-3%. Trong y văn đã báo cáo về các trường hợp quá mẫn với các sản phẩm chứa ginkgo.
  • Nho đỏ (Vitis vinifera) có đặc tính chống oxy hóa, kích thích lưu thông hệ bạch huyết, ức chế elastase và collagenase. Nó được sử dụng với nồng độ từ 2-7%. Đã có báo cáo về viêm da tay ở những công nhân ép quả để lấy nước.
  • Quả và lá đu đủ (Đu đủ Carica) và dứa (Ananas sativus) có đặc tính chống viêm. Đề nghị nồng độ là 2-5%. Viêm da hiếm khi xảy ra.
  • Atisô hoặc chophytol (Cynara scolymyus) kích thích tuần hoàn, có tác dụng lợi tiểu và chống phù nề.
  • Pentoxyphylline cải thiện vi tuần hoàn bằng cách ức chế kết tập tiểu cầu và ảnh hưởng đến nồng độ của fibrinogen huyết tương.
  • Tinh chất chiết xuất từ thường xuân đất (Glechoma hederacea) được sử dụng với nồng độ 2-5%. Nó chứa coumarin, làm giảm phù bạch huyết và giảm tính thấm mao mạch.
  • Thường xuân dây (Hedera helix) cải thiện tính thấm của mao mạch, dẫn lưu bạch huyết, tĩnh mạch và có tác dụng chống viêm, chống phù nề, giảm đau. Phản ứng dị ứng đã được báo cáo.
  • Butcher’s broom-cây đậu chổi (Ruscus aculeatus) là một chất làm co tĩnh mạch làm giảm tính thấm thành mạch và phù nề, cải thiện dẫn lưu bạch huyết. Nó cũng kích hoạt tuần hoàn da, cho phép quá trình oxy hóa và chuyển hóa tế bào tốt hơn. Nó thường được sử dụng với nồng độ 1-3%.
  • Sillicon điều chỉnh tính thấm mao mạch, cải thiện dẫn lưu tĩnh mạch và bạch huyết.
  • Hạt dẻ ngựa hoặc Ấn Độ (Aesculus hippocastanum) có đặc tính co mạch ngoại biên nhẹ, giảm tính thấm của mao mạch và giảm hoạt động của enzym lysosomatic lên đến 30%

Các sản phẩm kết hợp

Nhiều sản phẩm là sự kết hợp của nhiều thành phần hoạt tính với mục tiêu tăng hiệu quả bằng cách kết hợp các cơ chế hoạt động khác nhau. Tuy nhiên, số lượng các nghiên cứu khoa học được công bố trong các tài liệu đánh giá các sản phẩm như vậy còn hạn chế.

Bertin và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu mù đôi có đối chứng với giả dược đánh giá một sản phẩm chống sần vỏ cam kết hợp retinol, caffeine, Asiatic centella, L-carnitine, esculoside (để cải thiện vi tuần hoàn tại chỗ) và ruscogenine (ức chế hoạt động của elastase). Sản phẩm kết hợp có hiệu quả hơn giả dược trong việc giảm sự biểu hiện của sần vỏ cam.

Một nghiên cứu ngẫu nhiên mù đôi có đối chứng với giả dược của Rao và Gold man đã đánh giá hiệu quả của một loại kem chống sần vỏ cam kết hợp có chứa caffeine, chiết xuất trà xanh, chiết xuất hạt tiêu đen, chiết xuất cam quýt, chiết xuất rễ gừng, chiết xuất vỏ quế và ớt chuông có hay không có báng bịt (N = 17). Có một sự cải thiện lâm sàng tổng thể về sần vỏ cam qua đánh giá bằng hình ảnh ở 65% chân được điều trị có băng bịt và 59% ở chân được điều trị không băng bịt. Một nghiên cứu đa trung tâm, ngẫu nhiên, có đối chứng với giả dược của Rao và cộng sự đã thử nghiệm cùng một loại kem chống sần vỏ cam kết hợp kèm báng bịt và cho thấy sự cải thiện lâm sàng trên ảnh chụp ở 68% đối tượng.

Mặt khác, một nghiên cứu của Lis-Balchin cho thấy hiệu quả không tốt ở sản phẩm kết hợp Cellasene, có chứa ginkgo biloba, cỏ ba lá ngọt, rong biển, dầu hạt nho, lecithin và dầu hoa anh thảo trong một nghiên cứu lâm sàng có kiểm soát giả dược. Có sự gia tăng sần vỏ cam, có thể là do tăng cân ở cả hai nhóm.

Tác dụng phụ

Nhiều sản phẩm dược mỹ phẩm được sử dụng để điều trị cellulite có thể gây ra phản ứng dị ứng và viêm da tiếp xúc. Sainio và cộng sự đã khảo sát 32 sản phẩm chống sần vỏ cam, chủ yếu là thực vật và chất làm mềm da, mỗi sản phẩm chứa trung bình 22 thành phần, kết quả rằng 25% các chất đã được chứng minh là gây dị ứng.

Kết luận

Nhiều sản phẩm dược mỹ phẩm dành để điều trị tình trạng sần vỏ cam có sẵn trên thị trường. Có thể nhận thấy sán vỏ cam liên quan trực tiếp đến cấu trúc dưới da, nên dược mỹ phẩm có thể được sử dụng cho những bệnh nhân có biểu hiện sần vỏ cam nhẹ giống như một phương thức điều trị hỗ trợ cho các phương pháp điều trị khác.

Xem thêm Dược mỹ phẩm làm sáng da: tác nhân và thành phần làm sáng da

Trả lời (Quy định duyệt bình luận)

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

The maximum upload file size: 1 MB. Bạn chỉ được tải lên hình ảnh định dạng: .jpg, .png, .gif Drop file here