Nhà thuốc Ngọc Anh – Để tải bài viết Nhiễm khuẩn Vibrio không phải dịch tả: Nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị theo BMJ file PDF xin vui lòng click vào link ở đây.
Tóm tắt
◊ Nhiễm khuẩn do vi khuẩn Vibrio gây ra, chứ không phải vi khuẩn V cholerae.
◊ Liên quan đến việc ăn các loại động vật có vỏ sống hoặc chưa nấu chín, hoặc tiếp xúc tổn thương với nước biển hoặc nước lợ, và các triệu chứng thường gặp là tiêu chảy và nôn mửa, nhiễm khuẩn huyết và/hoặc nhiễm khuẩn da/mô mềm.
◊ Vi khuẩn V vulnificus là vi khuẩn nguy hiểm nhất và có thể nhanh chóng gây ra sốc nhiễm khuẩn gây tử vong ở bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch hoặc những người bị bệnh gan tiềm ẩn.
◊ Việc chẩn đoán được dựa trên nuôi cấy máu, vết thương và/hoặc phân.
◊ Điều trị bao gồm ceftazidime tĩnh mạch cộng với doxycycline cho những người bị nhiễm khuẩn huyết hoặc nhiễm khuẩn toàn thân nặng. Bệnh nhân bị nhiễm khuẩn da/mô mềm hoại tử cần tiến hành thêm quá trình mở ổ các mô nhiễm khuẩn tích tụ sớm. Nhiễm khuẩn vết thương da/mô mềm cục bộ được điều trị bằng việc uống thuốc kháng sinh và theo dõi chặt chẽ.
◊ Hội chứng viêm dạ dày ruột được điều trị bằng bù nước. Bệnh nhân được chỉ định uống thuốc kháng sinh nếu tiêu chảy kéo dài >5 ngày.
◊ Tiên lượng bệnh khác nhau tùy theo tình trạng đồng nhiễm tiềm ẩn của vật chủ và biểu hiện lâm sàng của nhiễm khuẩn.
Thông tin cơ bản
Định nghĩa
Nhiễm khuẩn Vibrio không phải là dịch tả là các bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn Vibrio khác vi khuẩn V cholerae gây ra. Nhiễm khuẩn Vibrio thường liên quan đến việc ăn phải động vật có vỏ sống hoặc chưa chín, hoặc tiếp xúc với nước biển hoặc nước lợ. Các triệu chứng thường gặp là tiêu chảy và nôn mửa, nhiễm khuẩn huyết và/hoặc nhiễm khuẩn da/mô mềm.
Dịch tễ học
Dịch tễ học khác nhau tùy theo các quốc gia. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc mới đang gia tăng tại các nước đang phát triển do hệ thống thoát nước kém và chất lượng nước kém.[6] Đại dịch Vibrio parahaemolyticus được phát hiện lần đầu tiên bên ngoài châu Á vào năm 1997.[7]
Thái Lan
- Nhiễm khuẩn V parahaemolyticus phổ biến ở miền nam Thái Lan. Tại tỉnh Songkhla, bệnh viện công chính là Bệnh viện Hat Yai có 865 ca bệnh từ năm 2000 đến năm 2005.[8]
Canada
- Vi khuẩn V parahaemolyticus, V fluvialis, V vulnificus và V alginolyticus đã được phân lập từ động vật có vỏ dọc theo bờ biển British Columbia.[9]
- Giữa năm 2001 và 2006, vi khuẩn V parahaemolyticus là loài vi khuẩn Vibrio được báo cáo phổ biến nhất ở British Columbia. Nó có tỷ lệ mắc mới là 0,5/100.000.[9] Vào tháng 9 năm 2015, Cơ quan Y tế Công Canada đã báo cáo sự bùng phát của 81 ca bệnh đường tiêu hóa do vi khuẩn V parahaemolyticus gây ra. Nguyên nhân liên quan đến việc ăn hàu sống bắt từ vùng biển ngoài khơi bờ biển British Columbia và xảy ra từ tháng 5 đến tháng 8 năm 2015.[10]
New Caledonia
- Vi khuẩn V nigripulchritudo trong tôm bị bệnh hoặc khỏe mạnh (và từ môi trường nuôi tôm) ở New Caledonia đã được nghiên cứu.[11]
Nhật Bản
- Có bằng chứng của 94 ca bệnh do vi khuẩn V vulnificus gây ra ở miền tây Nhật Bản từ năm 1999 đến năm 2003.[12]
- Hơn 50% các trường hợp này xảy ra tại khu vực Kyushu, chủ yếu ở các khu vực ven biển của biển Ariake và Yatsushiro, nơi có nhiều vùng chịu ảnh hưởng nước triều; nhiễm khuẩn thường xảy ra giữa tháng 6 và tháng 11, nhưng không xảy ra trong những tháng mùa đông.[12]
Chile
- Vi khuẩn V parahaemolyticus là một bệnh truyền nhiễm mới nổi ở miền nam Chile.[7]
- Từ năm 2004 đến năm 2007, đã có khoảng 7000 ca bệnh tại vùng Puerto Montt, nhưng sự xuất hiện của các đợt bùng phát đã và đang giảm dần.[13]
Hoa Kỳ
- Nhiễm khuẩn Vibrio không phải là dịch tả tương đối hiếm gặp tại Hoa Kỳ, với chỉ 1172 ca bệnh được báo cáo cho Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống Dịch bệnh (CDC) vào năm 2014.[14]
- Trong số 10 loài vi khuẩn Vibrio không phải là dịch tả liên quan đến bệnh ở người, 77% ca bệnh được báo cáo qua Hệ thống Giám sát Bệnh do Dịch tả và Vi khuẩn Vibrio Khác (COVIS) do 1 trong 3 vi khuẩn: V vulnificus (10%), V parahaemolyticus (48%) ) hoặc V alginolyticus (19%) gây ra. Các nguyên nhân lây nhiễm khác ít phổ biến hơn, chiếm khoảng 9% ca bệnh ở người, là Photobacterium damselae (trước đây là V damselae), V fluvialis, Grimontia hollisae (trước đây là v hollisae) và V mimicus.[14]
- Từ dữ liệu giám sát của CDC năm 2009, 66% chủng khuẩn V vulnificus phân lập là từ máu; 81% chủng V parahaemolyticus phân lập từ phân; và 55% chủng V vulnificusca từ vết thương. Các ca nhiễm khuẩn do vi khuẩn V vulnificus gây ra có liên quan đến 32% tỷ lệ tử vong.[15]
Bệnh căn học
Các loài vi khuẩn Vibrio thường sinh sống tự nhiên ở đại dương và các vùng nước lợ. Chúng có mặt trong mô của động vật có vỏ, bao gồm hàu, trai, sò, tôm và cua. Mười loài vi khuẩn Vibrio, trong số >140 được xác định, có liên quan đến bệnh ở người. Trong số đó, vi khuẩn V vulnificus, V parahaemolyticus và V alginolyticus góp phần gây ra hầu hết các bệnh nhiễm khuẩn ở người. Vi khuẩn V vulnificus là vi khuẩn nguy hiểm nhất trong nhóm này.[16] [17]
Nhiễm khuẩn do vi khuẩn vibrio không phải là dịch tả từ biển/cửa sông do tiếp xúc với nước lợ hoặc nước biển với vết thương hở trên da hiện có hoặc vết thương thâm nhập, hoặc qua việc ăn phải các loại động vật có vỏ sống hoặc chưa chín. Nguy cơ nhiễm khuẩn và tỷ lệ tử vong cao nhất ở những bệnh nhân bị xơ gan tiềm ẩn do uống rượu, viêm gan B hoặc viêm gan C mạn tính, bệnh thừa sắt, tiểu đường, hoặc bệnh ác tính, những người đang điều trị bằng corticosteroid, hoặc những người bị suy giảm miễn dịch. Ở những bệnh nhân bị rối loạn gan hoặc rối loạn lưu trữ sắt (ví dụ: xơ gan, bệnh thừa sắt) hoặc ở những người bị suy giảm miễn dịch, V vulnificus, hoặc thông qua việc ăn uống hoặc nhiễm qua vết thương, có thể gây sốc nhiễm khuẩn nặng gây tử vong có hoặc không kèm theo nhiễm khuẩn mô mềm hoại tử.[1] [2] [3]
Vi khuẩn V parahaemolyticus thường có liên quan đến bệnh viêm dạ dày ruột do hải sản gây ra, tự giới hạn ở một vật chủ bình thường khỏe mạnh. Nó có liên quan đến các ca bệnh hiếm gặp về nhiễm khuẩn huyết và tử vong.
Vi khuẩn V alginolyticus thường ít gây ra bệnh dạ dày-ruột và thường liên quan đến các bệnh ở bề mặt tai hoặc mắt trên những người trẻ tuổi khỏe mạnh hay bơi lội hoặc lướt sóng biển.[5] [18] Nó cũng gây nhiễm khuẩn mô mềm trong các vết thương chấn thương bị nhiễm nước biển.[19] [20] [21] [22][Fig-1]
Sinh lý bệnh học
Độc lực của vi khuẩn V vulnificus có liên quan đến nhiều yếu tố. Sinh vật này có thể sản sinh ra siderophore cho phép nhận sắt từ transferrin và hemoglobin của vật chủ. Nó tạo ra haemolysin dung giải hồng cầu động vật có vú và là độc tế bào cho mô, metalloprotease có tác động xúc tác cho quá trình tiêu mô đàn hồi và tiêu collagen, và polysaccharide dạng nang có thể kích hoạt hệ thống cytokine của vật chủ.[23] [24] Các nghiên cứu trong in vitro ở chuột cho thấy sản phẩm chuyển hóa V vulnificus, cyclo (L-phenylalanyl-Lproline) hoặc cFP, có thể tác động như một yếu tố độc lực bằng cách ức chế con đường tín hiệu xuôi dòng đại thực bào Toll receptor của yếu tố hạt nhân kappa B (NF-kappa B). Điều này sẽ làm giảm việc tạo ra các cytokine viêm như là một phần của phản ứng miễn dịch bẩm sinh đối với nhiễm khuẩn.[25]V vulnificus cũng tạo ra một cytotoxin mạnh, độc tố RTX A1 hay RtxA1, là một yếu tố độc lực đáng kể.[26]
Các yếu tố độc lực của vi khuẩn V parahaemolyticus bao gồm một haemolysin trực tiếp chịu nhiệt (TDH) và hai injectosome của hệ bài tiết loại 3 (T3SS). TDH có thể hoạt động như một porin trong màng tế bào ruột, cho phép dòng ion và tế bào chết. T3SS cho phép các protein vi khuẩn xâm nhập trực tiếp vào các tế bào của vật chủ.tiêm[3] Sinh vật có các phân tử bám dính màng tế bào vật chủ tạo điều kiện tiếp xúc cần thiết cho chức năng T3SS và sự thâm nhập tế bào. Nó cũng có một hệ thống đại thực bào chứa sắt để giữ lại và phân phối sắt.[27] [28] Các nghiên cứu trong in vitro về các tế bào nuôi cấy mô đã chứng minh rằng các vi khuẩn nội bào có thể thoát ra trước khi hình thành endolysosome và nhân lên thành công trong dung dịch bào tương của tế bào.[29]
Phân loại
Phân loại và mô tả vi khuẩn vibrio[1]
Chi Vibrio thuộc họ Vibrionaceae có đặc trưng là các vi khuẩn di động, gram âm, có hình dạng cong hoặc hình dấu phẩy:
- Về mặt hình thái, chúng là các sinh vật lên men glucose, oxidase dương tính, và sự tăng trưởng của chúng được kích thích hoặc phụ thuộc vào sự hiện diện của ion Na+.
- Các vi khuẩn vibrios không phải là dịch tả được phân biệt với vi khuẩn V cholerae bằng việc vi khuẩn V cholerae có khả năng phát triển mà không cần Na+, và bằng các phản ứng sinh hóa và huyết thanh bao gồm ngưng kết trong kháng huyết thanh O1 hoặc O139.
- Các vi khuẩn vibrio không phải dịch tả (vi khuẩn ưa mặn) được phân biệt thêm bởi sự cần phải có Na+ để phát triển và các đặc tính sinh hóa của chúng, bao gồm quá trình lên men sucrose và lactose và sử dụng lysine hoặc ornithine làm chất chuyển hóa.
Phân tích di truyền của một loạt các môi trường biển có các chủng vi khuẩn Vibrio cho thấy có thể có > 192 loài riêng biệt. Việc phân loại cho chi này đang được tổ chức lại.[2] [3]
Phòng ngừa
Ngăn ngừa sơ cấp
Biện pháp phòng ngừa bao gồm việc chỉ ăn các loại động vật có vỏ đã được nấu chín và những người bị rối loạn chức năng gan tiềm ẩn hoặc miễn dịch cần tránh ăn tất cả các động vật có vỏ. Những bệnh nhân có nguy cơ cao nên đeo găng tay bảo vệ nếu thu hoạch hoặc chế biến hàu. Vi khuẩn V vulnificus chết khi bị đông đá, đun sôi hoặc thanh trùng. FDA đã đề xuất và thực hiện một số quy định trong quá trình chế biến hàu thương mại nhằm loại bỏ vi khuẩn V vulnificus.[35] Một quy định của California hạn chế việc bán hàu bắt từ Vịnh Mexico vào mùa hè, trừ khi chúng đã được chế biến để làm giảm lượng vi khuẩn V vulnificus đến mức không thể phát hiện, đã làm giảm đáng kể số lượng bệnh liên quan đến vi khuẩn V vulnificus và tỷ lệ tử vong ở tiểu bang đó.[36] Những bệnh nhân có nguy cơ cao cũng nên tránh tiếp xúc với nước lợ hoặc nước biển nếu có các vết thương vùng da hở và nên đi giày bảo vệ chân khi ở trên bãi biển và khi lội nước.
[FDA: Vibrio vulnificus Health Education Kit]Ngăn ngừa thứ cấp
Việc đã có giai đoạn nhiễm khuẩn Vibrio nặng không tạo ra miễn dịch đối với các nhiễm trùng Vibrio sau đó. Bệnh nhân có nguy cơ (ví dụ: bị các rối loạn về gan hoặc ức chế miễn dịch tiềm ẩn) cần tránh các hoạt động nguy hiểm như ăn hoặc chế biến động vật có vỏ sống hoặc chưa nấu chín và tiếp xúc với nước biển và nước cửa sông.
Tại Hoa Kỳ, tất cả các ca bệnh nhiễm vi khuẩn Vibrio phải được báo cáo. [CDC: National Notifiable Infectious Diseases Surveillance System: Vibriosis]
Chẩn đoán
Tiền sử ca bệnh
Tiền sử ca bệnh #1
Một người đàn ông 76 tuổi có tiền sử bệnh bạch cầu nguyên bào tủy mạn bị ngạnh của con cá trê đâm vào tay khi đi câu. Trong vòng 6 giờ, cánh tay của ông nhức nhối, đau đớn và nổi ban đỏ. 12 giờ sau khi bị thương, ông được khám tại phòng cấp cứu địa phương. Cánh tay của ông có bọng nước giống màu tính và sưng. Ông có vẻ lú lẫn và bị hạ huyết áp.
Tiền sử ca bệnh #2
Một doanh nhân 56 tuổi phải rời khỏi một hội nghị kinh doanh sớm vì bị sốt, đau bụng và tiêu chảy có chút máu và chất nhầy. Ông không bị đồng nhiễm bệnh nào khác. Điểm đáng chú ý là hội nghị có tổ chức tiệc buffet hải sản trước đó 48 giờ.
Các bài trình bày khác
Vi khuẩn Vibrio không phải dịch tả đã được ghi nhận là nguyên nhân gây ra bệnh viêm kết mạc, viêm giác mạc hoặc viêm nội nhãn sau khi bị chấn thương ở mắt do mảnh vỏ, nhiễm nước biển bẩn hoặc thâm nhập qua các vết thương ở mắt.[4]Vi khuẩn Vibrio alginolyticus có thể là nguyên nhân gây viêm tai giữa ở những người bơi lội và lướt sóng.[5]
Cách tiếp cận chẩn đoán từng bước
Nghi ngờ lâm sàng và chẩn đoán hội chứng Vibrio phụ thuộc vào tiền sử chế biến hoặc làm sạch động vật có vỏ, ăn động vật có vỏ, hoặc tiếp xúc với nước lợ/nước biển, đặc biệt là khi kết hợp với vật chủ có tình trạng đồng mắc tiềm ẩn (ví dụ: suy giảm miễn dịch, mắc bệnh gan tiềm ẩn).
Nhiễm trùng Vibrio có thể có biểu hiện như sau:
- Nhiễm khuẩn huyết hoặc nhiễm trùng toàn thân nặng liên quan đến việc ăn phải động vật có vỏ có hoặc không có viêm mô tế bào hoại tử di căn hoặc hoại tử đối xứng ngoại biên
- Vết thương do tiêm cục bộ với nhiễm trùng da/mô mềm cục bộ có hoặc không có nhiễm khuẩn huyết hoặc nhiễm trùng toàn thân nặng
- Hội chứng viêm dạ dày ruột
- Nhiễm khuẩn xâm nhập bề ngoài (như viêm kết mạc, viêm tai ngoài).
Nhiễm khuẩn huyết được định nghĩa là rối loạn chức năng nội tạng đe dọa đến tính mạng do một phản ứng không được điều tiết của vật chủ với tình trạng nhiễm khuẩn. Sốc nhiễm khuẩn được định nghĩa là một tập nhỏ của nhiễm khuẩn huyết với rối loạn chức năng tuần hoàn và tế bào hoặc trao đổi chất liên quan đến nguy cơ tỷ lệ tử vong cao.[37]
Nhiễm khuẩn huyết hoặc nhiễm khuẩn toàn thân nặng liên quan đến ăn phải động vật có vỏ
Nhiễm khuẩn V vulnificus hoặc V parahaemolyticus mắc phải do ăn các loại động vật có vỏ sống hoặc chưa nấu chín có thể nhanh chóng gây ra sốc nhiễm khuẩn gây tử vong ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch hoặc những người mắc bệnh gan tiềm ẩn. Trong vòng vài giờ đến vài ngày sau khi ăn động vật có vỏ, bệnh nhân có thể phát triển nhiễm khuẩn huyết với đông máu nội mạch lan tỏa (DIC), và nhiễm khuẩn mô mềm hoại tử di căn của chi dưới.
Nếu không có tổn thương da, phải xem xét các nguyên nhân khác dẫn đến nhiễm khuẩn huyết (có nhiều nguyên nhân). Sẽ phát sinh mức độ nghi ngờ cao nếu có tiểu sử rối loạn chức năng gan hoặc suy giảm miễn dịch, và hấp thụ động vật có vỏ gần đây hoặc tiếp xúc với nước biển.
Có thể có các dấu hiệu lâm sàng của nhiễm khuẩn huyết (ví dụ: sốt, nhịp tim nhanh, thở nhanh) và bệnh nhân có thể cảm thấy sợ hãi. Nhiễm khuẩn huyết nặng biểu hiện bằng việc có bằng chứng trong phòng thí nghiệm về chứng rối loạn chức năng của cơ quan, và sự lú lẫn của bệnh nhân và có thể gây ra sự tắc nghẽn. Trong sốc nhiễm khuẩn, bệnh nhân bị hạ huyết áp và phản ứng kém với test truyền dịch.
Các xét nghiệm cần được thực hiện bao gồm:
- Công thức máu có đếm thành phần bạch cầu và số lượng tiểu cầu: số lượng bạch cầu có thể cho biết sự giảm bạch cầu trung tính và số lượng tiểu cầu có thể giảm.
- Bảng chuyển hóa cơ bản: nồng độ bicarbonate có thể giảm cho thấy sự nhiễm toan chuyển hóa. Creatinine có thể tăng cao cho thấy sự rối loạn chức năng thận
- Chẩn đoán được xác nhận bằng việc nuôi cấy máu: phải tiến hành nuôi cấy máu trước khi bắt đầu điều trị bằng thuốc kháng sinh.[37]
Nhiễm khuẩn da/mô mềm cục bộ liên quan đến vết thương xâm nhập cục bộ
Nhiễm khuẩn liên quan đến kết quả xâm nhập qua da từ nước lợ hoặc nước biển làm nhiễm trùng vết thương hở hoặc do bị thương tích đâm xuyên. Vết thương có thể phát triển từ vài giờ đến vài ngày từ viêm mô tế bào cục bộ thành da nhiễm khuẩn da và mô mềm hoại tử và có thể kèm theo vãng khuẩn huyết và nhiễm khuẩn huyết ở vật chủ nhạy cảm (ví dụ: suy giảm miễn dịch, mắc bệnh gan tiềm ẩn).[23]
Cần nghi chẩn đoán dựa trên tiền sử dịch tễ của việc tiếp xúc với động vật có vỏ và/hoặc tiếp xúc với nước lợ/nước biển từ vết thương hở hiện có hoặc có vết thương đâm xuyên liên quan đến biển.
Các dấu hiệu lâm sàng có thể khác nhau tùy thuộc vào mức độ liên quan của mô mềm, sự xuất hiện của vãng khuẩn huyết và phản ứng toàn thân của vật chủ với sự nhiễm khuẩn.
Các xét nghiệm cần được thực hiện bao gồm:
- Công thức máu có đếm thành phần bạch cầu và số lượng tiểu cầu: Số lượng bạch cầu có thể tăng cao, bình thường hoặc giảm. Tiểu cầu có thể bình thường hoặc giảm
- Bảng chuyển hóa cơ bản: nồng độ bicarbonate có thể giảm cho thấy sự nhiễm toan chuyển hóa. Creatinine có thể tăng cao cho thấy sự rối loạn chức năng thận
- Tác nhân gây bệnh có thể được xác định bằng việc nuôi cấy máu: phải tiến hành nuôi cấy máu trước khi bắt đầu điều trị bằng thuốc kháng sinh.[37]
- Nhuộm Gram vết thương và nuôi cấy: chất dịch nhầy bọng nước ở da và vùng vết loét cần được lau bằng tăm bông để nhuộm Gram. Một que nhuộm gram âm trong trường hợp bệnh nhân có tình trạng đồng mắc tiếp xúc với động vật có vỏ hoặc nước biển cho thấy nhiễm khuẩn Vibrio.[Fig-2][Fig-1][Fig-3]
Hội chứng viêm dạ dày ruột
Ăn hải sản sống hoặc nấu chưa chín có thể dẫn đến viêm dạ dày ruột được biểu hiện bằng việc đau bụng và tiêu chảy trong vòng 24 giờ. Có thể đi kèm với sốt và dịch tiêu chảy có thể chứa chất nhầy và/hoặc máu. Trong một vật chủ bình thường khỏe mạnh, đây thường là một bệnh tự giới hạn.[17] Nó có thể xảy ra như các triệu chứng đồng thời với nhiễm khuẩn huyết ở vật chủ suy giảm miễn dịch.[5] [23] [30]
Cần xem xét chẩn đoán nghi ngờ từ việc ăn động vật có vỏ gần đây. Vi khuẩn vibrio phát triển tốt nhưng có thể không dễ dàng được xác định từ môi trường nuôi cấy thông thường được sử dụng bởi phòng xét nghiệm lâm sàng đối với các chủng gây bệnh phân lập từ phân.
Các xét nghiệm bao gồm:
- Nuôi cấy phân: với sự nghi ngờ nhiễm khuẩn Vibrio và đặc biệt là vi khuẩn V parahaemolyticus, việc nuôi cấy phân trên môi trường chọn lọc Vibrio (ví dụ: môi trường nuôi cấy thiosulphate-citrate-bile salts-sucrose [TCBS]) cần được xem xét trong trường hợp tiêu chảy.[1] Chẩn đoán phân biệt tiêu chảy liên quan đến thực phẩm bao gồm Salmonella, Shigella, Campylobacter và norovirus, cùng với các mầm bệnh khác[38]
- Urê và điện giải thông thường được chỉ định để đánh giá mức độ mất nước của bệnh nhân và nhiễm toan chuyển hóa do mất điện giải phân
- Bệnh nhân được chỉ định nuôi cấy máu nếu bệnh nhân sốt hoặc bị ngộ độc.
Nhiễm khuẩn tiêm chủng bề mặt
Vi khuẩn Vibrio không phải vi khuẩn dịch tả đã được ghi nhận là gây nhiễm khuẩn tai và mắt, chẳng hạn như viêm tai giữa, viêm kết mạc, viêm giác mạc, hoặc viêm nội nhãn sau khi bị thương do các mảnh vỏ, nhiễm bẩn nước biển hoặc các vết thương thâm nhập.[4] [5]
Các dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm khuẩn tai do vi khuẩn Vibrio không phải vi khuẩn tả gây ra giống các nguyên nhân khác của viêm tai ngoài. Chẩn đoán được đề xuất bằng phân lập vi khuẩn Vibrio từ nuôi cấy ống tai ngoài, và cải thiện lâm sàng kém hoặc chậm với kháng sinh tại chỗ có chứa polymyxin, bacitracin và neomycin. Trong trường hợp nhiễm khuẩn mắt, chẩn đoán được thực hiện bằng phương pháp nhuộm gram, nuôi cấy và xét nghiệm tính nhạy cảm trong in vitro của các chủng từ các bệnh phẩm phù hợp (ví dụ: tăm bông kết mạc, giác mạc, và hút dịch khoang trước hoặc sau đối với tương ứng là viêm kết mạc, viêm giác mạc, hypopyon hoặc endophthalmitis).
Các yếu tố nguy cơ
Thường gặp
Tiếp xúc với nước lợ hoặc nước biển
- Vibrio là một phần tự nhiên của hệ sinh vật nước biển hoặc nước lợ. Mật độ vibrio thay đổi theo mùa với nhiệt độ và độ mặn của nước, với số lượng cao trong điều kiện nhiệt độ nước từ 17°C (62,5 ° F) đến 35°C (95 ° F) và với 5% đến 25% hàm lượng muối. Khi nhiệt độ nước giảm xuống dưới nhiệt độ tái tạo, Vibrio vulnificus tồn tại trong trầm tích biển ở trạng thái sống nhưng không thể nuôi cấy.[23] [30]
- Sự nhiễm bẩn vết thương hở (ví dụ: loét chân, trầy xước, vết bỏng) với nước biển gây ra sự xâm nhập của Vibrio vào mô sâu hơn. Khoảng 30% các ca bệnh nhiễm khuẩn V vulnificus ở người được báo cáo là do các vết thương nhiễm nước biển hoặc các tai nạn liên quan đến biển.[5] [18] [23] [30] [31]
- Vi khuẩn V alginolyticus có liên quan đến các bệnh về tai hoặc mắt bên nông ở những người trẻ tuổi khỏe mạnh hay bơi lội hoặc lướt sóng biển.[5] [18]
Chế biến và/hoặc rửa sạch hải sản
- Các chấn thương xảy ra trong quá trình chế biến hoặc làm sạch động vật có vỏ (ví dụ: tách vỏ hàu) đã được báo cáo là chấn thương nghề nghiệp phổ biến liên quan đến nhiễm trùng Vibrio vulnificus.[5] [23]
Ăn động vật có vỏ sống hoặc chưa chín
- Hai mảnh vỏ dùng để lọc thức ăn là nơi tập trung vi khuẩn vibrio trong các mô của chúng, nơi chúng có khả năng nhân rộng hơn nữa. Sự tập trung vi khuẩn ở hàu có thể cao tới 103 đến 106 vi khuẩn trên mỗi gam mô.[23] Động vật có vỏ được bảo quản ở nhiệt độ từ 4°C (39°F) đến 8°C (46,5°F) nồng độ vi khuẩn Vibrio vulnificus có thể tăng 2 log trong 1 tuần.[32]
- Hai hội chứng Vibrio có liên quan đến việc ăn phải động vật có vỏ sống hoặc chưa nấu chín. Ở những bệnh nhân bị rối loạn chức năng gan hoặc ức chế miễn dịch, V vulnificus và đôi khi là V parahaemolyticus có thể xâm nhập qua hệ thống tĩnh cửa và gây nhiễm khuẩn huyết tiên phát cùng với tổn thương da di căn.[5] [23] [30] Ở vật chủ bình thường khỏe mạnh, vi khuẩn vibrio có thể gây ra hội chứng viêm dạ dày ruột, đôi khi có máu và chất nhầy. Điều này thường có liên quan nhiều nhất đến V parahaemolyticus và có vẻ có liên quan đến khả năng của sinh vật trong việc tạo ra haemolysin có khả năng chịu nhiệt, hoạt động như một độc tố trong ruột.[3] [32]
Bệnh gan tiềm ẩn (xơ gan, viêm gan B hoặc C, bệnh thừa sắt)
- Những bệnh nhân này có thể có nồng độ feritin tuần hoàn cao hơn cung cấp một nguồn nhân tố tăng trưởng sắt cho vi khuẩn vibrio.[33]
Đang sử dụng corticosteroid hoặc sự ức chế miễn dịch khác (HIV, hóa trị liệu, ghép tạng đặc)
- Trên mô hình chuột đối với vi khuẩn Vibrio vulnificus, việc sử dụng cyclophosphamide hoặc d-galactosamine là cần thiết để động vật dễ bị nhiễm khuẩn qua đường uống.[34]
Các yếu tố về tiền sử và thăm khám
Các yếu tố chẩn đoán chủ yếu
Có các yếu tố nguy cơ (thường gặp)
- Các yếu tố nguy cơ chính bao gồm tiếp xúc với nước lợ hoặc nước biển, chế biến và/hoặc làm sạch hải sản, ăn các loại động vật có vỏ sống hoặc nấu chưa chín, bệnh gan tiềm ẩn (xơ gan, viêm gan B hoặc C, bệnh thừa sắt) và đang sử dụng corticosteroid hoặc sự ức chế miễn dịch khác (HIV, hóa trị, ghép tạng đặc).
Đau chân (thường gặp)
- Có thể có tới 50% bệnh nhân bị nhiễm khuẩn Vibrio vulnificus và trước sự tiến hóa của viêm mô tế bào hoại tử đến 24 giờ.[5] [23]
Viêm mô tế bào (thường gặp)
- Viêm mô tế bào nhẹ do vết thương xâm nhập cục bộ.
- Viêm mô tế bào hoại tử hai chi dưới có bọng nước cho thấy nhiễm khuẩn Vibrio vulnificus.[5] [23]
Tiêu chảy (thường gặp)
- Không đặc hiệu. Có thể xảy ra như một hội chứng viêm dạ dày ruột trong vật chủ bình thường, hoặc như các triệu chứng đồng thời với nhiễm khuẩn huyết ở một vật chủ suy giảm miễn dịch.[5] [23] [30]
Co thắt vùng bụng (thường gặp)
- Rất có thể có các hội chứng viêm dạ dày ruột, mặc dù cũng có thể xảy ra trong quá trình nhiễm khuẩn huyết.
Đau tai (thường gặp)
- Vi khuẩn Vibrio alginolyticus có thể là nguyên nhân gây viêm tai giữa ở những người bơi lội và lướt sóng.[5]
- Triệu chứng điển hình là viêm tai ngoài, nhưng không đặc hiệu.
Đau mắt, tấy đỏ (thường gặp)
- Vi khuẩn Vibrio không phải dịch tả đã được ghi nhận là nguyên nhân gây ra bệnh viêm kết mạc, viêm giác mạc hoặc viêm nội nhãn sau khi bị chấn thương ở mắt do mảnh vỏ, nhiễm nước biển bẩn hoặc thâm nhập qua các vết thương ở mắt.[4]
- Triệu chứng điển hình là nhiễm trùng mắt, nhưng không đặc hiệu.
Các yếu tố chẩn đoán khác
Sốt (thường gặp)
- Phát hiện không đặc hiệu liên quan đến vãng khuẩn huyết và/hoặc viêm mô tế bào.
Trạng thái tâm thần thay đổi (thường gặp)
- Có thể xảy ra tình trạng lú lẫn và có liên quan đến nhiễm khuẩn huyết, nhưng không đặc hiệu đối với nhiễm khuẩn Vibrio.
Buồn nôn (thường gặp)
- Không đặc hiệu. Có thể xảy ra như một hội chứng viêm dạ dày ruột trong vật chủ bình thường, hoặc như các triệu chứng đồng thời với nhiễm khuẩn huyết ở một vật chủ suy giảm miễn dịch.[5] [23] [30]
Nôn (thường gặp)
- Không đặc hiệu. Có thể xảy ra như một hội chứng viêm dạ dày ruột trong vật chủ bình thường, hoặc như các triệu chứng đồng thời với nhiễm khuẩn huyết ở một vật chủ suy giảm miễn dịch.[5] [23] [30]
Hạ huyết áp (thường gặp)
- Sốc nhiễm khuẩn có thể xuất hiện trong lần đánh giá đầu tiên ở tới 70% bệnh nhân nhiễm vi khuẩn Vibrio vulnificus và có tỷ lệ tử vong lên đến 75%.[5] [23] [39]
Xét nghiệm chẩn đoán
Xét nghiệm thứ nhất cần yêu cầu
Xét nghiệm | Kết quả |
Công thức máu
• Một phần của đánh giá ban đầu về bệnh nhân nhiễm khuẩn. • Khuyến cáo truyền máu RBC đóng gói nếu Hb <70 g / L (7,0 g/dL).[37] |
Có thể cho thấy giảm bạch cầu trung tính, tăng bạch cầu, thiếu máu |
Số lượng tiểu cầu
• Một phần của đánh giá ban đầu về bệnh nhân nhiễm khuẩn. • Khuyến cáo truyền tiểu cầu khi số lượng <10 x 10A9/L (<10 x 10A3/microlit) khi không có chảy máu và <20 x 10A9/L (<20 x 10A3/microlit) khi có chảy máu đáng kể,[37] hoặc nếu được chỉ định tiến hành cầm máu liên quan đến thủ thuật hoặc phẫu thuật. |
Có thể bị giảm |
Bảng chuyển hóa cơ bản
• Mức creatinine, albumin và xét nghiệm chức năng gan bất thường là dấu hiệu cho chứng rối loạn chức năng cơ quan xảy ra trong quá trình nhiễm khuẩn huyết. • Creatinine huyết thanh giúp hướng dẫn việc sử dụng các tác nhân dược lý đòi hỏi phải điều chỉnh liều phù hợp với chức năng thận. • Chất điện giải giúp đánh giá mức độ mất nước và sự hiện diện của nhiễm toan chuyển hóa. |
Bicarbonate có thể giảm, creatinine có thể tăng lên |
Cấy máu
• Xét nghiệm xác nhận nhiễm khuẩn huyết mà không có tổn thương da. • Có thể giúp xác định sinh vật trong viêm mô tế bào hoại tử chi dưới có/không có nhiễm khuẩn huyết. • Ở những bệnh nhân bị hội chứng viêm dạ dày ruột được chỉ định nếu bệnh nhân bị sốt hoặc bị nhiễm độc. • Nên lấy mẫu nuôi cấy máu trước khi bắt đầu điều trị bằng thuốc kháng sinh.[37] |
Dương tính đối với trực khuẩn gram âm |
Nhuộm Gram đối mẫu tăm bông lau vết thương
• Dịch nhầy bọng nước và vết loét trên da phải được lấy bằng tăm bông để nhuộm Gram. kết quả nhuộm âm tính không hữu ích. Một que nhuộm gram âm trong trường hợp bệnh nhân bị đồng mắc và tiếp xúc với động vật có vỏ hoặc nước biển cho biết khả năng nhiễm khuẩn Vibrio. |
Trực khuẩn gram âm |
Nuôi cấy tăm bông lau vết thương
• Dịch bọng nước và vết loét phải được nuôi cấy thường xuyên. Lý tưởng nhất, bệnh phẩm cần được tiêm trực tiếp lên môi trường vi khuẩn. Nếu cần vận chuyển bệnh phẩm, hãy liên hệ với phòng thí nghiệm để biết phương tiện vận chuyển hỗ trợ Vibrio. Một số ống vận chuyển có chứa muối glycerol đệm có thể độc hại đối với vi khuẩn vibrio.[32] |
Các loài vi khuẩn Vibrio được phân tách |
Cấy phân
• Cần chỉ định khi bệnh nhân có các triệu chứng tiêu chảy. Đối với nhiễm khuẩn Vibrio khả nghi sau khi tiếp xúc với động vật có vỏ, hãy liên hệ với phòng thí nghiệm để đưa vào chất làm đông aga thiosulphate-citrate-bile salts-sucrose (TCBS) như một môi trường nuôi cấy chọn lọc cho vi khuẩn vibrio.[1] [32] |
Các loài vi khuẩn Vibrio được phân tách |
Tăm bông tai để nuôi cấy
• Cần được thực hiện cho những bệnh nhân viêm tai ngoài không đáp ứng với điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm thông thường có tiền sử phơi nhiễm nước lợ hoặc nước biển. |
Các loài vi khuẩn Vibrio được phân tách |
Tăm bông kết mạc, nạo giác mạc, hoặc dịch hút khoang để nuôi cấy
• Ở những bệnh nhân nghi ngờ nhiễm khuẩn Vibrio mắt, chẩn đoán được thực hiện bằng phương pháp nhuộm gram, nuôi cấy và xét nghiệm tính nhạy cảm trong in vitro của các mẫu phân tách từ các bệnh phẩm phù hợp (ví dụ: gạc tăm bông kết mạc, nạo giác mạc, hút dịch khoang trước hoặc sau cho tương ứng là viêm kết mạc, viêm giác mạc, hypopyon hoặc endophthalmitis). |
Các loài vi khuẩn Vibrio được phân tách |
Chẩn đoán khác biệt
Tình trạng | Các dấu hiệu/triệu chứng khác biệt | Các xét nghiệm khác biệt |
Nhiễm khuẩn huyết | • Có thể do nhiều tác nhân gây bệnh khác nhau gây ra. Không có triệu chứng thực thể và triệu chứng cơ năng phân biệt. | • Nuôi cấy máu có thể cung cấp tác nhân gây bệnh. Kiểm tra dấu hiệu/triệu chứng khác (như chụp CT vùng bụng) có thể cho biết nguồn nhiễm khuẩn huyết. |
Hoại thư | • Có thể do nhiễm khuẩn hoặc chứng thiếu máu cục bộ gây ra. Không có triệu chứng thực thể và triệu chứng cơ năng phân biệt. | • Nuôi cấy máu có thể cho biết tác nhân gây bệnh. |
Tiêu chảy nhiễm trùng | • Chẩn đoán phân biệt rộng rãi vì có nhiều loại vi khuẩn, ký sinh trùng và vi-rút gây tiêu chảy. Không có dấu hiệu và triệu chứng để phân biệt. | • Có các tác nhân truyền nhiễm cụ thể trong phân hoặc xét nghiệm huyết thanh. |
Điều trị
Cách tiếp cận điều trị từng bước
Điều trị bao gồm cephalosporin thế hệ thứ ba (ví dụ: ceftazidime hoặc ceftriaxone tiêm tĩnh mạch) cộng với doxycycline hoặc minocycline cho những người bị nhiễm khuẩn huyết hoặc nhiễm khuẩn toàn thân nặng do vi khuẩn vibrio không phải là dịch tả. Nhiễm khuẩn huyết có tỷ lệ tử vong cao và liệu pháp điều trị nhiễm khuẩn Vibrio phải được bao gồm trong liệu pháp kháng sinh thực nghiệm đang chờ xác nhận nuôi cấy máu.[37] Bệnh nhân bị nhiễm khuẩn da/mô mềm hoại tử cần tiến hành thêm quá trình mở ổ các mô bị tổn thương tích tụ sớm. Ở những bệnh nhân viêm cân mạc hoại tử, can thiệp phẫu thuật trong vòng 12 giờ đầu sau khi nhập viện đã được chứng minh là làm giảm đáng kể nguy cơ tử vong.[40] Những bệnh nhân chỉ bị nhiễm khuẩn vết thương da/mô mềm cục bộ có thể được điều trị ngoại trú với thuốc kháng sinh uống. Hội chứng viêm dạ dày ruột được điều trị bằng bù nước. Bệnh nhân được chỉ định uống thuốc kháng sinh nếu tiêu chảy kéo dài >5 ngày.
Nhiễm khuẩn huyết được định nghĩa là rối loạn chức năng nội tạng đe dọa đến tính mạng do một phản ứng không được điều tiết của vật chủ với tình trạng nhiễm khuẩn. Sốc nhiễm khuẩn được định nghĩa là một tập nhỏ của nhiễm khuẩn huyết với rối loạn chức năng tuần hoàn và tế bào hoặc trao đổi chất liên quan đến nguy cơ tỷ lệ tử vong cao.[37]
Nhiễm khuẩn huyết hoặc nhiễm khuẩn toàn thân nặng
Vi khuẩn V vulnificus có thể nhanh chóng gây ra sốc nhiễm khuẩn gây tử vong ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch hoặc những người bị bệnh gan tiềm ẩn. Đó là sinh vật phổ biến nhất liên quan đến bệnh nặng và/hoặc tử vong.[16] [17] Ở những bệnh nhân nghiện rượu hoặc xơ gan, vi khuẩn V parahaemolyticus có thể gây nhiễm khuẩn huyết với tỷ lệ tử vong là 29%.[41]
Những bệnh nhân bị nhiễm khuẩn huyết cần được điều trị trong một môi trường chăm sóc đặc biệt. Khả năng sống sót tối ưu của bệnh nhân phụ thuộc vào hồi sức sớm hướng đến mục tiêu và tổ chức điều trị sớm bằng thuốc kháng sinh phổ rộng, bao gồm cephalosporin thế hệ thứ ba và tetracycline.[37] [39] Một nghiên cứu hồi cứu cho thấy rằng ở những bệnh nhân được can thiệp bằng phẫu thuật kịp thời, ceftazadime cộng với minocycline, hoặc một quinolone đơn độc, dẫn đến tỷ lệ sống sót cao hơn so với chỉ một mình ceftazadime.[42] Trong in vitro, cefotaxime và minocycline có tác dụng hiệp đồng chống lại vi khuẩn V vulnificus.[43] Các nghiên cứu nhiễm khuẩn huyết cả trong in vitro và in vivo đều cho thấy biện pháp đơn trị liệu bằng quinolone (ví dụ: moxifloxacin, ciprofloxacin) mang lại lợi ích về tỷ lệ sống sót tương đương với cefotaxim cộng với minocycline.[44] Các nghiên cứu về thời gian diệt đối với riêng cefotaxim, riêng minocycline, riêng ciprofloxacin, cefotaxime cộng với minocycline và cefotaxime cộng với ciprofloxacin trong ống nghiệm đã chứng minh tính ưu việt của cefotaxime cộng với ciprofloxacin trong việc tiêu diệt V vulnificus. Những kết quả này được tái lập trong một mô hình sống sót của chuột và có thể được giải thích một phần bằng cách chứng minh sự ức chế ciprofloxacin của quá trình sản sinh V vulnificus của cytotoxin rtxA1.[26] Phác đồ tham chiếu kháng khuẩn tiêu chuẩn gợi ý dùng một cephalosporin thế hệ thứ ba (ví dụ: ceftazidime, ceftriaxone) cộng với doxycycline hoặc minocycline làm phác đồ điều trị chính.[45] Quinolone được coi là một lựa chọn phù hợp. Thời gian điều trị cần được điều chỉnh riêng cho từng cá nhân, nhưng dự kiến tối thiểu mất từ 10 đến 14 ngày. Sự khởi phát của sốc nhiễm khuẩn và chậm trễ trong việc bắt đầu điều trị kháng sinh với hoạt động của Vibrio dẫn đến sự gia tăng đáng kể tỷ lệ tử vong.[39] Điều trị kháng sinh cần được đánh giá lại với dữ liệu vi sinh và dữ liệu lâm sàng để thu hẹp phạm vi bao phủ, nếu phù hợp.[37]
Ở những bệnh nhân nhiễm trùng da/mô mềm hoại tử đồng thời, việc điều trị bằng phẫu thuật là điều cần thiết để cải thiện kết quả sống sót và rút ngắn ICU và nằm viện. Điều này được thực hiện thông qua việc mở ổ tích cực sớm các mô bị tổn thương.[40] [46] [47] [48] [49] Trong một nghiên cứu, phẫu thuật tùy cơ ứng biến ban đầu bao gồm rạch, dẫn lưu và rửa các vùng bị nhiễm sử dụng gây tê khu vực với phẫu thuật tích cực 24 giờ sau đó có tỷ lệ tử vong thấp hơn (26%) so với phẫu thuật tích cực ban đầu sử dụng gây mê toàn thân (60%). Điều này được nhóm phẫu thuật tùy cơ ứng biến giải thích có lẽ là do có được sự ổn định về mặt sinh lý trước khi gây mê toàn thân.[50]
Nhiễm khuẩn da/mô mềm cục bộ
Viêm mô tế bào nhẹ do chấn thương nhiễm cục bộ ở vật chủ bình thường khỏe mạnh có thể được điều trị trong môi trường ngoại trú bằng cách uống doxycycline có hoặc không có fluoroquinolone thế hệ mới hơn.
Bệnh nhân có thể chỉ bị nhiễm khuẩn da/mô mềm hoại tử. Bệnh nhân cần được điều trị trong bệnh viện bằng liệu pháp kháng khuẩn tĩnh mạch và hỗ trợ phẫu thuật (như: mở ổ tích cực sớm các mô bị tổn thương). Điều trị kháng sinh bao gồm doxycycline cộng với cephalosporin thế hệ thứ ba. Liệu pháp thay thế bằng quinolone như moxifloxacin hoặc ciprofloxacin có thể có hiệu quả, mặc dù còn thiếu dữ liệu lâm sàng.
Hội chứng viêm dạ dày ruột
V parahaemolyticus thường gây ra bệnh đường tiêu hóa tự giới hạn, kéo dài từ 2 đến 3 ngày. Điều trị chỉ bao gồm bù nước. Điều trị kháng sinh không có vai trò rõ ràng trong các ca bệnh tiêu chảy nhẹ đến trung bình.1[C]Evidence Đối với tiêu chảy nặng kéo dài >5 ngày, nếu không có dữ liệu lâm sàng được công bố, bệnh nhân cần được điều trị bằng một đợt uống doxycycline hoặc uống quinolone trong 3 ngày có thể có hiệu quả.[45]
Nhiễm khuẩn tiêm chủng bề mặt
Không có khuyến cáo chuẩn nào cho việc điều trị viêm tai giữa do V alginolyticus gây ra. Điều trị nên dựa trên tính nhạy cảm kháng khuẩn của phân lập. Dữ liệu liên quan đến việc điều trị nhiễm khuẩn Vibrio mắt được giới hạn trong các báo cáo đáng tin cậy từ xa.[4] Bệnh nhân cần được giới thiệu đến bác sĩ chuyên khoa mắt.
Tổng quan về các chi tiết điều trị
Tham khảo cơ sở dữ liệu dược địa phương của quý vị để biết thông tin toàn diện về thuốc, bao gồm các chống chỉ định, tương tác giữa các loại thuốc, và liều dùng thay thế.
Cấp tính (tóm tắt) | ||
Nhiễm khuẩn huyết hoặc nhiễm khuẩn toàn thân nặng | ||
1 | Liệu pháp kháng sinh đường tĩnh mạch | |
Thêm | Chăm sóc hỗ trợ | |
|
Thêm | Mở ổ tích cực sớm các mô bị tổn thương. |
Chỉ bị nhiễm khuẩn da/mô mềm cục bộ | ||
|
1 | Liệu pháp kháng sinh đường tĩnh mạch |
Thêm | Mở ổ tích cực sớm các mô bị tổn thương. | |
|
1 | Điều trị kháng sinh đường uống |
Viêm dạ dày ruột | ||
1 | Bù nước | |
|
Thêm | Điều trị kháng sinh đường uống |
Nhiễm khuẩn tiêm chủng bề mặt | ||
|
1 | Điều trị kháng sinh theo đích |
|
1 | Giới thiệu đến khám nhãn khoa |
Các lựa chọn điều trị
Cấp tính | ||
Nhiễm khuẩn huyết hoặc nhiễm khuẩn toàn thân nặng | ||
1 | Liệu pháp kháng sinh đường tĩnh mạch | |
Các lựa chọn sơ cấp » Ceftazidime: 2 g đường tĩnh mạch mỗi 8 giờ một lần -hoặc- » ceftriaxone: 2 g tĩnh mạch mỗi 12 giờ –VÀ– » Doxycycline: 100 mg tiêm tĩnh mạch 12 giờ một lần -hoặc- » Minocycline: 100 mg. tiêm tĩnh mạch 12 giờ một lần Các lựa chọn thứ cấp » Moxifloxacin: 400 mg đường tĩnh mạch mỗi 24 giờ một lần HOẶC » Ciprofloxacin: 400 mg đường tĩnh mạch mỗi 8 giờ một lần HOẶC » cefotaxime: 2 g tiêm tĩnh mạch 6 đến 8 giờ một lần -và- » Ciprofloxacin: 400 mg đường tĩnh mạch mỗi 8 giờ một lần » Không có chất kháng sinh nào được chấp thuận cụ thể’ để’ sử dụng trong điều trị nhiễm khuẩn Vibrio, nhưng một tham chiếu liệu pháp kháng khuẩn tiêu chuẩn gợi ý dùng cephalosporin thế hệ thứ ba (ví dụ: ceftazidime, ceftriaxone) cộng với doxycycline hoặc minocycline. [45] » Liệu pháp thay thế bằng quinolone (ví dụ: moxifloxacin, ciprofloxacin) hoặc phối hợp cefotaxime cộng với ciprofloxacin có thể’ có hiệu quả, mặc dù còn thiếu dữ liệu lâm sàng. [26] » Sự khởi phát của sốc nhiễm khuẩn và chậm trễ trong việc bắt đầu điều trị kháng sinh với hoạt động của Vibrio dẫn đến sự gia tăng đáng kể’ tỷ lệ tử vong.[39]» Điều trị kháng sinh cần được đánh giá lại với dữ liệu vi sinh và dữ liệu lâm sàng để thu hẹp phạm vi bao phủ, nếu phù hợp.[37] » Quá trình điều trị: nên được cá nhân hóa, nhưng dự kiến tối thiểu mất từ 10 đến 14 ngày. |
||
Thêm | Chăm sóc hỗ trợ | |
» Những bệnh nhân này không khỏe và cần được điều trị trong trường hợp khẩn cấp hoặc môi trường ICU theo phác đồ của những người có kinh nghiệm.
» Hồi sức sớm có mục tiêu được chỉ định ở những bệnh nhân bị nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn. Ngoài ra, những bệnh nhân bị sốc nhiễm khuẩn cần được điều trị bằng thuốc co mạch.[37] » Viêm dạ dày ruột có thể xảy ra như triệu chứng đồng thời với nhiễm khuẩn huyết trong một vật chủ bị xâm nhập.[5] [23] [30] Bệnh nên được điều trị như một phần của chăm sóc đặc biệt. |
||
|
Thêm | Mở ổ tích cực sớm các mô bị tổn thương. |
» Điều trị bằng phẫu thuật sớm các ca nhiễm trùng da/ mô mềm hoại tử (trong vòng 24 giờ đầu sau khi nhập viện) là điều cần thiết để cải thiện kết quả sống sót và rút ngắn ICU và nằm viện.[40] [46] [47] [48] [49] | ||
Chỉ bị nhiễm khuẩn da/mô mềm cục bộ | ||
|
1 | Liệu pháp kháng sinh đường tĩnh mạch |
» Ceftazidime: 2 g đường tĩnh mạch mỗi 8 giờ một lần
-và- » Doxycycline: 100 mg tiêm tĩnh mạch 12 giờ một lần Các lựa chọn thứ cấp » Moxifloxacin: 400 mg đường tĩnh mạch mỗi 24 giờ một lần HOẶC » Ciprofloxacin: tham khảo ý kiến chuyên gia để có hướng dẫn về liều dùng » Nhiễm khuẩn da/mô mềm hoại tử cần được điều trị trong bệnh viện bằng điều trị kháng khuẩn tĩnh mạch. » Điều trị kháng sinh được khuyến cáo là điều trị bằng doxycycline cộng với cephalosporin thế hệ thứ ba. » Liệu pháp thay thế bằng quinolone (ví dụ: moxifloxacin, ciprofloxacin) có thể có hiệu quả, mặc dù còn thiếu dữ liệu lâm sàng. » Quá trình điều trị: nên được cá nhân hóa, nhưng dự kiến tối thiểu mất từ 10 đến 14 ngày. |
||
Thêm | Mở ổ tích cực sớm các mô bị tổn thương. | |
» Điều trị bằng phẫu thuật tích cực sớm đối với bệnh nhiễm khuẩn da/mô mềm hoại tử là điều cần thiết để cải thiện kết quả của bệnh nhân.[40] | ||
|
1 | Điều trị kháng sinh đường uống |
Các lựa chọn sơ cấp » Doxycycline: 100 mg đường uống mỗi ngày hai lần HOẶC » Doxycycline: 100 mg đường uống mỗi ngày hai lần -VÀ- » levofloxacin: Uống 500-750 mg mỗi ngày một lần -hoặc- » Moxifloxacin: 400 mg đường uống mỗi ngày một lần » Điều trị viêm mô tế bào nhẹ do tổn thương tiêm chủng cục bộ ở một vật chủ bình thường khác có thể’ được điều trị trong môi trường ngoại trú. » Uống doxycycline có hoặc không có fluoroquinolone thế hệ mới hơn (ví dụ: levofloxacin, moxifloxacin) là một chế độ trị liệu được khuyến cáo. » Thời gian điều trị: 10 đến 14 ngày. |
||
Viêm dạ dày ruột | ||
1 | Bù nước | |
» Vibrio thường gây ra bệnh đường tiêu hóa tự giới hạn, kéo dài từ 2 đến 3 ngày. » Trong những trường hợp hiếm gặp, cần phải bù nước, miễn là bệnh nhân có thể dung nạp được các dung dịch uống, có thể thực hiện bù nước bằng cách sử dụng dung dịch bù nước của WHO. » Nếu bệnh nhân không thể dung nạp được dung dịch uống, thì việc bù nước đường với dung dịch Ringer sữa được chỉ định. |
||
|
Thêm | Điều trị kháng sinh đường uống |
Các lựa chọn sơ cấp
» Doxycycline: 100 mg đường uống mỗi ngày hai lần |
||
Nhiễm khuẩn tiêm chủng bề mặt | ||
|
1 | Điều trị kháng sinh theo đích |
» Không có khuyến cáo chuẩn nào cho việc điều trị chứng viêm tai giữa do vi khuẩn Vibrio alginolyticus gây ra. Điều trị nên dựa trên tính nhạy cảm kháng khuẩn của phân lập. | ||
|
1 | Giới thiệu đến khám nhãn khoa |
» Dữ liệu liên quan đến việc điều trị nhiễm khuẩn Vibrio mắt chỉ giới hạn trong các báo cáo theo kinh nghiệm.[4] Bệnh nhân cần được giới thiệu đến bác sĩ chuyên khoa mắt. |
Giai đoạn đầu
Ciprofloxacin cộng với deferasirox
Các nghiên cứu in vitro cho thấy rằng ciprofloxacin cộng với deferasirox có thể hiệp đồng tiêu diệt V vulnificus, nhưng liều tối ưu của ciprofloxacin chưa được xác định.[51]
Thông tin cơ bản
Khuyến nghị
Giám sát
Đối với những bệnh nhân nhập viện, sau khi bệnh nhân đã ổn định và được xuất viện đến một cơ sở điều trị ngoại trú, quá trình theo dõi sẽ được tùy chỉnh theo từng cá nhân tùy nhu cầu lâm sàng.
Hướng dẫn dành cho bệnh nhân
Bệnh nhân cần phải theo dõi các bệnh có liên quan. Việc đã có giai đoạn nhiễm khuẩn Vibrio nặng không tạo ra miễn dịch đối với các nhiễm trùng Vibrio sau đó. Bệnh nhân có nguy cơ (ví dụ: bị bệnh gan tiềm ẩn hoặc hiện đang sử dụng corticosteroid hoặc ức chế miễn dịch khác [HIV, hóa trị, ghép tạng đặc]) cần tránh các hoạt động nguy hiểm (ví dụ: ăn hoặc chế biến động vật có vỏ sống hoặc chưa nấu chín, tiếp xúc với nước biển và nước cửa sông).
Các biến chứng
Các biến chứng | Khung thời gian | Khả năng |
Nhiễm trùng huyết | Ngắn hạn | Cao |
Kết hợp với nhiễm khuẩn huyết và/hoặc nhiễm khuẩn mô mềm hoại tử. | ||
Viêm cân mạc hoại tử | Ngắn hạn | Cao |
Có thể liên quan đến mất mô mềm phẫu thuật đáng kể và yêu cầu ghép da tiếp theo. | ||
Hoại thư | Ngắn hạn | Thấp |
Liên quan đến nhiễm trùng mô mềm/viêm mạc.
Cắt bỏ chi có thể là kết quả của điều trị bằng phẫu thuật để duy trì mạng sống do hoại tử. Có thể sẽ cần tiến hành điều trị phục hồi kéo dài bao gồm vật lý trị liệu. |
Tiên lượng
Tiên lượng cho các ca nhiễm khuẩn Vibrio không phải là dịch tả khác nhau tùy theo tình trạng đồng nhiễm tiềm ẩn của vật chủ và biểu hiện lâm sàng của nhiễm khuẩn.
Viêm dạ dày ruột do vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây ra
Ở vật chủ bình thường, nó thường là một bệnh tiêu chảy tự giới hạn trong thời gian <5 ngày.[17]
Nhiễm khuẩn mô mềm V alginolyticus
Đây thường là tình trạng nhiễm trùng da tự giới hạn đôi khi cần điều trị bằng cách uống kháng sinh trong thời gian ngắn.[17] [30]
Nhiễm khuẩn V vulnificus
Nhiễm khuẩn huyết sơ cấp có tỉ lệ tử vong cao hơn (28%) so với nhiễm khuẩn vết thương (8%). Điểm APACHE II lúc nhập viện >15 tương ứng với tỷ lệ tử vong >50%.[52] Tương tự, Điểm Y tế khẩn cấp Nhanh (REMS) >8 có liên quan đáng kể với nguy cơ tử vong gia tăng.[53] Việc đến phòng cấp cứu và tai nạn muộn quá 3 ngày sau khi bị thương hoặc có các triệu chứng khởi phát là một dự báo của tỷ lệ tử vong tăng lên (13% nếu <3 ngày so với 55,6% nếu >3 ngày).[54]
Sốc nhiễm khuẩn liên quan đến nhiễm khuẩn mô mềm hoại tử có liên quan có tỷ lệ tử vong ước tính là 23% so với bệnh nhân trải qua phẫu thuật cắt bỏ sớm và không bị sốc 4,9%.[47]
Việc nhập viện có thể bị làm phức tạp lên do thời gian lưu lại ICU kéo dài, nhiều thủ thuật phẫu thuật để cắt bỏ mô bị tổn thương và có thể phải cắt bỏ chi.
Hypoalbuminaemia <20 g/L (<2 g/dL) tương quan thống kê với kết cục tử vong hoặc cắt bỏ lớn.[48] Bệnh nhân được nhận vào đơn vị chăm sóc đặc biệt bị viêm mô tế bào hoại tử hoặc viêm mạc, ảnh hưởng đến da hoặc mô mềm ở 2 chi trở lên, hoặc điểm APACHE 11 cao có nguy cơ tử vong cao.[49]
Hướng dẫn điều trị
Quốc tế
Surviving sepsis campaign: international guidelines for management of sepsis and septic shock: 2016
Nhà xuất bản: Society of Critical Care Medicine
Xuất bản lần cuối: 2016
Bắc Mỹ
Non-cholera Vibrio infections
Nhà xuất bản: California Department of Public Health
Xuất bản lần cuối: 2015
Nguồn trợ giúp trực tuyến
- FDA: Vibrio vulnificus Health Education Kit (external link)
- CDC: National Notifiable Infectious Diseases Surveillance System: Vibriosis (external link)
Điểm số bằng chứng
- Duration of diarrhoeal illness and symptom control: there is poor-quality evidence to suggest that antibiotics may be more effective than placebo at reducing the duration of diarrhoea and symptoms in adults with mild to moderate diarrhoea. Bằng chứng cấp độ C: Các nghiên cứu quan sát (thuần tập) có chất lượng thấp hoặc các thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng (RCT) có lỗi về phương pháp với <200 người tham gia.
Các bài báo chủ yếu
- Dechet AM, Yu PA, Koram N, et al. Nonfoodborne Vibrio infections: an important cause of morbidity and mortality in the United States, 1997-2006. Clin Infect Dis. 2008;46:970-976. Tóm lược
- Oliver JD. Wound infections caused by Vibrio vulnificus and other marine bacteria. Epidemiol Infect. 2005;133:383-391. Tóm lược
- Liu JW, Lee IK, Tang HJ, et al. Prognostic factors and antibiotics in Vibrio vulnificus septicemia. Arch Intern Med. 2006;166:2117-2123. [Erratum in: Arch Intern Med. 2007;167:194.] Toàn văn Tóm lược
- Halow KD, Harner RC, Fontenelle LJ. Primary skin infections secondary to Vibrio vulnificus: the role of operative intervention. J Am Coll Surg. 1996;183:329-334. Tóm lược
- Kuo YL, Shieh SJ, Chiu HY, et al. Necrotizing fasciitis caused by Vibrio vulnificus: epidemiology, clinical findings, treatment and prevention. Eur J Clin Microbiol Infect Dis. 2007;26:785-792. Tóm lược
Tài liệu tham khảo
- Farmer JJ, Janda JM, Birkhead K. Chapter 46: Vibrio. In: PR Murray, ed. Manual of clinical microbiology. 8th ed. Washington, DC: ASM Press; 2003.
- Thompson FL, Gevers D, Thompson CC, et al. Phylogeny and molecular identification of vibrios on the basis of multilocus sequence analysis. Appl Environ Microbiol. 2005;71:5107-5115. Toàn văn Tóm lược
- Thompson FL, Iida T, Swings J. Biodiversity of vibrios. Microbiol Mol Biol Rev. 2004;68:403-431. Toàn văn Tóm lược
- Penland R, Boniuk M, Wilhelmus KR. Vibrio ocular infections on the U.S. Gulf Coast. Cornea. 2000;19:26-29.Tóm lược
- Dechet AM, Yu PA, Koram N, et al. Nonfoodborne Vibrio infections: an important cause of morbidity and mortality in the United States, 1997-2006. Clin Infect Dis. 2008;46:970-976. Tóm lược
- Igbinosa EO, Okoh AI. Emerging Vibrio species: an unending threat to public health in developing countries. Res Microbiol. 2008;159:495-506. Tóm lược
- Martinez-Urtaza J, Huapaya B, Gavilan RG, et al. Emergence of Asiatic Vibrio diseases in South America in phase with El Nino. Epidemiology. 2008;19:829-837. Tóm lược
- Wootipoom N, Bhoopong P, Pomwised R, et al. A decrease in the proportion of infections by pandemic Vibrio parahaemolyticus in Hat Yai Hospital, southern Thailand. J Med Microbiol. 2007;56:1630-1638. Toàn văn Tóm lược
- Khaira G, Galanis E. Descriptive epidemiology of Vibrio parahaemolyticus and other Vibrio species infections in British Columbia: 2001-2006. Can Commun Dis Rep. 2007;33:12-22. Toàn văn Tóm lược
- Public Health Agency of Canada. Public health notice: outbreak of Vibrio parahaemolyticus linked to raw shellfish. October 2015. http://www.phac-aspc.gc.ca/ (last accessed 14 March 2017). Toàn văn
- Goarant C, Reynaud Y, Ansquer D, et al. Molecular epidemiology of Vibrio nigripulchritudo, a pathogen of cultured penaeid shrimp (Litopenaeus stylirostris) in New Caledonia. Syst Appl Microbiol. 2006;29:570-580. Tóm lược
- Inoue Y, Ono T, Matsui T, et al. Epidemiological survey of Vibrio vulnificus infection in Japan between 1999 and 2003. J Dermatol. 2008;35:129-139. Tóm lược
- Harth E, Matsuda L, Hernández C, et al. Epidemiology of Vibrio parahaemolyticus outbreaks, southern Chile. Emerg Infect Dis. 2009;15:163-168. Toàn văn Tóm lược
- Centers for Disease Control and Prevention. National enteric disease surveillance: COVIS annual summary, 2014 – summary of human Vibrio cases reported to CDC, 2014. May 2016. https://www.cdc.gov (last accessed 14 March 2017). Toàn văn
- Centers for Disease Control and Prevention (CDC), National Enteric Disease Surveillance. Cholera and Other Vibrio Illness (COVIS) annual summary, 2009: summary of human Vibrio cases reported to CDC, 2009. November 2011. http://www.cdc.gov/ (last accessed 14 March 2017). Toàn văn
- Hsueh PR, Lin CY, Tang HJ, et al. Vibrio vulnificus in Taiwan. Emerg Infect Dis. 2004;10:1363-1368. Toàn văn Tóm lược
- Neill MA, Carpenter CCJ. Chapter 212, Other pathogenic vibrios. In: Mandell GL, Douglas RG, Bennett JE, eds. Mandell, Douglas, and Bennett’s principles and practice of infectious diseases. 6th ed. Philadelphia, PA: Elsevier, Churchill Livingstone; 2005:2544-2548.
- Oliver JD. Wound infections caused by Vibrio vulnificus and other marine bacteria. Epidemiol Infect. 2005;133:383-391. Tóm lược
- Schmidt U, Chmel H, Cobbs C. Vibrio alginolyticus infections in humans. J Clin Microbiol. 1979;10:666-668. Toàn văn Tóm lược
- Patterson TF, Bell SR, Bia FJ. Vibrio alginolyticus cellulitis following coral injury. Yale J Biol Med. 1988;61:507-512. Toàn văn Tóm lược
- Gomez JM, Fajardo R, Patino JF, et al. Necrotizing fasciitis due to Vibrio alginolyticus in an immunocompetent patient. J Clin Microbiol. 2003;41:3427-3429. Toàn văn Tóm lược
- Opal SM, Saxon JR. Intracranial infection by Vibrio alginolyticus following injury in salt water. J Clin Microbiol. 1986;23:373-374. Toàn văn Tóm lược
- Strom MS, Paranjpye RN. Epidemiology and pathogenesis of Vibrio vulnificus. Microbes Infect. 2000;2:177-188. Tóm lược
- Miyoshi S. Vibrio vulnificus infection and metalloprotease. J Dermatol. 2006;33:589-595. Tóm lược
- Kim K, Kim NJ, Kim SY, et al. Cyclo(Phe-Pro) produced by the human pathogen Vibrio vulnificus inhibits host innate immune responses through the NF-KB pathway. Infect Immun. 2015;83:1150-1161. Toàn văn Tóm lược
- Jang HC, Choi SM, Kim HK, et al. In vivo efficacy of the combination of ciprofloxacin and cefotaxime against Vibrio vulnificus sepsis. PLoS One. 2014;9:e101118. Toàn văn Tóm lược
- Broberg CA, Calder TJ, Orth K. Vibrio parahaemolyticus cell biology and pathogenicity determinants. Microbes Infect. 2011;13:992-1001. Toàn văn Tóm lược
- Zhang L, Orth K. Virulence determinants for Vibrio parahaemolyticus infection. Curr Opin Microbiol. 2013;16:70-77. Tóm lược
- de Souza Santos M, Orth K. Intracellular Vibrio parahaemolyticus escapes the vacuole and establishes a replicative niche in the cytosol of epithelial cells. MBio. 2014;5:e01506-14. Toàn văn Tóm lược
- Tantillo GM, Fontanarosa M, Di Pinto A, et al. Updated perspectives on emerging vibrios associated with human infections. Lett Appl Microbiol. 2004;39:117-126. Tóm lược
- Kumamoto KS, Vukich DJ. Clinical infections of Vibrio vulnificus: a case report and review of the literature. J Emerg Med. 1998;16:61-66. Tóm lược
- Janda JM, Powers C, Bryant RG, et al. Current perspectives on the epidemiology and pathogenesis of clinically significant Vibrio spp. Clin Microbiol Rev. 1988;1:245-267. Toàn văn Tóm lược
- Hor LI, Chang TT, Wang ST. Survival of Vibrio vulnificus in whole blood from patients with chronic liver diseases: association with phagocytosis by neutrophils and serum ferritin levels. J Infect Dis. 1999;179:275-278. Tóm lược
- Hor LI, Chang YK, Chang CC, et al. Mechanism of high susceptibility of iron-overloaded mouse to Vibrio vulnificus infection. Microbiol Immunol. 2000;44:871-878. Tóm lược
- Daniels NA. Vibrio vulnificus oysters: pearls and perils. Clin Infect Dis. 2011;52:788-792. Toàn văn Tóm lược
- Vugia DJ, Tabnak F, Newton AE, et al. Impact of 2003 state regulation on raw oyster-associated Vibrio vulnificus illnesses and deaths, California, USA. Emerg Infect Dis. 2013;19:1276-1280. Toàn văn Tóm lược
- Rhodes A, Evans LE, Alhazzani W, et al. Surviving sepsis campaign: international guidelines for management of sepsis and septic shock: 2016. Intensive Care Med. 2017;43:304-377. Toàn văn Tóm lược
- Hedberg CW, Palazzi-Churas KL, Radke VJ, et al. The use of clinical profiles in the investigation of foodborne outbreaks in restaurants: Unites States, 1982-1997. Epidemiol Infect. 2008;136:65-72. Tóm lược
- Liu JW, Lee IK, Tang HJ, et al. Prognostic factors and antibiotics in Vibrio vulnificus septicemia. Arch Intern Med. 2006;166:2117-2123. [Erratum in: Arch Intern Med. 2007;167:194.] Toàn văn Tóm lược
- Chao WN, Tsai CF, Chang HR, et al. Impact of timing of surgery on outcome of Vibrio vulnificus-related necrotizing fasciitis. Am J Surg. 2013;206:32-39. Tóm lược
- Daniels NA, MacKinnon L, Bishop R, et al. Vibrio parahaemolyticus infection in the United States, 1973-1998. J Infect Dis. 2000;181:1661-1666. Tóm lược
- Chen SC, Lee YT, Tsai SJ, et al. Antibiotic therapy for necrotizing fasciitis caused by Vibrio vulnificus: retrospective analysis of an 8 year period. J Antimicrob Chemother. 2012;67:488-493. Toàn văn Tóm lược
- Chuang YC, Liu JW, Ko WC, et al. In vitro synergism between cefotaxime and minocycline against Vibrio vulnificus. Antimicrob Agents Chemother. 1997;41:2214-2217. Tóm lược
- Tang HJ, Chang MC, Ko WC, et al. In vitro and in vivo activities of newer fluoroquinolones against Vibrio vulnificus. Antimicrob Agents Chemother. 2002;46:3580-3584. Toàn văn Tóm lược
- Gilbert DN, Moellering RC, Eliopoulos GM, et al, eds. The Sanford guide to antimicrobial therapy 2014. 44th ed. Sperryville, VA: Antimicrobial Therapy, Inc.; 2014.
- Halow KD, Harner RC, Fontenelle LJ. Primary skin infections secondary to Vibrio vulnificus: the role of operative intervention. J Am Coll Surg. 1996;183:329-334. Tóm lược
- Kuo YL, Shieh SJ, Chiu HY, et al. Necrotizing fasciitis caused by Vibrio vulnificus: epidemiology, clinical findings, treatment and prevention. Eur J Clin Microbiol Infect Dis. 2007;26:785-792. Tóm lược
- Huang KC, Hsieh PH, Huang KC, et al. Vibrio necrotizing soft-tissue infection of the upper extremity: factors predictive of amputation and death. J Infect. 2008;57:290-297. Tóm lược
- Chen S, Chan K, Chao W, et al. Clinical outcomes and prognostic factors for patients with Vibrio vulnificus infections requiring intensive care: a 10 year retrospective study. Crit Care Med. 2010;38:1984-1990. Tóm lược
- Hong GL, Dai XQ, Lu CJ, et al. Temporizing surgical management improves outcome in patients with Vibrio necrotizing fasciitis complicated with septic shock on admission. Burns. 2014;40:446-454. Tóm lược
- Neupane GP, Kim D. In vitro time-kill activities of ciprofloxacin alone and in combination with the iron chelator deferasirox against Vibrio vulnificus. Eur J Clin Microbiol Infect Dis. 2010;29:407-410. Tóm lược
- Chou TN, Lee YT, Lai YY, et al. Prognostic factors for primary septicemia and wound infection caused by Vibrio vulnificus. Am J Emerg Med. 2010;28:424-431. Tóm lược
- Kuo SH, Tsai CF, Li CR, et al. Rapid Emergency Medicine Score as a main predictor of mortality in Vibrio vulnificus-related patients. Am J Emerg Med. 2013;31:1037-1041. Tóm lược
- Lee YC, Hor LI, Chiu HY, et al. Prognostic factor of mortality and its clinical implications in patients with necrotizing fasciitis caused by Vibrio vulnificus. Eur J Clin Microbiol Infect Dis. 2014;33:1011-1018. Tóm lược
Hình ảnh
Những người có đóng góp
// Các tác giả:
Michael Sands, MD, MPH & TM, FIDSA
Professor of Medicine
College of Medicine, University of Florida, Jacksonville, FL
CÔNG KHAI THÔNG TIN: MS declares that he has no competing interests.
Carmen Isache, MD
Assistant Professor of Medicine
College of Medicine, University of Florida, Jacksonville, FL
CÔNG KHAI THÔNG TIN: CI declares that she has no competing interests.
// Những Người Bình duyệt:
Christopher Huston, MD
Assistant Professor of Medicine
Division of Infectious Diseases, University of Vermont College of Medicine, Burlington, VT CÔNG KHAI THÔNG TIN: CH declares that he has no competing interests.
Franz Allerberger, MD, MPH
Professor of Clinical Microbiology
Austrian Agency for Health and Food Safety (AGES), Vienna, Austria
CÔNG KHAI THÔNG TIN: FA declares that he has no competing interests.
Xem thêm:
Nhiễm khuẩn Listeria: Nguyên nhân, chẩn đoán và hướng dẫn điều trị theo BMJ