Dược mỹ phẩm để điều trị và ngăn ngừa sẹo: thành phần gì và liệu pháp như thế nào?

Xuất bản: UTC +7

Cập nhật lần cuối: UTC +7

Nhà thuốc Ngọc Anh – Chương 25: Dược mỹ phẩm để điều trị và ngăn ngừa sẹo

Tác giả: Mark V. Dahl

Nguồn: Dược mỹ phẩm và ứng dụng trong thẩm mỹ

Bác sĩ: PATRICIA K.FARRIS

Giới thiệu

Sẹo da là một trong những mối quan tâm phổ biến nhất của bệnh nhân khi đến gặp bác sĩ da liễu. Hàng năm, hơn 100 triệu bệnh nhân ở các nước phát triển bị sẹo là hậu quả của 25 triệu ca phẫu thuật do chấn thương và 55 triệu ca phẫu thuật tự ý. Ngoài ra, có khoảng 4 triệu vết sẹo do bỏng, 70% trong số đó xảy ra ở trẻ em và 11 triệu vết sẹo lồi. Những người bị sẹo da có thể phải đối mặt với những hậu quả đáng kể về thể chất và tâm lý xã hội. Chúng tôi sẽ mô tả nhiều hoạt chất được sử dụng phổ biến nhất trong điều trị sẹo cũng như một số biện pháp tự nhiên đang ngày càng trở nên phổ biến.

Cơ chế bệnh sinh

Quá trình lành vết thương bình thường bao gồm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn viêm, sau đó là giai đoạn tăng sinh hoặc tạo hạt, và cuối cùng là giai đoạn trưởng thành hoặc tái tạo. Nhiều phân tử tín hiệu, gồm các yếu tố tăng trưởng, ma trận metalloproteinase, protein kinase kích hoạt phân bào và chất ức chế mô của metalloproteinase, điều chỉnh quá trình chữa lành vết thương phức tạp này. Những bất thường trong quá trình phức tạp này dẫn đến sự phát triển của sẹo phì đại và sẹo lồi. Thông thường trong giai đoạn tái tạo, quá trình tổng hợp và suy thoái collagen xảy ra đồng thời làm cho vết thương mềm đi, phẳng lại và các yếu tố mô liên kết thường giảm sau tuần thứ ba. Tuy nhiên, ở sẹo lồi, sự tổng hợp collagen cao gấp 20 lần so với da bình thường và gấp 3 lần so với sẹo phì đại. Hơn nữa, tỷ lệ collagen loại I trên loại III cũng cao trong sẹo phì đại và sẹo lồi.

Các yếu tố nguy cơ

Có một số yếu tố nguy cơ đã biết đối với sự phát triển của sẹo phì đại và sẹo lồi. Yếu tố nguy cơ quan trọng nhất là khuynh hướng di truyền. Ví dụ, sẹo lồi có nguy cơ xuất hiện cao gấp 15 lần ở những người da sẫm màu. Ngoài ra, độ căng của vết thương cũng có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của sẹo phì đại và sẹo lồi. Vì lý do này, các vết thương vắt qua vùng khớp có nhiều khả năng hình thành sẹo phì đại do lực căng liên tục làm gián đoạn quá trình lành thương bình thường. Sẹo lồi và sẹo phì đại cũng ít có khả năng xuất hiện ở một số khu vực nhất định như đẩu chì và niêm mạc. Cuối cùng, sự hình thành các vết sẹo bất thường dường như là cỏ liên quan đến nội tiết tố, đặc biệt là ở phụ nữ. Sẹo lồi có xu hướng phát triển phổ biến hơn trong và sau tuổi dậy thì trong khi thời kỳ mãn kinh dường như gây ra sự suy thoái của những vết sẹo này. Tương tự, phụ nữ cho biết sẹo lồi thường dễ xuất hiện và to ra khi mang thai.

Các thành phần dược mỹ phẩm được sử dụng phổ biến trong ngăn ngừa và điều trị sẹo

Bảng 25.1 cho thấy những thành phần dược mỹ phẩm và hiệu quả của chúng trong điều trị sẹo.

Bảng 25.1 Các hoạt chất dược mỹ phẩm và tác dụng của chúng.

Hoạt chất Bằng chứng
Chiết xuất hành tây Các nghiên cứu trong ống nghiệm cho thấy chiết xuất hành tây đẩy nhanh quá trình chữa lành vết thương thông qua tác dụng kháng viêm của chúng. Ngoài ra, chúng làm giảm biểu hiện của nguyên bào sợi trong ống nghiệm. Hai nghiên cứu lâm sàng nhỏ cho thấy sự cải thiện về diện mạo tổng thể của sẹo phì đại.
Vitamin A Việc bôi axit retinoic hàng ngày cũng đã được chứng minh là làm giảm kích thước và ngứa liên quan đến sẹo phì đại và sẹo lồi. Một nghiên cứu ngẫu nhiên lớn, mù đôi cho thấy axit retinoic 0,05%làm giảm đáng kể kích thước vết sẹo.
Vitamin E Các nghiên cứu lâm sàng lớn không cho thấy sự cải thiện về biểu hiện của các vết sẹo. Tuy nhiên, một số nghiên cứu nhỏ hơn gần đầy đã cho thấy kết quả tích cực hơn đối với việc sử dụng vitamin E trong việc ngăn ngừa và điều trị sẹo sau phẫu thuật.
Imiquimod Các nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi đã cho thấy hiệu quả của kem imiquimod 5% trong việc ngăn ngừa sẹo phì đại. Imiquimod được phát hiện là có thể cải thiện đáng kể biểu hiện của sẹo, đặc biệt là màu sắc và độ cao.
Silicone Các nghiên cứu ủng hộ hiệu quả của cả miếng dán silicone và gel trong : việc ngăn ngừa và điều trị sẹo. Tuy nhiên, miếng dán silicone đã được chứng minh là hiệu quả hơn đáng kể so với gel silicon.
Thuốc mỡ kháng sinh Polymyxin B sulfat-bacitracin kẽm-neomycin suliat giúp giảm thiểu sẹo liên quan đến vết thương loại mài mòn. Đặc biệt, việc sử dụng thuốc mỡ kháng sinh này có tác dụng rõ rệt nhất trong việc giảm các thay đổi tăng sắc tố.
Bờ xoài Một nghiên cứu về kem có thành phần là bơ xoài, olein và vitamin E trên mô hình chuột cho thấy rằng loại kem này cho phép liền vết thương tốt hơn và giảm sẹo đáng kể.
Mật ong Các thử nghiệm lâm sàng liên quan đến bệnh nhân bị bỏng nông cho thấy tác dụng kháng viêm của mật ong. Các nghiên cứu cũng đã chứng minh khả năng giữ ẩm của mật ong trong vết thương.
Nha đam Các chất chiết xuất của nó đã cho thấy hoạt tính đáng kể trong việc phục hồi các vết loét do tì đè, tổn thương do bức xạ và các loại vết thương khác. Ngoài ra, nha dam có thể giúp tăng sinh các nguyên bào sợi ở người và tăng các tín hiệu nội bào.

Chiết xuất hành tây

Chiết xuất hành tây hoặc Allium cepa là một thành phần thường được sử dụng trong các phương pháp điều trị sẹo, cũng là hoạt chất chính trong nhiều loại thuốc trị sẹo không kê đơn. Các sản phẩm này được bệnh nhân ưa chuộng do tính sẵn có, giá thành rẻ và danh tiếng là sản phẩm tự nhiên. Chiết xuất hành tây từng được coi là một phương thức điều trị mới đầy hứa hẹn do tác dụng in vitro của chúng cho thấy chiết xuất hành tây đẩy nhanh quá trình chữa lành vết thương thông qua tác dụng của chúng đối với tế bào mast và nguyên bào sợi. Trong những nghiên cứu này, chiết xuất hành tây hoạt động như một chất chống viêm và điều chỉnh giảm sản xuất collagen. Quercetin và chiết xuất hành tây cũng điều chỉnh tăng sự biểu hiện ma trận metalloproteinase-1. Thật không may, dữ liệu in vitro đầy hứa hẹn này đã không được nhân rộng tốt trong môi trường lâm sàng. Một số nghiên cứu lâm sàng không chứng minh được bất kỳ lợi ích bổ sung nào của chiết xuất hành tây so với petrolatum thông thường ở những bệnh nhân có sẹo sau phẫu thuật. Gần đây nhất, hai nghiên cứu cho thấy rằng một loại gel có chứa hành tây, khi được sử dụng kết hợp với corticosteroid tiêm trong tổn thương hoặc đơn lẻ, đã cải thiện biểu hiện tổng thể của các vết sẹo phì đại. Tuy nhiên, những nghiên cứu này là nhỏ và không ngẫu nhiên hoặc mù đôi. Nhìn chung, cần phải thực hiện nhiều nghiên cứu lâm sàng hơn để làm sáng tỏ đầy đủ tính hiệu quả của chiết xuất hành tây trong điều trị sẹo.

Vitamin A dạng thoa

Vitamin A và các retinoid tổng hợp là những thành phần phổ biến trong các loại dược mỹ phẩm có sẵn rộng rãi. Các nghiên cứu cho thấy rằng vitamin A tại chỗ giúp cải thiện biểu hiện của sẹo, đặc biệt là những vết sẹo phì đại hoặc sẹo lồi. Axit retinoic tại chỗ có tác dụng làm phẳng, làm mềm và giảm hiện tượng tăng sắc tố ở các vết sẹo. Một nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên lớn vào năm 1986 bởi Daly và cộng sự cho thấy rằng kem axit retinoic 0,05% có thể làm giảm đáng kể kích thước của các vết sẹo. Một nghiên cứu nhỏ hơn nhưng gần đây hơn của Mizutani và cộng sự cho thấy thuốc mỡ 0,25% tocoretinate, một dẫn xuất vitamin A, có thể làm giảm đáng kể kích thước, ban đỏ, độ cứng và ngứa liên quan đến các vết sẹo phì đại trưởng thành. Tác giả này cho rằng axit retinoic 0,1% hoạt động vừa phải trong việc giảm đau do sẹo trên da đầu sau phẫu thuật hoặc đối với đau thần kinh sau herpes (zoster). Trong khi các nghiên cứu dường như ủng hộ hiệu quả của vitamin A trong việc điều trị sẹo, những bất lợi bao gồm khả năng hấp thụ toàn thân, gây dị tật thai ở phụ nữ mang thai, cũng như các tác dụng phụ kích ứng da và nhạy cảm với ánh sáng.

Vitamin E dạng thoa

Vitamin E, còn được gọi là tocopherol, là một thành phần phổ biến khác được tìm thấy trong các sản phẩm điều trị sẹo không kê đơn. Vitamin E là một chất chống oxy hóa tan trong lipid có thể thâm nhập vào lớp bì lưới, nơi về mặt lý thuyết nó làm giảm sự hình thành các gốc oxy (yếu tố cản trở khả năng chữa lành vết thương, làm tổn thương màng tế bào, lipid và DNA). Ngoài ra, vitamin E làm thay đổi quá trình sản xuất glycosaminoglycan và collagen, đồng thời ức chế quá trình peroxy hóa lipid và do đó vitamin E có thể ổn định màng tế bào. Trong khi các báo cáo nhỏ lẻ cho thấy Vitamin E làm tăng tốc độ chữa lành vết thương và cải thiện biểu hiện của các vết sẹo, thì các nghiên cứu lâm sàng đã không ủng hộ những tuyên bố này. Trong một nghiên cứu trên những bệnh nhân bỏng đã trải qua phẫu thuật tái tạo, vitamin E không cho thấy sự cải thiện về vẻ ngoài, độ mềm dẻo và độ dày của sẹo. Trên thực tế, việc sử dụng vitamin E có liên quan đến tỷ lệ phản ứng tại chỗ cao hơn, góp phần làm cho sẹo xấu đi. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu gần đây đã cho thấy kết quả tích cực hơn đối với việc sử dụng vitamin E trong việc phòng ngừa và điều trị sẹo phẫu thuật cũng như các vết loét đầu chi liên quan đến bệnh xơ cứng bì hệ thống. Có vẻ như cần phải nghiên cứu thêm trước khi vitamin E có thể được khuyến nghị như một phương pháp điều trị hiệu quả cho các vết sẹo.

Imiquimod

Imiquimod tại chỗ, một chất điều hòa giảm đáp ứng miễn dịch, có nhiều chỉ định sử dụng trong da liễu. Liệu pháp da liễu phổ biến này được sử dụng để điều trị dày sừng ánh sáng, ung thư tế bào vảy và tế bào đáy, mụn cóc sinh dục và u mềm lây. Kem Imiquimod 5% đã được chứng minh trong một nghiên cứu để ngăn ngừa sự tái phát của sẹo lồi sau khi phẫu thuật. Gần đây nhất, Prado và cộng sự đã tiên hành một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi vê’ kem imiquimod 5% trong việc ngăn ngừa sẹo phì đại sau phẫu thuật vú. Kem Imiquimod 5% được phát hiện là có thể cải thiện đáng kể biểu hiện của sẹo, đặc biệt là màu sắc và độ cao, khi được đánh giá ở thời điểm 24 tuần sau phẫu thuật. Điều đáng quan tâm là không có sẹo lồi và sẹo phì đại trong nhóm điều trị. Các tác dụng phụ gặp ở nhóm imiquimod bao gồm xuất huyết điểm, đau cục bộ và ban đỏ. Nhìn chung, kem imiquimod 5% dường như là một phương pháp điều trị hiệu quả để ngăn ngừa sẹo phì đại và sẹo lồi.

Silicone dạng mỡ, gel và miếng dán

Kể từ khi được giới thiệu cách đây 30 năm, thuốc bôi và miếng dán silicone là một số phương pháp điều trị được sử dụng phổ biến nhất để ngăn ngừa và giảm sẹo phì đại. Mặc dù cơ chế của miếng dán gel silicone vẫn chưa được hiểu rõ hoàn toàn, nhưng người ta cho rằng silicone giúp tạo ra một môi trường đủ ẩm, khóa ẩm làm giảm hoạt động của mao mạch, giúp giảm sẹo phì đại do nguyên bào sợi. Hiệu quả của miếng dán gel silicone trong việc giảm ban đỏ, ngứa, độ cứng và kích thước của các vết sẹo đã được ghi nhận rõ. Cũng đã có nhiều nghiên cứu ủng hộ hiệu quả của gel silicone trong việc điều trị sẹo. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng gel silicon có thể không hiệu quả bằng miếng dán silicone. Sawada và cộng sự cho thấy rằng chỉ riêng việc sử dụng kem silicone đã cho thấy sự cải thiện 22% đối với sẹo trong khi kem silicone được sử dụng cùng với một loại băng bịt kín cho sự cải thiện 82%. Nhìn chung, các nghiên cứu ủng hộ hiệu quả của cả miếng dán silicone và gel trong việc ngăn ngừa và điều trị sẹo. Những quan sát mang tính giai thoại cho thấy hiệu quả tắc nghẽn trong giảm sẹo là tạm thời.

Mỡ kháng sinh và petrolatum

Đối với vết thương sạch, vô trùng, petrolatum tương đương với thuốc mỡ kháng sinh để chữa lành vết thương. Nếu tình trạng nhiễm trùng là một vấn đề đáng lo ngại, chẳng hạn như vết thương do bị rách hoặc mài mòn bởi bề mặt không sạch, thì quá trình lành vết thương sẽ bị tổn hại và nguy cơ hình thành sẹo tăng lên. Trên thực tế, một nghiên cứu ngẫu nhiên của Berger và cộng sự cho thấy polymyxin B sulfat/ kẽm bacitracin/ neomycin sulfat giúp giảm thiểu sẹo liên quan đến vết thương loại mài mòn. Nghiên cứu này cho thấy thuốc mỡ kháng sinh ba thành phần vượt trội hơn so với băng gạc đơn thuần trong việc giảm thiểu sẹo. Đặc biệt, việc sử dụng thuốc mỡ kháng sinh này có tác dụng rõ rệt nhất trong việc giảm nguy cơ các thay đổi sắc. Cơ chế hoạt động có thể chỉ đơn giản là tá dược, petrolatum, tối ưu hóa quá trình chữa lành vết thương và tránh hình thành sẹo, trong khi đó gạc là tác nhân làm khô và có thể không cho phép chữa lành vết thương tối ưu. Một nghiên cứu khác cho thấy rằng những vết bóng nước được điều trị bằng thuốc mỡ kháng sinh bộ ba có thể chữa lành nhanh hơn đáng kể so với những vết thương được điều trị bằng bất kỳ chất khử trùng nào hay những vết thương không được điều trị. Những nghiên cứu này dường như ủng hộ việc sử dụng thuốc mỡ kháng sinh bộ ba giúp giảm sẹo thông qua việc loại bỏ khả năng nhiễm khuẩn vết thương. Những loại thuốc mỡ này thường được sử dụng trong các chế phẩm không kê đơn nhưng đôi khi có thể liên quan đến kích ứng và viêm da tiếp xúc ở những người nhạy cảm.

Các liệu pháp thiên nhiên

Bơ xoài

Các loại lipid xa lạ từ cây hạt mỡ, xoài, cây kokum và những loại khác ngày càng trở nên phổ biến được sử dụng như một chất làm mềm. Theo đó, một loại kem bôi chân có chứa bơ xoài và phần olein của nó bổ sung vitamin E đã được thử nghiệm trên những người tình nguyện mắc nhiều loại bệnh ở chân, gồm cả da nứt nẻ. Kem bơ xoài chữa lành da nứt nẻ ở tất cả những người tham gia mà không gây kích ứng hoặc nhạy cảm khi tiếp xúc. Hơn nữa, cùng một loại kem thử nghiệm cho thấy phản ứng chữa lành đáng kể trong các mô hình vết thương do rạch và cắt lọc ở động vật. Các nghiên cứu sâu hơn về đặc tính chữa lành vết thương của chất làm mềm có nguồn gốc thực vật được cho phép và rất đáng mong đợi.

Mật ong

Mật ong được cho là một trong những phương pháp điều trị vết thương cổ xưa nhất. Mật ong được biết là có hoạt tính kháng khuẩn và kháng viêm. Các nghiên cứu cũng đã chứng minh khả năng giữ ẩm của mật ong trong vết thương. Cuối cùng, mật ong có hoạt tính tạo mạch và hỗ trợ hình thành mô hạt và tái tạo biểu mô.

Nha đam

Lô hội (Aloe barbadensis) đã được sử dụng từ thời cổ đại cho các bệnh da liễu khác nhau và đặc biệt được sử dụng để điều trị vết thương và vết bỏng. Một số nghiên cứu ủng hộ vai trò quan trọng của lô hội trong việc chữa lành vết thương. Các chất chiết xuất đã cho thấy tác dụng đáng kể trong việc chữa lành vết loét do tì đè, tổn thương do bức xạ và các loại vết thương khác. Ngoài ra, lô hội làm tăng sự phát triển của nguyên bào sợi người và tăng tín hiệu nội bào. Vai trò của lô hội trong điều trị bỏng được cho là có liên quan đến khả năng giảm mất mô do thiếu máu cục bộ bằng cách giảm thromboxane A2, prostaglandin 2a và thromboxane B2, những chất gây co mạch và kết tập tiểu cầu.

Kết luận

Nhìn chung, có rất nhiều phương pháp điều trị sẵn có để điều trị sẹo. Ngoài các phương pháp điều trị tại chỗ được mô tả, các liệu pháp khác như corticosteroid tiêm nội tổn thương, liệu pháp laser, phẫu thuật lạnh cũng được sử dụng để ngăn ngừa và điều trị sẹo. Trong số các phương pháp điều trị được mô tả, miếng dán Silicon và imiquimod có nhiều bằng chứng lâm sàng nhất để chứng minh hiệu quả của chúng, đặc biệt là đối với sẹo phì đại và sẹo lồi. Cả vitamin A và thuốc mỡ kháng sinh cũng đã được chứng minh là có hiệu quả, nhưng tác dụng của chúng kém hơn và có thể không thích hợp để sử dụng như một liệu pháp đơn trị cho sẹo phì đại và sẹo lồi. Trong khi chiết xuất hành tây và vitamin E là những thành phần phổ biến trong các phương pháp điều trị sẹo phổ biến, thì cần có thêm bằng chứng lâm sàng để hỗ trợ hiệu quả của chúng. Vitamin E có liên quan đến tình trạng viêm da tiếp xúc và làm xấu đi sự xuất hiện của sẹo, do đó cần thận trọng khi sử dụng. Các biện pháp tự nhiên phổ biến như lô hội, mật ong và bơ xoài cho thấy nhiều hứa hẹn và có ít tác dụng phụ, nhưng cần có nhiều nghiên cứu lớn hơn, có kiểm soát để xác định khả năng của chúng.

Xem thêm Dược mỹ phẩm trong điều trị da sần vỏ cam

Để lại một bình luận (Quy định duyệt bình luận)

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

The maximum upload file size: 1 MB. You can upload: image. Drop file here