Peel phenol-dầu croton ứng dụng trong nâng cung mày, giảm chảy xệ vùng quanh mắt và tăng thể tích môi

Xuất bản: UTC +7

Cập nhật lần cuối: UTC +7

Peel phenol-dầu croton ứng dụng trong nâng cung mày, giảm chảy xệ vùng quanh mắt và tăng thể tích môi

Tập sách: Quy trình kỹ thuật trong da liễu thẩm mỹ, Jeffrey S.Dover Murad Alam. Quyển: Thay da bằng hóa chất, Suzan Obagi MD. Phần 5: Chủ đề chuyên sâu.

Để tải file pdf đầy đủ chương 15 Peel phenol-dầu croton ứng dụng trong nâng cung mày, giảm chảy xệ vùng quanh mắt và tăng thể tích môi của tác giả Carlos G. Wambier vui lòng click Tại đây.

GIỚI THIỆU

Chương này chúng ta sẽ cùng khám phá một khía cạnh đặc biệt của peel sâu bằng phenol – dầu croton. Mặc dù các khái niệm cơ bản về an toàn, chăm sóc trước và sau thủ thuật, công thức peel và ứng dụng của peel sâu đã được các bác sĩ Richard Bensimon, bác sĩ Marina Landau và bác sĩ Peter Rullan bàn luận ở Chương 7, 8 và 12, tuy nhiên, một số khía cạnh về quang hóa đặc biệt của chúng vẫn sẽ được nhấn mạnh lại ở chương này để giúp chúng ta có ý hiểu đầy đủ về các cơ chế hoạt động liên quan đến hiện tượng co lại trên bề mặt da và tân tạo collagen ở lớp dưới da.

Các bác sĩ muốn nâng cao kiến thức về peel sâu nên đọc thêm về sự thay đổi khả năng tác động dựa trên độ mạnh yếu của dầu Croton tiglium khi được chuẩn độ với các nồng độ khác nhau. Kiến thức này được giới thiệu bởi Tiến sĩ Hetter trong một bài review ngắn do Hiệp hội Peel da Quốc tế (IPS) xuất bản gần đây trên Tạp chí của Học viện Da liễu Hoa Kỳ trong phần đào tạo liên tục, kèm theo video.

=> Tham khảo: Peel da ở nam giới và những lưu ý chính khi tiến hành peel.

CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG

Tiến sĩ Adolph M. Brown, bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ, người đầu tiên ứng dụng hỗn hợp phenol với dầu croton trong y tế, đã đưa ra lý luận rằng phenol là thành phần hoạt động chính trong công thức của ông, kết hợp với dầu thực vật để “làm chậm” hoạt động của nó, và phenol lúc này cũng xâm nhập sâu hơn khi được pha loãng. (7)

Công thức phenol – dầu croton ban đầu là của Brown, được mô tả trong đơn xin cấp bằng sáng chế tại Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 1959 với tiêu đề “Phương pháp và thành phần xử lý da”, là hỗn hợp đầu tiên của các este phorbol và phenol với vai trò là hoạt chất peel. Công thức gồm 0,5% dầu croton pha trong nước, 50% phenol và 5% cresols (phenol được metyl hóa). Tuy nhiên, có thể bởi vì Brown dường như không muốn tiếp tục áp dụng công thức của mình, và cũng vì bằng sáng chế có ý nghĩa thương mại là chính nên chúng dần bị lãng quên trong thực hành da liễu lẫn phẫu thuật thẩm mỹ. Đáng buồn hơn, công thức phenol-dầu croton gốc của Brown chưa bao giờ được công bố trên một tạp chí y khoa. Brown và vợ ông, Tiến sĩ Marthe Erdos Brown, một bác sĩ da liễu được đào tạo tại Paris, đã công bố kết quả kỹ thuật của họ trên Tạp chí Phẫu thuật Thẩm mỹ của Anh; tuy nhiên, công thức đã bỏ qua dầu croton mà không rõ lý do. Tuy nhiên, cách thực hiện peel trong công thức gốc lẫn trong bài tạp chí đều giống nhau: ngay sau khi mỗi vùng được peel, lập tức đặt một miếng gạc lên đó, với mục đích bịt kín để hạn chế bay hơi hoạt chất. Việc này giúp hình thành một “vùng bôi dày và đậm đặc”. Cho phép kiểm soát tốt tác động của peel. Các nguyên tắc của Brown về cơ chế hoạt động đã được phổ biến trong cộng đồng các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ và một số bác sĩ da liễu trước khi họ dùng công thức của Baker- Gordon (được dùng cho tới hiện tại), được công bố ngay trước khi Brown qua đời vào năm 1963. Do đó, các nhà khoa học không có đủ thời gian để làm sáng tỏ điều này.

Sở dĩ các lý luận của Brown tại thời điểm đó về cơ chế hoạt động của quá trình peel sâu được chấp nhận vì bệnh học da liễu lúc này vẫn còn sơ khai. Cả phương pháp nhuộm Herovici hay phương pháp hóa mô miễn dịch đều chưa ra đời để phân biệt collagen loại III mới với collagen loại I cũ. Lúc đó peel sâu đều được cho là nhằm mục đích “…thúc đẩy sự xơ hóa có kiểm soát của một số lớp sâu của da để gây ra sự co rút (đan bện lại) của các sợi collagen của lớp bì và cán mỏng một số phần tử của mô liên kết song song với bề mặt da.”

Các este phorbol ban đầu được phát hiện trong chính dầu croton vào cuối những năm 1920, và các phân tử este này, kể từ đó được cho là giúp giải thích nghịch lý về tác dụng kích thích và độc hại của dầu croton trong nhiều thiên niên kỷ trong y học phương Đông và từ những năm 1800 trong y học phương Tây. Dầu croton từ đó tới giờ vẫn được công nhận là chất nền phong phú nhất trong các chất chuyển hóa thực vật phức tạp. Dầu này, sau đó cũng được tìm thấy trong các loài khác của họ Euphorbiaceae.

Có thể, sự tương tác giữa các diterpenes bốn vòng của dầu croton với các tế bào gốc nang lông và da và các tế bào khác của mô liên kết tạo ra sự trẻ hóa có thể nhìn thấy bằng mắt thường, mặc dù khoa học vẫn đang tìm kiếm dữ liệu để làm sáng tỏ cơ chế hoạt động trực tiếp và gián tiếp của các este phorbol trong mô liên kết. Phorbol 12-myristate 13-acetate (PMA) và các este phorbol khác kích hoạt nhiều chức năng sinh hóa trong tế bào; do liên quan đến việc làm tăng tốc độ hoạt hóa màng của đồng đẳng protein kinase C (PKC). Tuy nhiên, PMA, một trong những tác nhân thúc đẩy khối u mạnh nhất, lại là chất được chiết xuất từ dầu croton. Este phorbol mặc dù không được coi là chất gây ung thư, nhưng khi được kết hợp với chất gây ung thư, chúng có thể thúc đẩy sự phát triển của khối u. Nhưng đồng thời, PMA cũng có đặc tính chống ung thư, do có tác động biệt hóa các dòng tế bào chưa trưởng thành. Trên thực tế, việc sử dụng peel phenol – dầu croton chưa ghi nhận trường hợp sinh ung thư nào. Baker tuyên bố vào năm 2003 rằng trong hàng nghìn ca peel da ông thực hiện, chưa bao giờ quan sát thấy một trường hợp ung thư da nào trong suốt nhiều thập kỷ theo dõi. Ngược lại, tác động tại tầng da sâu của peel đôi khi lại là phương pháp hóa học hữu hiệu nhất đối với các ung thư da khu trú; tuy nhiên, các nghiên cứu khẳng định điều này vẫn còn đang được thực hiện. (19,20)

Theo các phương pháp peel hiện tại, sau khi áp hỗn hợp phenol – dầu croton lên da, toàn bộ tầng da nông sẽ bị đông tụ do hoại tử. Các lớp sâu hơn vẫn tồn tại và bắt đầu quá trình viêm. Các tế bào biểu bì từ nang lông bắt đầu tăng sinh ngay dưới lớp tế bào biểu bì hoại tử đóng vảy, cũng là nơi hình thành lớp collagen type III. Khi lớp tế bào chết và vảy được tách ra, quá trình biểu mô hóa được hoàn thành, với một lớp biểu bì mới dày hơn. Trong vài tuần tiếp theo, một dải collagen dày tiếp tục hình thành dưới lớp biểu bì mới. Theo đó, sau quá trình tái biểu mô hóa, da sẽ săn chắc hơn, và giống như có hiện tượng ‘co lại’ theo chiều dọc.

Để hiểu rõ hơn về tác dụng của peel sâu, có thể tưởng tượng lớp da của chúng ta giống như một chiếc gối cũ có một lớp vỏ rất lỏng lẻo, nhăn nhúm bên ngoài, còn bên trong là một lớp đệm cũ bị dẹt, kém đàn hồi (lớp trung bì sâu). Peel sâu là hoạt động giúp lấy đi toàn bộ phần vỏ gối, và tác động vào lớp nông của ruột gối (giống như xới đất). Một vài ngày sau, phần vỏ mới sẽ hình thành, với độ dày và độ đàn hồi tốt hơn, làm cho ‘chiếc gối mới’ trông tròn đầy và căng (bóng) hơn, với lớp vỏ ôm sát lớp ruột.

=> Tham khảo thêm: Công thức Rullan: Peel phenol-dầu Croton trong 2 ngày.

ĐỘ MẠNH VÀ TÁC ĐỘNG PEEL

Các cách hiện hành giúp tăng khả năng xâm nhập của hoạt chất peel trên nền da mặt:

  • Tăng nồng độ của dầu croton trong hoạt chất.
  • Tăng lực tay khi dàn trải hoạt chất trên da.
  • Tăng tổng lượng hoạt chất peel áp lên da: trong mỗi phiên điều trị hoặc mỗi lần áp lên da.
  • Chuẩn bị da tốt: Loại bỏ nhờn, thoa retinoid tại chỗ, và mài mòn da.

Các ý kiến cho rằng đắp 1 lớp thạch petrolatum hoặc băng gạc lên da sau peel giúp làm tăng tác động của hoạt chất vẫn còn chưa rõ ràng, bởi vì các thử nghiệm trên động vật ủng hộ thì nhiều nhưng tác động của peel trên cơ thể động vật không hề giống với trên cơ thể người. Trong khi đó, nghiên cứu trên người lại chỉ có duy nhất một bài báo cáo và vùng cơ thể áp dụng lại là vùng ngoài mặt. Như vậy, không có bằng chứng nào rõ ràng cả và BS phải cân nhắc cách thực hiện của mình tại cơ sở điều trị để đạt hiệu quả và độ sâu mong muốn. Nói chung, độ sâu của hoạt chất peel được phản ánh bằng nhiều yếu tố, bao gồm cả các mục tiêu: có làm mờ nếp nhăn sâu hay không?, có điều trị nếp nhăn nông hay không?, có hình thành collagen ở lớp trung bì hay không?. Tuy nhiên, cùng với việc hoạt chất peel xâm nhập sâu hơn thì BN cũng phải đánh đổi với các rủi ro bao gồm đau sau can thiệp, phù nề, thời gian tái biểu mô lâu hơn, thời gian ban đỏ dai dẳng cũng dài hơn, khô da, tăng sắc tố sau viêm ở những bệnh nhân mẫn cảm, và cuối cùng là tăng nguy cơ giảm sắc tố sau khi hồi phục hoàn toàn.

PEEL TỪNG ĐƠN VỊ THẨM MỸ

Không phải tất cả bệnh nhân đều cần peel toàn khuôn mặt. Nhiều bệnh nhân chỉ có chỉ định peel cho vùng quanh miệng, quanh mắt, trán hoặc môi. Một số bệnh nhân có sẹo mụn hoặc nếp nhăn rất nông, có thể chỉ cần peel cho vùng má. Bằng kỹ thuật feathering, các BS có thể tránh được tình trạng tạo lằn ranh giới giữa vùng được peel và không được peel (Hình. 15.1). Một số trường hợp có thể không cần dùng kỹ thuật này, nhưng cần thực hiện một kỹ thuật khác nhằm tái tạo bề mặt ở vùng ranh giới, chẳng hạn như peel trung bình hoặc laser Q-switched. (21)

Hình. 15.1 Peel quanh mắt và môi bằng dầu croton 1.2% pha trong phenol 35%. Sử dụng kỹ thuật feathering để tránh lằn ranh giữa vùng peel và không peel. Đây là hình (trái) ngày thứ tư sau phẫu thuật và (phải) sau 9 tháng, không thấy lằn ranh, nhưng vùng da chưa peel có biểu hiện rối loạn sắc tố mức độ nhẹ, có thể cân nhắc điều trị bằng peel trung bình hoặc laser Q-Switch bước sóng 532nm
Hình. 15.1: Peel quanh mắt và môi bằng dầu croton 1.2% pha trong phenol 35%. Sử dụng kỹ thuật feathering để tránh lằn ranh giữa vùng peel và không peel. Đây là hình (trái) ngày thứ tư sau phẫu thuật và (phải) sau 9 tháng, không thấy lằn ranh, nhưng vùng da chưa peel có biểu hiện rối loạn sắc tố mức độ nhẹ, có thể cân nhắc điều trị bằng peel trung bình hoặc laser Q-Switch bước sóng 532nm

Peel từng khu vực đạt độ an toàn cao. Nếu diện tích peel nhỏ hơn 0,5% diện tích bề mặt cơ thể (tương đương 1 lòng bàn tay không kể ngón tay), quá trình peel có thể thực hiện với nhịp độ chậm nhưng không cần thiết phải tạm dừng khoảng 10 phút giữa các vùng peel và không phải bù Ringer Lactate tĩnh mạch.

Bệnh nhân peel từng khu vực cũng nhẹ nhàng hơn trong khâu chăm sóc sau peel. Tác giả ví sự hồi phục của bệnh nhân như một “hành trình đi qua đường hầm tối”, tức là bệnh nhân sẽ cảm thấy lo lắng khi đi trong đường hầm tối (tương ứng với thời gian hồi phục) và vui vẻ hạnh phúc khi đi qua được đường hầm đó.

=> Đọc thêm: Những tiến bộ mới trong việc kết hợp tái tạo sẹo bằng hóa chất (CROSS) và tách đáy sẹo.

AN TOÀN ĐẶT LÊN HÀNG ĐẦU

Mặc dù các ý kiến đều cho rằng không thực sự cần theo dõi sát bệnh nhân sau các thủ thuật ngắn vì tính an toàn của chúng khá cao, tác giả vẫn muốn theo dõi hầu hết bệnh nhân do các vấn đề về tuổi tác, tiền sử sử dụng thuốc và bệnh lý tăng huyết áp. Hơn nữa, việc theo dõi không ảnh hưởng tới BS cũng như BN, đồng thời có thể đánh giá kịp thời được điện tâm đồ (ECG) và các dấu hiệu sinh tồn trong trường hợp có bất thường. Ví dụ: nếu bệnh nhân phàn nàn về tim của họ “đập nhanh” hoặc “rối loạn”, một cái liếc nhanh vào màn hình có thể trấn an cả ekip BS và bệnh nhân, thay vì việc phải đặt ống nghe lên ngực hoặc chỉ định ECG 12 chuyển đạo. Quan trọng nhất, nếu ghi nhận những bất thường trên lâm sàng, bác sĩ có thể xử trí ngay lập tức. Hơn nữa, màn hình có thể hiển thị rối loạn nhịp tim từ trước hoặc huyết áp cực cao trước khi thực hiện quy trình, do đó cũng là yếu tố định hướng cho chỉ định tiếp theo.

Bằng cách khai thác tiền sử chi tiết (tập trung vào các vấn đề về khả năng lành thương của da, dinh dưỡng, miễn dịch và các vấn đề về tim và hô hấp), và thực hiện các xét nghiệm thường quy như công thức máu, sinh hóa và điện tâm đồ 12 chuyển đạo để đánh giá khoảng QT đã hiệu chỉnh (QTc), BS có thể đánh giá sơ bộ nguy cơ rối loạn nhịp cũng như viêm da sau khi thực hiện peel. Bởi vì peel phenol – dầu croton gây kéo dài QTc ngay cả khi chỉ peel từng vùng, do đó, peel này có chống chỉ định ở những bệnh nhân có QTc dài theo công thức của Fridericia (chẳng hạn như trên 450 ms). QTc trên 500ms là chống chỉ định tuyệt đối và cần được điều trị bởi bác sĩ tim mạch trước khi peel. Các loại thuốc được biết là có ‘tác dụng’ kéo dài QTc là thuốc chống trầm cảm, thuốc lợi tiểu thiazid, thuốc chống nôn, một số thuốc kháng sinh, thuốc chống nấm và opiate. CredibleMeds có sẵn 1 ứng dụng dành cho điện thoại thông minh và có thể được sử dụng thông qua trang web https: // crediblemeds.org; đây là danh sách đầy đủ và cập nhật nhất về các loại thuốc có khả năng kéo dài QTc. Danh sách CredibleMeds phân loại từng thuốc theo rủi ro gây ra xoắn đỉnh.

Các hạn chế của thủ thuật

Mặc dù phần da bề mặt được ‘siết lại’ tới một mức độ nào đó sau peel, phần cơ chùng nhão phía dưới gần như chưa bị tác động. Để thắt chặt và nâng phần cơ này, người ta phải kết hợp với các phẫu thuật căng da mặt. Tuy nhiên, ở những vùng có lớp SMAS mỏng, chẳng hạn như mí mắt, má và vùng trán ngoài, có thể đạt được hiệu quả tối ưu chỉ với peel sâu. Mi mắt là vùng cho thấy hiệu quả nhất, vì biểu bì và hạ bì vùng này mỏng nhất.

Đặc biệt phải chú ý trong giai đoạn ngay trước và sau thủ thuật, cần đánh giá khả năng bị lật mi bẳng nghiệm pháp há miệng (để bệnh nhân há miệng hết cỡ và đánh giá mi dưới), và cũng đánh giá độ lỏng lẻo quá mức bằng test kéo thả mi dưới. Test này âm tính là chóng chỉ định cho peel sâu, đặc biệt đối với các công thức peel có hoạt chất mạnh hoặc hoạt chất phải áp mạnh vào da bệnh nhân. Các trường hợp đã từng chỉnh hình mi dưới đều có thể gây co kéo mi dưới khi peel, nhất là peel sâu (Hình 5.12).

Hình. 15.2 Lật mi kín đáo (chỉ quan sát thấy khi há miệng), sau peel mi dưới bằng hỗn hợp dầu croton 1,2% + phenol 35%. Trước đó, bệnh nhân đã được chỉ định chỉnh hình mi dưới, nâng mặt và peel toàn mặt bằng dầu croton 1,6% trong 35% phenol (như vậy bệnh nhân này đã có chống chỉ định trước khi peel). Tổn thương do ánh sáng ở mắt sau peel lần đầu khiến BS quyết định vẫn hoàn thành liệu trình peel. Bệnh nhân tự khỏi sau 6 tháng. Như vậy test há miệng đã phát hiện ra lật mi kín đáo. Điều này cho thấy da co lại như thế nào sau khi peel và quá trình sinh collagen diễn ra như thế nào theo thời gian
Hình. 15.2: Lật mi kín đáo (chỉ quan sát thấy khi há miệng), sau peel mi dưới bằng hỗn hợp dầu croton 1,2% + phenol 35%. Trước đó, bệnh nhân đã được chỉ định chỉnh hình mi dưới, nâng mặt và peel toàn mặt bằng dầu croton 1,6% trong 35% phenol (như vậy bệnh nhân này đã có chống chỉ định trước khi peel). Tổn thương do ánh sáng ở mắt sau peel lần đầu khiến BS quyết định vẫn hoàn thành liệu trình peel. Bệnh nhân tự khỏi sau 6 tháng. Như vậy test há miệng đã phát hiện ra lật mi kín đáo. Điều này cho thấy da co lại như thế nào sau khi peel và quá trình sinh collagen diễn ra như thế nào theo thời gian

Khu vực peel cũng là một yếu tố quyết định xem khả năng tăng sinh các dải collagen cạnh vùng peel đó là bao nhiêu. Nói chung, vùng peel càng rộng thì khả năng sinh collagen ở vùng xung quanh càng lớn, từ đó hiệu quả ‘siết chặt’ và tăng thể tích mô cũng lớn hơn.

=> Xem thêm: Peel da bổ trợ cho phẫu thuật mi mắt và căng da mặt.

PEEL VÙNG QUANH MẮT

Peel vùng quanh mắt là đưa hoạt chất peel tác động vào vùng quanh ổ mắt, đặc biệt là vùng da thừa mi trên (vùng này sẽ được peel với nồng độ dầu croton cao hơn, chẳng hạn như dầu croton 2% trong công thức cổ điển Baker-Gordon) hoặc bằng công thức Hetter áp dụng cho mi trên (nhưng đối với công thức này, sau khi peel thấy xuất hiện sương trắng, khu vực này sẽ tiếp tục được peel với tần suất và lực áp mạnh hơn).

Một phương pháp hiệu quả để thực hiện peel quanh mắt là sử dụng lưỡi dao Wambier-Simão, bản chất là một dụng cụ hãm lưỡi bằng gỗ chẻ đôi có đầu bông. Bề mặt ‘lưỡi dao’ này là một vùng có tiết diện rộng, không được mài bóng, nên có thể tạo áp lực và ma sát cao hơn các dụng cụ thông thường.

Bằng cách sử dụng ‘lưỡi dao’ Wambier-Simão và thực hiện các chuyển động (tay) lặp đi lặp lại khi peel, độ sâu của lớp peel thay đổi dựa theo: số lần áp dụng cụ peel lên da, áp lực tay và độ mài mòn da của dụng cụ peel. Tất nhiên, các khu vực được peel bằng lưới dao này sẽ lâu lành hơn bình thường (Hình. 15.3).

Hình. 15.3 Hình ảnh sau peel quanh mắt ở một bệnh nhân peel toàn mặt bằng 1,6% dầu croton trong 35% phenol. A, Trước peel. Cố tình peel tập trung vào vùng mi trên để tạo ra hiện tượng co kéo (mô cũng lâu lành hơn). B, Sau thủ thuật ngày thứ 10 (POD). C, Không thấy sẹo tại ngày thứ 30 sau thủ thuật
Hình. 15.3: Hình ảnh sau peel quanh mắt ở một bệnh nhân peel toàn mặt bằng 1,6% dầu croton trong 35% phenol. A, Trước peel. Cố tình peel tập trung vào vùng mi trên để tạo ra hiện tượng co kéo (mô cũng lâu lành hơn). B, Sau thủ thuật ngày thứ 10 (POD). C, Không thấy sẹo tại ngày thứ 30 sau thủ thuật

Peel vùng quanh mắt sẽ không thể ‘siết lại’ lượng da quá nhiều và cũng không thể điều trị các khối mỡ thừa phía dưới. Tuy nhiên, peel sâu vùng này có thể tương đương với một thủ thuật cắt mi dưới ‘mức độ nhẹ’ với ưu điểm là không để lại sẹo (Hình. 15.4).

Hình. 15.4 Vùng quanh mắt sau peel toàn mặt bằng 1,6% dầu croton trong 35% phenol. A, Trước đây. B, Cải thiện rõ rệt và mô được ‘siết chặt’ lại sau 1 năm theo dõi.
Hình. 15.4: Vùng quanh mắt sau peel toàn mặt bằng 1,6% dầu croton trong 35% phenol. A, Trước đây. B, Cải thiện rõ rệt và mô được ‘siết chặt’ lại sau 1 năm theo dõi.

Khi thực hiện peel quanh mắt, có thể chia thành các vùng riêng biệt để peel: (1) peel mi trên; (2) peel mi trên và dưới; (3) peel quanh ổ mắt – hay “the Raccoon”; (4) peel quanh ổ mắt + thái dương + da vùng lông mày và gian mày – hay “Mặt nạ Robin”; (5) và peel quanh mắt + thái dương + toàn bộ trán + gian mày + feathering đầu mũi và má — hay “El Zorro” (về cơ bản chỉ chừa lại vùng mặt dưới).

Hiện tại, công thức được tác giả sử dụng nhiều nhất cho da quanh mắt là công thức của Hetter (light formula), chứa dầu croton 0,4% trong phenol 35%, gần đây đã có chút thay đổi (thay Septisol (bị FDA cấm vì chứa triclosan) bằng Novisol (Young Pharmaceuticals, Inc.)). Nhũ tương được tạo bằng Novisol ổn định hơn so với nhũ được tạo bằng Septisol (Hình. 15.5 và 15.6). Một số trường hợp sẽ yêu cầu công thức mạnh hơn, chẳng hạn như công thức Hetter (heavy formula) chứa dầu croton 1,2% trong phenol 35%. Về độ ổn định của nhũ tương, tác giả khuyến cáo rằng lọ hoặc cốc được sử dụng trong quá trình peel phải hoàn toàn trong suốt để bác sĩ có thể quan sát xem hỗn hợp đã được nhũ tương hóa hoàn toàn hay chưa. Nên sử dụng cốc thủy tinh hoặc cốc Novisol Emulsivial, có nắp đậy để đóng chặt lọ (thuận tiện trong quá trình lắc) và đường kính nhỏ hơn, giúp giảm sự bay hơi của các hợp chất hữu cơ.

Hình. 15.5 Tính không ổn định của Septisol trong công thức Hetter phenol – dầu croton chứa croton 1,6% pha với phenol 35%. Lớp trên có màu trắng đục; lớp dưới có màu hơi vàng. Pha trộn theo công thức tạo ra một nhũ tương tạm thời và nhanh chóng phân tách trở lại thành hai lớp riêng biệt. Trong các nghiên cứu trên động vật được thực hiện tại Đại học Bang Ponta Grossa với sự hợp tác của Tiến sĩ Beltrame và nhóm các nhà nghiên cứu của ông tại Phòng thí nghiệm Liệu pháp Phytotherapy, cho thấy lớp dưới ‘hoạt động’, còn lớp trên thì không. Do đó, việc khuấy trước khi áp hỗn dịch vào da bệnh nhân là điều tối quan trọng. (Ảnh do John Kulesza, Young Pharmaceuticals, Inc.)
Hình. 15.5: Tính không ổn định của Septisol trong công thức Hetter phenol dầu croton chứa croton 1,6% pha với phenol 35%. Lớp trên có màu trắng đục; lớp dưới có màu hơi vàng. Pha trộn theo công thức tạo ra một nhũ tương tạm thời và nhanh chóng phân tách trở lại thành hai lớp riêng biệt. Trong các nghiên cứu trên động vật được thực hiện tại Đại học Bang Ponta Grossa với sự hợp tác của Tiến sĩ Beltrame và nhóm các nhà nghiên cứu của ông tại Phòng thí nghiệm Liệu pháp Phytotherapy, cho thấy lớp dưới ‘hoạt động’, còn lớp trên thì không. Do đó, việc khuấy trước khi áp hỗn dịch vào da bệnh nhân là điều tối quan trọng. (Ảnh do John Kulesza, Young Pharmaceuticals, Inc.)
Hình. 15.6 Cải thiện độ ổn định khi thay Septisol bằng Novisol trong công thức Hetter phenol- dầu croton. Nhũ tương ổn định trong suốt thời gian thực hiện quy trình. Điều này giúp cải thiện độ an toàn của quy trình vì duy trì được tính đồng nhất của hỗn dịch. Theo đó, khả năng tạo sương trắng cũng đồng đều hơn
Hình. 15.6: Cải thiện độ ổn định khi thay Septisol bằng Novisol trong công thức Hetter phenol- dầu croton. Nhũ tương ổn định trong suốt thời gian thực hiện quy trình. Điều này giúp cải thiện độ an toàn của quy trình vì duy trì được tính đồng nhất của hỗn dịch. Theo đó, khả năng tạo sương trắng cũng đồng đều hơn

PEEL NÂNG CUNG MÀY

Mặc dù vùng cơ của trán có thể săn chắc hơn sau peel sâu, nhưng trong trường hợp cần nâng mặt tự nhiên nhất thì có thể chỉ cần peel sâu từ nửa trên cung mày đến đoạn trên 2 cm phía trên lông mày.

Đây chính là vùng không nên tiêm botox vì nguy cơ sa cung mày tương đối lớn.

Một số bệnh nhân thường xuất hiện những nếp nhăn sâu ngang trán vì tình trạng sa cung mày cũng như da thừa mi trên khiến họ phải rướn mày lên thường xuyên. Vì vậy, BS phải chẩn đoán chính xác để có kế hoạch điều trị đầy đủ. Đôi khi, việc thăm khám trong trạng thái cơ trán thả lỏng hoàn toàn sẽ chỉ ra lý do dẫn tới tình trạng nhăn của bệnh nhân. Phẫu thuật treo cung mày thường chỉ có tác dụng trong một thời gian nhất định (da thừa sẽ liên tục hình thành), hoặc thậm chí tác dụng còn ngắn hơn đối với một số công nghệ không xâm lấn hoặc thủ thuật căng da mặt bằng chỉ. Các can thiệp phẫu thuật có thể để lại một vết sẹo dễ phát hiện trên lông mày hoặc ở da trán. Vì vậy, peel da bằng hóa chất có thể được chỉ định trong những trường hợp sa cung mày mức độ nhẹ và trung bình, và/hoặc khi da trán thực sự cần tái tạo bề mặt do nếp nhăn, với mong muốn cung mày được nâng lên thêm vài mm kèm theo.

Peel nâng cung mày thường được thực hiện kết hợp với peel cung mày thay vì chỉ thực hiện đơn lẻ (Hình. 15.7), và các vùng được đề cập có thể bị peel nhiều hơn. Rất hiếm khi peel nâng cung mày được thực hiện đơn lẻ vì thường sẽ để lại tình trạng bất đồng sắc tố da sau peel tại vùng trán, nhưng nếu biết cách thực hiện feathering tốt hoặc biết cách ‘điều chỉnh’ màu da sau peel, có thể chỉ cần peel nâng cung. Peel những vùng này tốt có thể tránh được chỉ định peel toàn mặt hoặc biến chứng khuôn mặt “El Zorro” trên cung mày.

Hình. 15.7 Trước và sau 4 tháng sau peel phenol 35% và dầu croton 1.6% vùng trán (quan sát thấy tình trạng giảm sắc tố giả tạo). Mí mắt và vết chân chim cũng được peel bằng dung dịch Jessner’s và axit trichloroacetic 35% (peel Jessner trước) cách đây 2 tuần vì bệnh nhân chỉ muốn xóa nếp nhăn trên trán là chính. Cung mày đã được nâng lên như mong muốn của BN
Hình. 15.7: Trước và sau 4 tháng sau peel phenol 35% và dầu croton 1.6% vùng trán (quan sát thấy tình trạng giảm sắc tố giả tạo). Mí mắt và vết chân chim cũng được peel bằng dung dịch Jessner’s và axit trichloroacetic 35% (peel Jessner trước) cách đây 2 tuần vì bệnh nhân chỉ muốn xóa nếp nhăn trên trán là chính. Cung mày đã được nâng lên như mong muốn của BN

Đối với nâng cung mày, công thức được tác giả sử dụng nhiều nhất là công thức Hetter heavy hoặc very heavy (Dầu croton 1,2% -1,6% pha với nhũ tương phenol 35%). Đối với công thức very heavy, thêm 4 mL Hetter heavy vào Novisol Emulsivial (6 mL nước / chất hoạt động bề mặt), để tạo thành 10 mL hỗn dịch. Hoặc, trộn vào cốc thủy tinh hỗn hợp gồm 4 mL Hetter heavy, 0,5 mL Novisol Cleanser và 5,5 mL nước cất.

Để giảm thể tích dung dịch sau pha, trộn 2 mL dd Hetter với 3 mL hỗn hợp sau: 0,25 mL Novisol Cleanser và 2,75 mL nước cất (tổng 5 mL). Để pha 25 mL dd Hetter, trộn 24 mL phenol 88% với 1 mL dầu croton. Dung dịch Hetter không được sử dụng khi chưa pha loãng trên bề mặt da thông thường.

=> Đọc thêm: KẾT HỢP PEEL DA VÀ LĂN KIM TRONG ĐIỀU TRỊ SẸO MỤN.

PEEL MÔI

Dung dịch này cũng có thể được sử dụng để peel môi, được chỉ định như một thủ thuật độc lập hoặc kết hợp với peel toàn mặt hoặc peel từng khu vực (quanh miệng). Ngoài tiêm HA, môi cũng có thể tăng thể tích bằng cách áp dụng peel nhằm kích thích tăng sinh collagen. Cách này đồng thời giải quyết các thay đổi bề mặt liên quan đến tổn thương da mạn tính do ánh sáng (nếp nhăn sâu và dày sừng quang hóa). Ngoài ra, bằng cách thu nhỏ vùng niêm mạc khô của môi theo chiều dọc, mép môi sẽ lộn ra ngoài (trẻ trung hơn).

Môi là một trong số ít vùng trên khuôn mặt có thể peel ‘thoải mái’ mà không cần feathering, vì màu môi được phân biệt rõ ràng so với các vùng xung quanh. Tuy nhiên, nếu dùng feathering và/hoặc kết hợp peel quanh miệng, mép môi sẽ cong lên nhiều hơn do vùng da quanh miệng co lại sẽ cộng hưởng hiệu ứng.

Đối với peel môi, tác giả sử dụng công thức Hetter heavy hoặc very heavy.

Sơ đồ peel các khu vực chính được mô tả trong Hình. 15,8. Peel kiểu “mặt nạ Robin” kết hợp với peel môi tiêu chuẩn được minh họa trong Hình. 15.9, và tiến triển điển hình sau peel môi được minh họa trong Hình. 15,10.

Hình. 15.8 Sơ đồ các khu vực quan trọng nhất cần được peel nhiều để da có thể ‘co lại’ như ý muốn (sơn màu), và các khu vực bổ trợ xung quanh cũng góp phần tạo ra hiệu ứng co ‘gián tiếp’ (các đường kẻ dọc màu vàng xung quanh). Đối với nâng cung mày mức độ nhẹ: nửa trên của lông mày và vùng trán với vùng bên rộng hơn, với vùng bổ trợ trước-thái dương tương ứng. Đối với mí mắt trên căng / co lại: khu vực ẩn trong sulcus (khu vực rộng hơn khi nhắm mắt) nên được bóc nhiều hơn để có hiệu quả tẩy trắng. Vùng bổ trợ là phần còn lại của mi trên. Để làm hết thâm môi, vùng cần được bóc tách quan trọng nhất là phần viền môi đến màu đỏ son. Phần bên trong của màu đỏ son (gần đường khô-ướt) thực sự gây ra một số đảo ngược của môi nhưng tiếp tục góp phần làm tăng thể tích bằng cách tân sinh. Đối với eversion, phần bên ngoài của môi được lột ra, để lại phần bên trong mà không bị bong tróc. Vùng bổ trợ khoảng 1 cm quanh môi / vùng quanh miệng
Hình. 15.8: Sơ đồ các khu vực quan trọng nhất cần được peel nhiều để da có thể ‘co lại’ như ý muốn (sơn màu), và các khu vực bổ trợ xung quanh cũng góp phần tạo ra hiệu ứng co ‘gián tiếp’ (các đường kẻ dọc màu vàng xung quanh). Đối với nâng cung mày mức độ nhẹ: nửa trên của lông mày và vùng trán với vùng bên rộng hơn, với vùng bổ trợ trước-thái dương tương ứng. Đối với mí mắt trên căng/co lại: khu vực ẩn trong sulcus (khu vực rộng hơn khi nhắm mắt) nên được bóc nhiều hơn để có hiệu quả tẩy trắng. Vùng bổ trợ là phần còn lại của mi trên. Để làm hết thâm môi, vùng cần được bóc tách quan
trọng nhất là phần viền môi đến màu đỏ son. Phần bên trong của màu đỏ son (gần đường khô-ướt) thực sự gây ra một số đảo ngược của môi nhưng tiếp tục góp phần làm tăng thể tích bằng cách tân sinh. Đối với eversion, phần bên ngoài của môi được lột ra, để lại phần bên trong mà không bị bong tróc. Vùng bổ trợ khoảng 1 cm quanh môi / vùng quanh miệng
Hình. 15.9 Sương trắng điển hình tại viền môi (sử dụng lưỡi dao Wambier- Simão đã được ngâm với dầu croton 1,2% pha với phenol 35% trong vòng 1s). Bệnh nhân này đang được phủ 1 lớp thạch petrolatum ở mi trên hai bên
Hình. 15.9: Sương trắng điển hình tại viền môi (sử dụng lưỡi dao Wambier- Simão đã được ngâm với dầu croton 1,2% pha với phenol 35% trong vòng 1s). Bệnh nhân này đang được phủ 1 lớp thạch petrolatum ở mi trên hai bên
Hình. 15.10 Trước, sau 7 ngày và 3 ngày sau peel môi với mục đích cải thiện đường viền môi ở một bệnh nhân nam với công thức Hetter heavy: 1 mL phenol 88% + 3 mL dd Hetter + 0,5 mL Novisol Cleanser + 5,5 mL nước cất
Hình. 15.10: Trước, sau 7 ngày và 3 ngày sau peel môi với mục đích cải thiện đường viền môi ở một bệnh nhân nam với công thức Hetter heavy: 1 mL phenol 88% + 3 mL dd Hetter + 0,5 mL Novisol Cleanser + 5,5 mL nước cất

CHĂM SÓC SAU THỦ THUẬT

Kem bôi Petrolatum (Vaseline) bôi ngay sau thủ thuật và trong suốt tuần đầu tiên. Tác giả thường kê đơn một loại thạch dạng nước có chứa chlorhexidine (K-Y) trong 1 đến 2 ngày đầu tiên, sau khi đã test cả trong giai đoạn phù ban đầu và giai đoạn tiết dịch. K-Y trước đây được các bác sĩ nhãn khoa sử dụng trong quá trình đặt thủy tinh thể trong thủ thuật nhãn khoa. Chúng về cơ bản không gây tác dụng phụ ở mắt, có thể do nồng độ chlorhexidine gluconate thấp, và đây cũng có thể là lý do nó được sử dụng trong các dung dịch sát trùng kính áp tròng và thuốc nhỏ mắt điều trị loét giác mạc. (29)

Bệnh nhân thường không cần bóc vảy da nếu giữ ẩm và giữ vệ sinh da bằng cách chườm (có lực nén) và rửa mặt. Tuy nhiên, nếu cần bóc thì phải làm hết sức nhẹ nhàng để không làm tổn thương lớp biểu bì đang lành hoặc lớp trung bì mỏng manh. Áp nhẹ nhàng lên da bằng nước muối hoặc nước kìm khuẩn sẽ hỗ trợ việc bóc vảy da tại phòng khám nếu cần (Hình. 15.11).

Hình. 15.11 Loại bỏ vảy ở vùng mi trên sau peel trung bình và peel sâu quanh mắt bằng dd chứa 0,8% dầu croton pha trong 35% phenol (2 mL phenol 88% + 2 mL dd Hetter + 0,5 mL Novisol Cleanser + 5,5 mL nước cất)
Hình. 15.11: Loại bỏ vảy ở vùng mi trên sau peel trung bình và peel sâu quanh mắt bằng dd chứa 0,8% dầu croton pha trong 35% phenol (2 mL phenol 88% + 2 mL dd Hetter + 0,5 mL Novisol Cleanser + 5,5 mL nước cất)

KẾT LUẬN

Dầu biết việc nâng cao kiến thức và kỹ năng peel sâu là cả một hành trình dài, nhưng đây là một quy trình mang lại kết quả tái tạo bề mặt tuyệt vời nếu được thực hiện đúng. BS nên tham gia các khóa đào tạo liên tục, cầm tay chỉ việc và các workshop về peel da để thực hiện kỹ năng này một cách chính xác.

=> Tham khảo: Biến chứng có thể gặp sau liệu pháp tái tạo da bằng hóa chất.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Hetter GP. An examination of the phenol-croton oil peel: PHẦN I. Dissecting the formula. Plast Reconstr Surg. 2000a;105:227-251.
  2. Hetter GP. An examination of the phenol-croton oil peel: PHẦN II. The lay peelers and their croton oil formulas. PlastReconstr Surg. 2000b;105:240-251.
  3. Hetter GP. An examination of the phenol-croton oil peel: PHẦN III. The plastic surgeons’ role. Plast Reconstr Surg. 2000c;105:752-763.
  4. Hetter GP. An examination of the phenol-croton oil peel: PHẦN IV. Face peel results with different concen- trations of phenol and croton oil. Plast Reconstr Surg.2000d;105:1061-1083; discussion 1084-1087.
Trả lời (Quy định duyệt bình luận)

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

The maximum upload file size: 1 MB. You can upload: image. Drop file here