Hiển thị tất cả 2 kết quả

Norepinephrine

Danh pháp

Tên chung quốc tế

Norepinephrine

Tên danh pháp theo IUPAC

4-[(1R)-2-amino-1-hydroxyethyl]benzene-1,2-diol

Nhóm thuốc

Norepinephrine là thuốc gì? Tác nhân adrenergic và dopaminergic

Mã ATC

C – Hệ tim mạch

C01 – Điều trị tim mạch

C01C – Loại trừ thuốc kích thích tim Glycosides tim

C01CA – Tác nhân adrenergic và dopaminergic

C01CA03 – Norepinephrin

Mã UNII

X4W3ENH1CV

Mã CAS

51-41-2

Cấu trúc phân tử

Công thức phân tử

C8H11NO3

Phân tử lượng

169.18 g/mol

Đặc điểm cấu tạo

Norepinephrine là đồng phân R của noradrenaline. Epinephrine và norepinephrine có cấu trúc khác nhau ở chỗ epinephrine có nhóm methyl gắn với nitơ, trong khi nhóm methyl được thay thế bằng nguyên tử hydro trong norepinephrine. Norepinephrine có chứa một nửa catechol và chuỗi bên etylamin.

Mô hình bóng và que

Mô hình que và cầu của phân tử Norepinephrine
Mô hình que và cầu của phân tử Norepinephrine

Các tính chất phân tử

Số liên kết hydro cho: 4

Số liên kết hydro nhận: 4

Số liên kết có thể xoay: 2

Diện tích bề mặt cực tôpô: 86,7

Số lượng nguyên tử nặng: 12

Số lượng nguyên tử trung tâm xác định được: 1

Liên kết cộng hóa trị: 1

Tính chất

Norepinephrine tồn tại dạng chất rắn, vi tinh thể không màu.

Điểm nóng chảy : 217 °C

Ít tan trong nước , etanol , dietyl ete, hòa tan nhiều trong kiềm, axit clohydric loãng

Dạng bào chế

Dung dịch tiêm

Bột pha tiêm

Dạng bào chế Norepinephrine
Dạng bào chế Norepinephrine

Nguồn gốc

Đầu thế kỷ 20, Walter Cannon và đồng nghiệp của ông là Arturo Rosenblueth đã tìm và nghiên cứu về hệ thống giao cảm và lý thuyết về 2 loại giao cảm là kích thích giao cảm và ức chế giao cảm. Năm 1934-1938 Dược sĩ người Bỉ Zénon Bacq cho rằng noradrenaline có thể là một chất dẫn truyền giao cảm. Năm 1939, Peter Holtz, Hermann Blaschko xác định cơ chế sinh tổng hợp norepinephrine. Năm 1945, Ulf von Euler xuất bản bài báo đầu tiên khẳng định vai trò dẫn truyền thần kinh của norepinephrine. Stanley Peart là người đầu tiên chứng minh sau khi kích thích dây thần kinh giao cảm dẫn tới sự giải phóng noradrenaline.

Dược lý và cơ chế hoạt động

Norepinephrine có tác dụng gây co mạch so tác động lên cả thụ thể adrenergic alpha-1,2. Norepinephrine hoạt động beta2 hoặc alpha2 rất ít. Norepinephrine làm tăng sức cản mạch phụ thuộc vào liều lượng và làm tăng kích hoạt thụ thể alpha1 sẽ dẫn đến co mạch. Norepinephrine cũng có tác dụng gây giãn động mạch và kích thích co bóp của tim do cơ chế tác dụng của nó lên các beta-adrenalin.

Dược động học

Hấp thu

Norepinephrine thuốc khi dùng theo đường truyền tĩnh mạch thì đạt trạng thái ổn định trong 5 phút. Khi dùng đường uống Norepinephrine bị phá hủy bởi đường tiêu hóa và hấp thu kém nếu dùng theo đường tiêm dưới da. Sau khi tiêm tĩnh mạch, Norepinephrine tạo ra tác dụng nhanh chóng và tác dụng tăng huyết áp sẽ ngừng lại nhanh chóng sau 1-2 phút sau khi ngưng truyền Norepinephrine

Chuyển hóa

Norepinephrine bị chuyển hóa ở các đầu của ngọn dây thần kinh giao cảm, Norepinephrine được chuyển hóa tại gan nếu dùng theo đường uống. Các chất chuyển hóa chính của Norepinephrine là Normetanephrine và axit mandelic 3-methoxy-4-hydroxy, các chất chuyển hóa này đều không có hoạt tính sinh học. Ngoài ra các chất chuyển hóa không có hoạt tính sinh học khác bao gồm 3,4-dihydroxyphenylglycol, axit 3,4-dihydroxymandelic, 3-methoxy-4-hydroxyphenylglycol.

Phân bố

Norepinephrine có thể tích phân bố biểu kiến khoảng 8,8 Lít và tỷ lệ liên kết với protein huyết tương là 25%. Norepinephrine có khả năng đ qua hàng rào nhau thai nhưng không có khả năng đi qua hàng rào máu não

Thải trừ

Norepinephrine và các chất chuyển hóa được bài tiết dưới dạng nước tiểu, trong đó chủ yếu là dưới dạng chất chuyển hóa

Ứng dụng trong y học

  • Norepinephrine có tác dụng gì? Norepinephrine là thuốc co mạch ngoại biên được dùng trong điều trị cho bệnh nhân ở trạng thái sốc giãn mạch như sốc thần kinh, sốc nhiễm trùng
  • Norepinephrine được dùng trong kiểm soát tình trạng hạ huyết áp
  • Dùng Norepinephrine như 1 biện pháp hỗ trợ bổ sung cho điều trị tình trạng hạ huyết áp nặng hay ngừng tim
  • Ngoài ra Norepinephrine còn được dùng chất hoạt mạch.

Tác dụng phụ

Các tác dụng phụ thường gặp của Norepinephrine liên quan đến tác dụng kích thích trực tiếp các thụ thể alpha ngoài ra tác dụng co mạch quá mức của Norepinephrine có thể dẫn đến tình trạng giảm tưới máu tới các cơ quan chủ yếu do dùng Norepinephrine theo đường truyền mà không điều trị giảm thể tích máu thích hợp do đó có thể làm giảm khả năng sử dụng oxy của cơ thể.

Norepinephrine có thể gây cản mạch máu phổi tăng thứ phát và để lại di chứng tiêu cực ở bệnh nhân bị tăng huyết áp phổi, giảm lưu lượng máu qua gan.

Ngoài ra các tác dụng phụ khác của Norepinephrine bao gồm: chậm phản xạ giảm cung lượng tim, tăng sức cản mạch hệ thống, tăng công việc cho tim, sốc tim

Độc tính ở người

Tình trạng độc tính toan fthaan của Norepinephrine biểu hiện ở việc tăng huyết áp không kiểm sát được và tình trạng thiếu máu cục bộ tới các cơ quan đích. Tình trạng thoát mạch xung quanh mô có thể gây thiếu máu cục bộ tới các mô và thậm chí là hoại tử. Trong trường hợp độc tính do dùng quá liều Norepinephrine cần tiến hành cho bệnh nhân truyền dung dịch muối 10 đến 15 mL chứa 5 đến 10 mg phentolamine trong vòng 12 giờ

Tương tác với thuốc khác

  • Sử dụng norepinephrine cùng với albuterol có thể làm tăng tác dụng phụ về tim mạch như tăng nhịp tim và huyết áp hoặcloạn nhịp tim
  • Việc sử dụng đồng thời levothyroxine cùng với norepinephrine có thể gây tăng nguy cơ mắc các tác dụng phụ về tim mạch như huyết áp cao, đánh trống ngực, đau ngực và nhịp tim không đều
  • Thuốc chẹn beta như metoprolol có thể làm giảm tác dụng của thuốc vận mạch như norepinephrine.
  • Norepinephrine dùng đồng thời với thuốc chống trầm cảm loại amitriptyline và imipramine, thuốc ức chế monoamine oxidase có thể dẫn đến tăng huyết áp nặng và kéo dài.

Tính an toàn

  • Phụ nữ có thai: Một vài nghiên cứu đã chứng minh rằng Norepinephrine khi dùng cho phụ nữ có thai không gây sẩy thai hay độc tính cho mẹ bầu đồng thời việc trì hoãn dùng Norepinephrine có thể gây tăng nguy cơ tử vong và nhiễm trùng cho cả mẹ và bé vì vậy nên xem xét việc dùng Norepinephrine cho phụ nữ có thai.
  • Norepinephrine khi dùng qua đường uống hầu như không được bài tiết đáng kể vào sữa mẹ còn khi dùng đường tiêm Norepinephrine có thể gây giảm khả năng tiết sữa ở mẹ cho con bú vì vậy chỉ dùng Norepinephrine khi có chỉ định của bác sĩ.

Chống chỉ định

  • Không dùng Norepinephrine để điều trị hạ huyết áp
  • Tránh dùng Norepinephrine ở bệnh nhân bị bị huyết khối mạch máu mạc treo hoặc ngoại biên

Lưu ý khi sử dụng

  • Trong quá trình dngf Norepinephrine, bệnh nhân nên được theo dõi tình trạng huyết áp thường xuyên
  • Khi dùng Norepinephrine ở liều thấp để có tác dụng tăng co bóp thì nên cho bệnh nhân điều chỉnh liều dùng thông qua cung lượng tim của bệnh nhân
  • Khuyến khích truyền norepinephrine qua ống thông tĩnh mạch ngoại biên cỡ lớn hoặc ống thông tĩnh mạch trung tâm
  • Trong quá trình truyền Norepinephrine nếu bệnh nhân gặp tình trạng thoát mạch thì nên ngừng truyền Norepinephrine ngay lập tức, nếu việc truyền được tiếp tục cần đảm bảo truyền ở vị trí khác tốt nhất là ở 1 chi khác
  • Norepinephrine khi dùng cho bệnh nhân chưa được hồi sức thích hợp có thể làm trầm trọng hơn tình trạng giảm tổng thể lâm sàng và thiếu máu cục bộ
  • Khi dùng Norepinephrine cho bệnh nhân suy gan, thận: không cần điều chỉnh liều dùng.

So sánh Adrenalin và Noradrenalin

Giống nhau

  • Đều là những chất thuộc nhóm hợp chất catecholamine
  • Đều có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương
  • Đều hoạt động trên thụ thể alpha, beta

Khác nhau

Adrenalin Noradrenalin
Định nghĩa Là hormone chính được tiết ra bởi tủy thượng thận Là chất dẫn truyền thần kinh chính của dây thần kinh giao cảm trong hệ thống tim mạch
Cơ chế Có tác dụng nhiều hơn đối với tim, Adrenaline kích hoạt cả thụ thể adrenergic alpha và beta , làm tăng quá trình trao đổi chất để phòng ngừa cơ thể bị căng thẳng hoặc nguy hiểm Có tác dụng nhiều hơn với mạch máu, noradrenaline chỉ kích hoạt thụ thể alpha adrenergic, đảm nhận cho những thay đổi phản xạ trong trương lực tim mạch.
Ứng dụng trong y học Adrenalin được dùng chủ yếu trong điều trị sốc phản vệ, tim ngừng dập, cơn hen nặng Được dùng trong điều trị huyết áp thấp, giúp điều trị trầm cảm
Sinh tổng hợp Được tổng hợp từ noradrenaline Được tổng hợp từ dopamine
Cấu tạo hóa học Adrenaline chứa một nhóm methyl gắn với nitơ Noradrenaline chứa hydrogens gắn với nitơ

Một vài nghiên cứu của Norepinephrine trong Y học

Norepinephrine trong sốc nhiễm trùng: Đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp

Norepinephrine in Septic Shock_ A Systematic Review and Meta-analysis
Norepinephrine in Septic Shock_ A Systematic Review and Meta-analysis

Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định tính hiệu quả và an toàn của norepinephrine ở bệnh nhân sốc nhiễm trùng. Nghiên cứu tiến hành trên 11 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng với tổng số 4.803 người tham gia. Các bệnh nhân được phân ngẫu nhiên thành 2 nhóm, 1 nhóm cho dùng Norepinephrine và 1 nhóm cho dùng các thuốc vận mạch khác. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc nhồi máu cơ tim và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân trong 90 ngày giữa norepinephrine và thuốc vận mạch. Từ đó kết luận rằng norepinephrine giảm thiểu sự xuất hiện của rối loạn nhịp tim vượt trội hơn các thuốc vận mạch khác và an toàn khi sử dụng trong sốc nhiễm trùng.

Bằng chứng cho cá nhân hóa việc sử dụng sớm norepinephrine trong sôc nhiễm trùng

Tác giả: Xavier Monnet1*, Christopher Lai1, Gustavo Ospina-Tascon23 and Daniel De Backer4

Tải file PDF Tại đây.

Tóm tắt

Trong quá trình sốc nhiễm trùng, việc truyền thuốc vận mạch thường chỉ được bắt đầu sau khi đã điều chỉnh giảm thể tích máu của suy tuần hoàn, ngay cả ở những bệnh nhân nặng nhất. Tuy nhiên, việc sử dụng norepinephrine sớm hơn, đồng thời với hồi sức truyền dịch, nên được xem xét trong một số trường hợp. Thời gian và mức độ hạ huyết áp làm nặng thêm kết cục ở bệnh nhân sốc nhiễm trùng. Tuy nhiên, phản ứng của áp lực động mạch đối với sự tăng thể tích là không ổn định, chậm trễ và tạm thời. Trong trường hợp nặng, hạ huyết áp đe dọa tính mạng, chỉ cần truyền dịch để phục hồi huyết áp có thể kéo dài quá mức tình trạng hạ huyết áp và giảm tưới máu cơ quan. Ngược lại, norepinephrine giúp tăng nhanh và ổn định huyết áp tốt hơn. Bằng cách liên kết các thụ thể adrenergic tĩnh mạch, nó chuyển đổi một phần thể tích máu không bị căng thẳng thành thể tích máu bị căng thẳng. Nó làm tăng áp lực đổ đầy hệ thống trung bình và tăng áp lực đổ đầy hệ thống trung bình do dịch truyền gây ra, như đã thấy ở bệnh nhân sốc nhiễm trùng. Điều này có thể cải thiện tưới máu cơ quan đích, như được thể hiện trong một số nghiên cứu trên động vật. Hai nghiên cứu quan sát so sánh việc sử dụng norepinephrine sớm và muộn ở bệnh nhân sốc nhiễm trùng sử dụng điểm xu hướng cho thấy rằng sử dụng sớm làm giảm lượng dịch truyền và tỷ lệ tử vong trong ngày thứ 28. Ngược lại, trong một nghiên cứu dựa trên điểm xu hướng khác, việc sử dụng norepinephrine trong vòng một giờ đầu tiên sau chẩn đoán sốc đã làm tăng tỷ lệ tử vong vào ngày thứ 28. Nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng duy nhất so sánh việc sử dụng sớm norepinephrine đơn thuần với giả dược cho thấy rằng việc sử dụng norepinephrine liên tục sớm với liều cố định 0,05 pg/kg/phút, có thêm norepinephrine trong nhãn mở, cho thấy việc kiểm soát sốc có hiệu quả. đạt được thường xuyên hơn so với nhóm dùng giả dược. Việc lựa chọn bắt đầu sử dụng norepinephrine sớm phải phù hợp với tình trạng của bệnh nhân. Một cách hợp lý, trước tiên nó nên được giải quyết cho những bệnh nhân bị hạ huyết áp nặng, khi trương lực động mạch rất thấp, được gợi ý bởi huyết áp tâm trương thấp (ví dụ 40 mmHg), hoặc bởi chỉ số sốc tâm trương cao (nhịp tim/huyết áp tâm trương). ) (ví dụ > 3). Việc sử dụng sớm norepinephrine cũng nên được xem xét ở những bệnh nhân có khả năng tích tụ chất lỏng hoặc ở những người mà sự tích tụ chất lỏng sẽ đặc biệt nguy hiểm (ví dụ như trong trường hợp hội chứng suy hô hấp cấp tính hoặc tăng áp lực ổ bụng).

Nền tảng

Trong quá trình sốc nhiễm trùng, thuốc vận mạch, đầu tiên và trước hết là norepinephrine, được sử dụng để khôi phục áp lực tưới máu mô. Trong một thời gian dài, quy tắc là chỉ bắt đầu dùng thuốc vận mạch sau khi điều chỉnh thành phần giảm thể tích máu của suy tuần hoàn, ngay cả ở hầu hết những bệnh nhân nặng. Tuy nhiên, nên cân nhắc bắt đầu dùng norepinephrine sớm hơn, đồng thời với truyền dịch hồi sức. Bắt đầu dùng đường truyền ngoại vi có thể tránh được sự chậm trễ trong việc sử dụng norepinephrine, như đã được ghi nhận trong hướng dẫn Chiến dịch sống sót trong nhiễm trùng huyết. Vì thái độ này là an toàn khi sử dụng liều thấp , câu hỏi thực sự là: lợi ích của việc bắt đầu sử dụng norepinephrine sớm là gì?.

Chỉ dùng thuốc vận mạch sớm mới có thể nhanh chóng điều chỉnh tình trạng hạ huyết áp nghiêm trọng

Thời gian và mức độ hạ huyết áp có liên quan chặt chẽ đến kết quả xấu trong sốc nhiễm trùng. Việc tăng thể tích có thể gây ra các phản ứng thay đối về huyết áp, thứ nhất là do tác động của nó lên thể tích nhát bóp là không ốn định, chậm và tạm thời, thứ hai là do độ đàn hồi của động mạch, yếu tố xác định mối quan hệ giữa những thay đối do chất lỏng gây ra trong dòng chảy và áp lực động mạch, là khác nhau. Trong trường hợp hạ huyết áp nặng, đe dọa tính mạng, việc chỉ dựa vào dịch truyền để phục hồi huyết áp có thể kéo dài tình trạng hạ huyết áp quá mức và hậu quả là giảm tưới máu cơ quan. Ngược lại, norepinephrine làm tăng nhanh áp lực động mạch, liều lượng của nó được điều chỉnh theo mục tiêu huyết áp (Tệp bố sung 1: Hình S1).

Dịch và norepinephrine làm tăng cung lượng tim một cách hiệp lực

Bằng cách liên kết với các thụ thể adrenergic tĩnh mạch, norepinephrine chuyển đối một phần thể tích máu không bị căng thẳng thành thể tích máu bị căng thẳng. Do đó, nó làm tăng áp lực đố đầy hệ thống trung bình (Pmsf), áp lực ngược dòng hồi lưu tĩnh mạch hệ thống. Tác dụng giống như chất lỏng này đã được chứng minh ở bệnh nhân sốc nhiễm trùng hoặc sau phẫu thuật tim. Sự gia tăng Pmsf này dẫn đến sự gia tăng đáng kể về tiền tải của tim , trong trường hợp đáp ứng tiền tải, sẽ làm tăng đáng kể cung lượng tim.

Sau khi bắt đầu, norepinephrine thậm chí có thể làm tăng hiệu quả của việc truyền dịch trong tương lai. Một khi bể chứa tĩnh mạch bị co lại bởi norepinephrine, lượng dịch truyền vào sẽ làm tăng thể tích máu bị căng thẳng hơn so với khi nó lan ra trong hệ thống tĩnh mạch bị giãn. Ớ những bệnh nhân sốc nhiễm trùng, tác động lên Pmsf của việc nâng chân thụ động, bắt chước tác động của thử thách truyền dịch, ở liều cao hơn so với liều norepinephrine thấp hơn. Những tác dụng hiệp đồng này của norepinephrine và dịch truyền có thể làm giảm tống lượng dịch cần thiết để hồi sức ban đầu cho sốc nhiễm trùng, vốn có liên quan đến việc tăng tỷ lệ tử vong.

Đối với sự phối hợp liên quan đến tiền tải này giữa norepinephrine và dịch, sự cải thiện cung lượng tim có thể được bố sung thông qua việc tăng khả năng co bóp của tim, có thể liên quan đến kích thích beta-adrenergic hoặc cải thiện tưới máu mạch vành .

Tất nhiên, câu hỏi cuối cùng là liệu norepinephrine sớm có cải thiện tưới máu mô và/hoặc chức năng cơ quan hay không. Chỉ có dữ liệu thử nghiệm có sẵn. Trong hai nghiên cứu trên động vật bị sốc nội độc tố, việc sử dụng norepinephrine sớm vào truyền dịch đã cải thiện cung lượng tim, tăng lưu lượng máu vi mạch ruột và làm giảm mức tăng lactate.

Dùng norepinephrine sớm trong quá trình sốc nhiễm trùng có thể cải thiện kết quả lâm sàng

Trong số các nghiên cứu quan sát so sánh việc sử dụng norepinephrine sớm và muộn, có ba điếm xu hướng được sử dụng. Ospina-Tascon và cộng sự. và Xu và cộng sự cho thấy rằng sử dụng norepinephrine sớm (tương ứng < 1 giờ và < 3 giờ sau khi chẩn đoán sốc) làm giảm thế tích dịch truyền và tỷ lệ tử vong vào ngày 28.

Ngược lại, trong một nghiên cứu dựa trên điểm số xu hướng khác, việc sử dụng norepinephrine trong vòng một giờ đầu tiên sau chấn đoán sốc đã làm tăng tỷ lệ tử vong vào ngày 28. Sự khác biệt chính với nghiên cứu của Ospina-Tascon et al. là ở phần sau, tưới máu mô và khả năng đáp ứng tải trước đã được đánh giá.

Cho đến nay, chỉ có một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng so sánh việc sử dụng sớm norepinephrine đơn thuần với việc sử dụng đồng thời giả dược . Permpikul và cộng sự. ngẫu nhiên 310 bệnh nhân sốc nhiễm trùng được sử dụng liên tục norepinephrine sớm với liều cố định 0,05 pg/kg/phút so với giả dược. Nếu huyết áp không được phục hồi, cho phép sử dụng norepinephrine nhãn mở ở cả hai nhóm. Trong nhóm “norepinephrine sớm”, kết cục chính, tức là kiểm soát sốc trong 6 giờ đầu, đạt được thường xuyên hơn so với nhóm còn lại

Trong nghiên cứu CLOVERS gần đây, bệnh nhân được chỉ định sử dụng chiến lược hạn chế dịch (ưu tiên thuốc vận mạch và lượng dịch thấp hơn) hoặc chiến lược dịch truyền tự do (ưu tiên lượng dịch cao hơn trước khi sử dụng thuốc vận mạch) trong 24 giờ. Không có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong vào ngày 90. Tuy nhiên, nghiên cứu này không thử nghiệm việc sử dụng norepinephrine sớm một cách riêng biệt. 1/5 số bệnh nhân được dùng thuốc vận mạch tại thời điểm ngẫu nhiên, và tỷ lệ này chỉ tăng lên 59% ở nhóm trị liệu bằng dịch truyền hạn chế và 37% ở nhóm điều trị tự do. Do đó, không có bằng chứng chắc chắn từ các thử nghiệm ngẫu nhiên rằng sử dụng sớm giúp cải thiện khả năng sống sót, nhưng hầu hết dữ liệu thu thập được cho đến nay ít nhất cho thấy phương pháp này an toàn.

Làm thế nào để tối ưu hóa thời gian sử dụng norepinephrine
Làm thế nào để tối ưu hóa thời gian sử dụng norepinephrine

Hình 1 Làm thế nào để tối ưu hóa thời gian sử dụng norepinephrine. Sơ đồ gợi ý để quyết định thòi điếm sử dụng norepinephrine. DAP: Huyết áp tâm trương, HR/DAP: tỷ lệ giữa nhịp tim và DAP

Thời điểm dùng norepinephrine nên được cá nhân hóa

Từ những tác dụng dự đoán của việc sử dụng sớm norepinephrine, trước tiên nên sử dụng thuốc này ở những bệnh nhân bị hạ huyết áp nặng mặc dù chưa có định nghĩa thống nhất về mức độ. Mặt khác, nó nên được sử dụng ở những bệnh nhân có trương lực động mạch rất thấp, như huyết áp tâm trương thấp (ví dụ 40 mmHg) hoặc chỉ số sốc tâm trương cao (nhịp tim/huyết áp tâm trương) (ví dụ > 3) . Tính toán độ đàn hồi của động mạch có thể xác định những bệnh nhân cần dùng norepinephrine để điều chỉnh tình trạng hạ huyết áp, nhưng phương pháp này yêu cầu máy theo dõi cung lượng tim mà không có sẵn ở giai đoạn hồi sức sớm.

Việc sử dụng sớm norepinephrine cũng nên được xem xét ở những bệnh nhân đã xảy ra tích tụ dịch trước khi hạ huyết áp, có khả năng xảy ra (bệnh nhân vô niệu, đã nhận một lượng lớn dịch truyền trước khi hạ huyết áp xảy ra), hoặc những người mà sự tích tụ dịch sẽ đặc biệt có hại. (ví dụ: trong trường hợp hội chứng suy hô hấp cấp tính, suy thất trái hoặc phải hoặc tăng áp trong 0 bụng) (Hình 1). Việc sử dụng norepinephrine nên đi đôi với việc truyền dịch hợp lý, dựa trên nhu cầu sinh lý và đánh giá khả năng đáp ứng tiền tải, như trong nghiên cứu của Ospina Tasconetal. (Hình1).

Kết luận

Sử dụng sớm norepinephrine trong quá trình sốc có thể hợp lý ở những bệnh nhân bị liệt mạch nặng và/hoặc có nguy cơ quá tải dịch cao, cùng với chiến lược truyền dịch được cá nhân hóa.

Tài liệu tham khảo

  1. Thư viện y học quốc gia, Norepinephrine , pubchem. Truy cập ngày 05/10/2023.
  2. Matthew D. Smith ; Christopher V. Maani, Norepinephrine ,pubmed.com. Truy cập ngày 05/10/2023.
  3. Muhammad Azfar Ruslan , Kamarul Aryffin Baharuddin (2021) Norepinephrine in Septic Shock: A Systematic Review and Meta-analysis , pubmed.com. Truy cập ngày 05/10/2023.
Được xếp hạng 5.00 5 sao
(1 đánh giá) 0 đ
Dạng bào chế: Dung dịch tiêmĐóng gói: Hộp 10 ống nhựa x 1ml

Thương hiệu: Công ty Cổ phần Dược Phẩm Trung Ương CPC1

Xuất xứ: Việt Nam

Được xếp hạng 5.00 5 sao
(1 đánh giá) 1.120.000 đ
Dạng bào chế: Dung dịch đậm đặc để tiêm hoặc tiêm truyền tĩnh mạchĐóng gói: Hộp 10 ống x 4ml

Thương hiệu: Laboratoire Aguettant

Xuất xứ: Pháp