Bài viết TRIỆU CHỨNG HỌC XQUANG NGỰC TRONG BỆNH PHỔI – Tải file PDF Tại đây
Tác giả: TS. BS. NGUYỄN VĂN THÀNH – Giảng viên, ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ
KHÁI NIỆM CƠ BẢN
HÌNH ẢNH – MÔ TẢ VÀ Ý NGHĨA
Triệu chứng Hình ảnh học (Imagery) là triệu chứng mô tả, không nên ám chỉ bệnh lý khi chưa kết hợp với các yếu tố triệu chứng học khác để suy diễn căn nguyên.
Phân tích triệu chứng hình ảnh học cần liên hệ với đặc điểm bệnh học (pathology) và giải phẫu học (anatomy) để giải thích hình ảnh.
Nên sử dụng thuật ngữ đã “quốc tế hóa” và xem đó là chuẩn mà không tùy tiện đặt ra các thuật ngữ mới, nhất là khi đã có thuật ngữ phổ biến được sử dụng.
Xquang là ngành hình ảnh học y học.
Gọi là Xquang ngực mà không gọi là Xquang tim-phổi
HÌNH ẢNH VÀ CƠ CHẾ HÌNH THÀNH TỔN THƯƠNG LIÊN QUAN
TƯ THẾ CHỤP
-ngực, lớn hơn 2:1 và đường bờ ngoài tim mờ hơn
1, Khí quản; 2, carina; 3, phế quản gốc bên phải; 4, phế quản gốc bên trái; 5, tâm nhĩ phải; 6, tâm thất trái; 7, động mạch phổi trái; 8, quai động mạch chủ; 9, cơ hoành; 10, góc sườn hoành; 11, bóng vú; 12, túi hơi dạ dày; 13, xương đòn; 14, xương sườn.
1, chuôi xương ức; 2, xương ức; 3, bóng tim; 4, khoảng sáng sau ức; 5, khí quản; 6, phế quản gốc; 7, cung động mạch chủ
(lên và xuống); 8, xương bả vai; 9, cột sống; 10, cơ hoành; 11, bóng vú.
RÃNH LIÊN THÙY VÀ THÙY PHỔI
HÌNH MỜ BẤT THƯỜNG Ở PHỔI
Các bất thường về phổi chủ yếu biểu hiện dưới dạng các vùng tăng đậm độ (mờ), có thể chia thành các dạng sau:
o Đông đặc
o Xẹp phổi
o Nốt (<3 cm) hoặc Khối (≥3 cm) – đơn độc hoặc nhiều,
o Dạng mô kẽ (vệt, lưới).
Bất thường dạng tăng sáng ít gặp hơn (khí phế thũng, kén khí, bóng khí, tràn khí màng phổi)
DẤU HIỆU VÀ HÌNH ẢNH MỜ
DẤU HIỆU BÓNG (SILHOUETTE SIGN)
Nguyên lý
Hai môi trường cản tia dạng nước ở cùng mặt phẳng thì xóa ranh giới
Hai môi trường cản tia dạng nước gần nhau mà không xóa ranh giới thì không cùng mặt phẳng
DẤU HIỆU (SIGN) VÀ HÌNH ẢNH (PATTERN)
Vệt sáng phế quản (mầu đen) trên nền nhu mô phổi đông đặc (mầu trắng). Ý nghĩa của hình ảnh là nhu mô phổi xung quanh phế quản đã chuyển từ cản tia dạng khí sang cản tia dạng nước.
CT scan của một bệnh nhân bị aspergillosis phổi. Tổn thương hoại tử và tạo hang (mũi tên trắng) ở thùy trên trái. Không khí lấp đầy lỗ hổng trông giống như cái bóng của trăng lưỡi liềm.
(mũi tên trắng) là hình ảnh một vùng mờ dạng kính mờ được bao quanh bằng viền mờ dạng đông đặc. Thường thấy ở những bệnh nhân COP (Cryptogenic Organizing Pneumonia), cũng đã được gọi là “dấu hiệu vầng hào quang ngược”.
Xơ quanh tiểu thuỳ ở bệnh nhân COP, xuất hiện dưới dạng mờ đông đặc dạng vệt hình vòm. Đây là tổn thương mô kẽ quanh tiểu thùy phổi cấp 2 (mũi tên)
Dấu hiệu vòng mờ (trắng) do quá phát tế bào quanh một nhánh phế quản (gặp trong bệnh mô bào Langerhans – Langerhans Cell histiocytosis hoặc adenocarcinoma). Hình ảnh giống bánh vòng làm bằng ngũ cốc thường dùng để điểm tâm sáng.
Hình ảnh mờ dạng kính mờ của phổi với sự chồng lên mờ dạng lưới do dầy vách liên tiểu thùy. Hình ảnh phổi một bệnh nhân bị nhiễm P.jirovecii. Hình ảnh này cũng có thể thấy với các bệnh phổi khác như proteinosis phế nang, ARDS, viêm phổi do thuốc, v.v.)
Hình CT (a) cho thấy khối đông đặc tròn (dấu hoa thị đen) và mạch máu và phế quản bị kéo căng hướng về rốn phổi (mũi tên trắng): tạo ra hình ảnh kiểu “đuôi sao chổi” ở rìa của một tổn thương hình tròn gợi ý sự hiện diện của xẹp phổi dạng tròn. Trên hình CT (b,cửa sổ trung thất), màng phổi dầy vôi hóa tăng xác định khả năng này (đầu mũi tên trắng)
Hình vệt khí quản tăng tương phản trên nền nhu mô phổi giảm sáng kiểu kính mờ (mũi tên trắng) là dấu hiệu phế quản rất hữu ích để nhận biết nhiễm trùng phổi do Pneumocystis jirovecii.
Xquang ngực nghiêng (mũi tên trắng) thể hiện rõ ràng sự hiện diện của một vòng cản quang màu trắng ở rốn phổi, thể hiện sự phì đại các hạch bạch huyết ở vùng rốn phổi và dưới carina, nằm xung quanh phế quản trung gian với hình dạng bình thường của động mạch phổi và cung động mạch chủ ở phía trước và phía trên. Hình tổn thương này giống như hình dạng của một chiếc bánh rán, gợi ý của bệnh hạch bạch huyết trong trường hợp bệnh lao.
Một lớp ở ngoại vi của một hạch bạch huyết sưng to và vôi hóa (đầu mũi tên trắng) trên bệnh nhân bệnh bụi phổi silic. Hình ảnh này là dấu hiệu không đặc hiệu của bệnh bụi phổi silic vì cũng có thể gặp trong các bệnh khác như bệnh sacoit, bệnh bụi phổi, xơ cứng bì, amyloidosis, ung thư hạch sau xạ trị, bệnh nấm blastomycosis, histoplasmosis
Dấu hiệu mạch nuôi dưỡng bao gồm một mạch riêng biệt dẫn trực tiếp đến một nốt hoặc một khối. Dấu hiệu này chỉ ra rằng tổn thương có nguồn gốc từ máu hoặc quá trình bệnh xảy ra gần các mạch phổi nhỏ.
Phế quản phồng căng lên với chất nhầy, mảnh vụn tế bào, bạch cầu ái toan và sợi nấm tạo ra các khối mờ đục hình ống hoặc khối, như đã thấy ở cả hai thùy dưới (mũi tên). Cũng được thấy trong giãn phế quản lan tỏa liên quan đến xơ nang. B: CT scan
của một bệnh nhân cho thấy phế quản trung tâm bị giãn phồng (mũi tên).
Ở một bệnh nhân trẻ tuổi bị xơ hóa nang (CF), giãn phế quản (lòng chứa khí-dịch) với hình mạch máu phổi cùng cấp tạo hình ảnh gọi là dấu nhẫn signet
Vô số mờ dạng nốt lan tỏa toàn bộ nhu mô phổi hai bên ở một bệnh nhân di căn từ ung thư thận.
Xuất hiện đường ranh giới giữa tim và bờ trên gan (bình thường không thấy – theo nguyên lý dấu hiệu bóng). Đây là dấu hiệu
tràn khí trung thất. Khí trong trung thất cũng được nhìn thấy ở vùng cổ hai bên
X-quang AP của tràn khí màng phổi, trung thất sau tai nạn chấn thương ngực. Góc sườn- hoành phải rộng và sâu (mũi tên) là hình ảnh của tràn khí màng phổi chụp tư thế nằm.
Xquang AP trên bệnh nhân đa chấn thương. Hình ảnh xẹp phổi và rơi xuống do gãy phế quản gốc phải mà không phải là tràn khí
màng phổi
(Hình trái) X-quang ngực PA của bệnh nhân adenocarcinoma thùy trên phải. Khối u nội lòng phế quản gây xẹp thùy trên bên phải và di lệch lên trên của rãnh liên thùy nhỏ (mũi tên liền nét). Khối u tạo ra một bờ lồi về phía phổi ở rốn phổi phải (mũi tên nét đứt). Ranh giới ngoài của xẹp phổi phía trên và khối u phía dưới tạo thành chữ S ngược. Lưu ý độ cao của nửa cơ hoành bên phải, một dấu hiệu khác của giảm thể tích thùy trên bên phải. (Hình phải) CT ngực cho thấy khối u bao bọc và làm tắc lòng phế quản thùy trên bên phải (mũi tên liền nét) và xẹp thùy trên bên phải, với rãnh liên thùy nhỏ dịch chuyển lên trên và vào giữa (mũi tên không liền nét) cũng tạo thành hình ảnh chữ S ngược.
CT cho thấy sự đông đặc dạng nốt kết hợp với quầng GGO ở cả hai đỉnh (mũi tên) do aspergillosis phổi xâm lấn. Quầng sáng này đại diện cho xuất huyết và, khi nhìn thấy ở bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu, rất gợi ý chẩn đoán nhiễm aspergillosis phổi xâm lấn.
Có sự hiện diện của các nhánh phế quản dày lên trên phim X quang (màu đen đầu mũi tên trong a và b). Đây là hình ảnh các nhánh phế quản có thành bị dày lên và giãn phế quản hình trụ.
Tổn thương tân sinh nhu mô cho thấy bờ ngoài có gai và không đều, giống như hình ảnh tia nắng mặt trời. Đây là các mạch máu
bị biến dạng và/hoặc thành dầy lên do hiện tượng xâm lấn ác tính quanh u phổi.
Hình mời chia nhánh theo kiểu càng cây có đính các hình mờ tròn bên cạnh giống như cành cây mọc chồi. Đây là hình ảnh các tiêu phế quản dãn, lòng chứa dịch nhầy trên hình cắt dọc và cắt ngang
Hình phổi trên một bệnh nhân bị viêm phổi kẽ (UIP Usual interstitial pneumonia ). Hình ảnh X-quang đặc trưng bởi giãn phế quản do lực kéo, mờ nhu mô phổi dạng tổ ong và dạng lưới. Thường dễ nhận biết ở vùng đáy và vùng dưới màng phổi.
Hình ành bất thường của bề mặt màng phổi do xơ hóa (mũi tên trắng) trong UIP. Trong trường hợp bệnh kẽ, tổn thương xơ hóa, dày mô kẽ với co rút khu trú của nhu mô phổi có thể phát triển và làm biến đổi hình ảnh bề mặt phổi cũng như làm thay đổi vị trí và hình ảnh mạch máu, phế quản, màng phổi tạng. Bề mặt lởm chởm và hình mờ dạng vệt xâm lấn vào nhu mô phổi giống như sóng biển đánh vào bờ đá lởm chởm.
Các vùng phổi có tỷ trọng không đồng nhất tạo thành một “mô hình khảm” đôi khi thấy được trên hình ảnh chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc CT độ phân giải cao (HRCT). Mô hình khảm của phổi trên CT này là một phát hiện không đặc hiệu có thể phản ánh sự hiện diện của bệnh mạch máu, bất thường đường thở, hoặc thâm nhiễm kẽ kết hợp mờ kiểu kính mờ. Hình ảnh này hay gặp trong bệnh lý đường thở nhỏ do hiện tượng khí cạm thì thở ra tạo ra những vùng sáng xen kẽ những vùng mờ. Hình trên là CT ngực của một bệnh nhân hen ở hai thì thở.
Vôi hóa dạng bỏng ngô có thể là gặp trong trường hợp bệnh nhân bị hamartoma (u lành tính) phổi. Cấu trúc trong u đa dạng có thể gồm cả sụn, vôi hóa, tạo nên hình ảnh giống mnhư bỏng ngô (mũi tên).
Hình ảnh mờ đồng nhất sát màng phổi, đáy quay ra ngoài là hình ảnh của một vùng nhồi máu phổi trên một bệnh nhân thuyên tắc phổi, Hình ảnh giống như bướu của con lạc đà.
Dấu hiệu Fleischner” bao gồm một động mạch phổi trung tâm phồng to và các mạch máu phân tán ở bên ngoài (mũi tên trắng trong a, dấu hoa thị ở b). Hình ảnh này thường được thấy trong thuyên tắc huyết khối lớn vào động mạch phổi trung tâm. Mô tả cơ chế hình thành bằng c (trên hình ảnh CT axial của cùng một bệnh nhân, mũi tên trắng)
thường được sử dụng để mô tả các dạng mờ rất nhạt trên CT ngực có độ phân giải cao, mặc dù nó cũng được sử dụng khi mô tả. Xquang ngực. Trong CT, thuật ngữ này đề cập đến một hoặc nhiều vùng tăng đậm độ (tỷ trọng) mà không làm mất hình ảnh mạch máu phổi. Vùng phổi này có mờ hơn, trái ngược với màu phổi bình thường (chứa đầy không khí) trên hình ảnh CT. Hình kính mờ có thể kết hợp với nhiều loại hình ảnh khác. Hình trên là GGO một trường hợp viêm phổi COVID 19.
Hình ảnh móc bờ cơ hoành thường do hiện tượng co kéo (xơ dính, xẹp phổi) nên cần phân tích tổn thương phổi là nguyên nhân. Hình móc bờ cơ hoàng trên bệnh nhân xẹp thùy trên phổi phải (dấu hiệu chữ S ngược)
Đây là tổn thương mô kẽ dạng nốt nhỏ. Hình ảnh trên phim là tổn thương dạng kê (lao lan tràn theo đường máu)
Hình CT của bệnh nhân viêm phổi mô kẽ dạng tổ ong dưới màng phổi.
DẤU HIỆU VÀ HÌNH ẢNH SÁNG
Hình ảnh tạo khoảng trống hoại tử trong một vùng phỗi đông đặc. Tổn thương có thể có đặc điểm mới (hình trái) hay cũ (hình phải). Nhiều loại vi khuẩn có thể tạo nên hình ảnh tổn thương hoại tử.
Tổn thương có thể tạo nhiều hóa hang trên Xquang (a) và CT (b). Đây là dạng tổn thương hay gặp trong viêm phổi do S.aureus
Là những vùng trong phổi bị khí thũng có kích thước trên 1 cm. Hình bóng khí lớn thùy dưới trái.
Hình tăng sáng mất cấu trúc lan tỏa được bao bọc bằng hình mờ mô kẽ quanh tiểu thùy phổi cấp 2 (do tăng tương phản hoặc do dầy mô kẽ)
Hình tăng sáng mất cấu trúc lan tỏa không còn nhìn thấy rõ hình mờ mô kẽ quanh tiểu thùy phổi cấp 2 bao quanh. Có thể
tạo thành những vùng mất cấu trúc lớn (thùy giữa bên phải)
Một vùng ngoại vi (phổi trái) mất cấu trúc, phổi bị co lại, tăng đậm độ. Lưu ý ranh giới giữa hai vùng là màng phổi tạng liên tục
Một vùng phổi tăng sáng, giảm rõ hình ảnh mạch máu trong thuyên tắc huyết khối một nhánh động mạch phổi lớn. Trên
phim thùy trên phổi phải tăng sáng, mất hình mạch máu của tưới máu bình thường.
ĐỌC PHIM XQUANG – KHÁM XQUANG
6 nguyên tắc:
- Kiểm tra thông tin trên phim
- Đánh giá kỹ thuật và tư thế chụp
- Phân tích không bỏ sót
- Sử dụng thuật ngữ mô tả
- Kết hợp lâm sàng và các khảo sát hình ảnh khác
- Theo dõi và so sánh khi cần