Tạo hình màng trinh: Mô tả kỹ thuật, chỉ định, chống chỉ định

Xuất bản: UTC +7

Cập nhật lần cuối: UTC +7

Tạo hình màng trinh: Mô tả kỹ thuật, chỉ định, chống chỉ định

Tác giả: Christine Hamori, Paul Banwell, Red Alinsod

nhathuocngocanh.com – Bài viết Tạo hình màng trinh: Mô tả kỹ thuật, chỉ định, chống chỉ định được trích từ chương 12 sách Phẫu thuật Thẩm mỹ vùng kín : Chỉ định, Kỹ thuật thực hiện và Áp dụng lâm sàng.

Những điểm chính

Tạo hình màng trinh là phẫu thuật thẩm mỹ vùng kín nữ được giữ bí mật nhiều nhất và cũng ít được ng-hiên cứu nhất.

Thông tin về quy trình thực hiện chủ yếu dựa trên các báo cáo trong y văn kinh điển.

Tạo hình màng trinh mắc phải nhiều vấn đề về tính đạo đức.

Các yếu tố văn hóa xã hội đóng một vai trò quan trọng.

Hầu hết các chỉ định tạo hình màng trinh đều mang tính nghi thức và thẩm mỹ.

Nên thiết lập các mục tiêu của quy trình cho từng bệnh nhân cụ thể.

Hiếm khi phải theo dõi sau phẫu thuật tạo hình màng trinh.

Tư vấn trước phẫu thuật có thể giúp làm giảm số ca phẫu thuật không cần thiết tới 75%.

Các vấn đề chung

Tạo hình màng trinh, còn được gọi là khâu lỗ màng trinh, tái tạo màng trinh, sửa màng trinh, phục hồi màng trinh, phẫu thuật màng trinh, và tái tạo ‘trinh tiết’, là thuật ngữ phổ biến nhất dùng để chỉ phẫu thuật tái lập tính toàn vẹn của màng trinh, sẽ được giới thiệu trong chương này. Trong tất cả các thủ thuật thẩm mỹ bộ phận sinh dục nữ, tạo hình màng trinh là một trong những thủ thuật tranh cãi và được bí mật nhiều nhất. Mặc dù nó đã được Tổ chức Y tế Thế giới phân loại là thủ thuật cắt bỏ bộ phận sinh dục nữ, nhưng hiện nay nó đã khác đi rất nhiều. Tạo hình màng trinh thường được thực hiện như một thủ thuật tự chọn (theo nguyện vọng bệnh nhân); tuy nhiên, việc phân loại nó như một thủ thuật thẩm mỹ có thể gây hiểu lầm, bởi vì những người khác cho rằng đây thuộc nhóm phẫu thuật tái tạo, mặc dù thủ thuật này không giải quyết các vấn đề về chức năng cho bệnh nhân.

Mặc dù có rất nhiều ý kiến về bản chất của thủ thuật, nhưng rất ít bài báo thảo luận về kỹ thuật và dữ liệu không đủ để cung cấp bằng chứng hỗ trợ hoặc khuyến nghị một phương pháp phẫu thuật hiệu quả. Việc theo dõi bệnh nhân ít khi cần thiết, bởi vì kết quả thường không duy trì lâu dài và bệnh nhân cũng không muốn công khai danh tính sau phẫu thuật.

Người ta nói rằng, “Tương lai của một người phụ nữ có thể bị treo lơ lửng, đúng theo nghĩa đen, bởi một lớp màng (trinh).” Mặc dù an toàn của bệnh nhân là điều tối quan trọng, nhưng cuộc tranh luận về rủi ro sau phẫu thuật và kỹ năng (không hoàn hảo) của bác sĩ bị phản đối bởi nỗi sợ xã hội tẩy chay và / hoặc tổn hại thể chất. Trọng tâm của cuộc thảo luận này là liệu Tạo hình màng trinh có nên được thực hiện hay không, về cơ bản đây là một vấn đề về đạo đức cần cân nhắc.

Những vấn đề về tính pháp lý và văn hóa dân tộc

Cách tiếp cận để tạo hình màng trinh phụ thuộc vào nền văn hóa và giá trị của hai chữ trinh tiết trong xã hội đó. Trong số các sinh viên đại học ở Thổ Nhĩ Kỳ, một cuộc khảo sát gần đây đã chứng minh sự tồn tại của tiêu chuẩn kép về thái độ của nam và nữ đối với giá trị truyền thống của trinh tiết, điều đã ảnh hưởng sâu sắc tới nhu cầu tạo hình màng trinh của phụ nữ. Mặc dù nhiều người cho rằng tạo hình màng trinh phổ biến hơn trong các nền văn hóa Hồi giáo, quy trình này đã được thực hiện ở các nền văn hóa/tôn giáo khác trên thế giới. Ví dụ, ước tính khoảng 2% phụ nữ ở Guatemala có thể đã thực hiện phẫu thuật này, thường là bởi các Bs chưa được đào tạo chuyên sâu và thiếu sự theo dõi hoặc giám sát sau phẫu thuật.

Tạo hình màng trinh là thủ thuật phẫu thuật thẩm mỹ bộ phận sinh dục nữ được giữ bí mật nhiều nhất và ít được nghiên cứu nhất. Thông tin về thủ tục thường dựa trên các báo cáo trong y văn kinh điển. Ảnh hưởng của tôn giáo, phong tục truyền thống và niềm tin cá nhân cũng có thể được phản ánh trong các quy tắc pháp lý của một xã hội cụ thể. Ở những quốc gia này, những Bs hành nghề sẽ chỉ định thủ thuật này dựa trên nguyện vọng của ‘khách hàng’, bất chấp những vấn đề về đạo đức y khoa, đạo đức cá nhân và nguy cơ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.

Mặc dù định nghĩa về trinh tiết có thể còn bị tranh cãi, nhưng nhiều người coi rằng một màng trinh nguyên vẹn là sự hiện diện của trinh tiết. Đối với nhiều nền văn hóa, sự hiện diện của một màng trinh còn nguyên vẹn phù hợp với chuẩn mực đạo đức và là dấu hiệu của danh dự và sự chính trực. Tôi đã được nghe những câu chuyện về (1) các thủ tục kiểm tra bắt buộc để chứng minh phụ nữ “đủ tiêu chuẩn” trước khi làm lễ kết hôn, (2) yêu cầu phá vỡ một màng trinh còn nguyên vẹn bằng vải bông / lụa quấn quanh ngón trỏ của người thăm khám nếu có chỉ định y khoa bắt buộc, (3) người mẹ kế vẫn phải là người còn trinh tiết, và (4) màn ‘thể hiện’ đáng tự hào của những phụ nữ với ga giường thấm máu sau đêm tân hôn. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, gần như bất kỳ ai muốn đảm bảo về “lợi ích” của mình đều có thể yêu cầu kiểm tra màng trinh để xác nhận trinh tiết. Trong lịch sử, các tôn giáo lớn (Cơ đốc giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo) cho rằng việc tiết chế tình dục là biểu hiện của sự thuần khiết về đạo đức, và hoạt động tình dục chỉ được ‘cởi mở’ khi hai người đã kết hôn. Phụ nữ đã từng hoặc thậm chí bị nghi ngờ có hoạt động tình dục trước hôn nhân (bằng chứng là màng trinh bị tổn thương được đánh giá bằng nhiều phương pháp khác nhau) có thể bị hủy bỏ lời thề ước trong hôn nhân, sỉ nhục nơi công cộng, bị cộng đồng tẩy chay, trục xuất, lạm dụng thể xác , hoặc các hậu quả pháp lý khác, bao gồm bắt giữ, bỏ tù hoặc tử hình (giết người vì danh dự) . Một báo cáo đã đề cập về việc tạo hình màng trinh của người Ai Cập thực sự đã làm giảm tới 80% các vụ giết người “vì danh dự” so với thập kỷ trước. Các ủy ban đạo đức của nhiều hiệp hội y tế quốc tế (Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp, Canada, New Zealand, Úc và Tổ chức Y tế Thế giới) nhìn chung đã đồng thuận tạo hình màng trinh là một thủ thuật thẩm mỹ bộ phận sinh dục.

Goodman và cộng sự đã đề xuất bốn nguyên tắc đạo đức (sự tự nguyện của bệnh nhân, không có ý đồ xấu, lợi ích và sự công bằng) để phân biệt phẫu thuật thẩm mỹ âm hộ tự chọn với cắt bộ phận sinh dục bắt buộc. Các nhà đạo đức học ủng hộ quyết định của bác sĩ thực hiện phẫu thuật để bảo vệ phụ nữ khỏi những hậu quả bất lợi. Ngược lại, những người khác đề xuất, “Các bác sĩ phụ khoa có đủ kỹ năng thực hiện thủ thuật nên tính đến hậu quả của việc họ từ chối”. Kopelman cho rằng nên đưa ra tiêu chuẩn mang tính cá nhân hóa khi cân nhắc quyết định tạo hình màng trinh nhưng cơ bản việc không quyết định phẫu thuật thường dẫn tới gia tăng các vấn đề sau hôn nhân do bị ép buộc. Earp đề xuất rằng các bác sĩ sẽ chỉ được tính “mức thù lao thấp nhất có thể” để “chống lại” nhu cầu ngày một gia tăng của xã hội. Một số người đề xuất rằng sự sẵn có của thủ tục này làm tăng tỷ lệ lạm dụng tình dục, quấy rối tình dục, trong khi giáo dục tình dục lại không được quan tâm đúng mức. Những người chỉ trích thủ tục này cho rằng nó có thể trở nên lỗi thời nếu công chúng nhận thức đúng đắn hơn về trinh tiết, và rằng chúng không chỉ đơn giản là một lớp màng hoặc những “giọt máu đêm tân hôn”. Những người ủng hộ lại những lập luận tiên tiến hơn để ủng hộ tính khoa học trong thực hành tạo hình màng trinh và theo đó, một nhóm đa ngành gồm “bác sĩ phẫu thuật, luật sư, nhà hoạt động xã hội, nhà đấu tranh cho nhân quyền và các nhà lãnh đạo tôn giáo” đã được thành lập để đưa ra giải pháp cho cuộc tranh luận này.

Phẫu thuật chọn lọc với phẫu thuật tái tạo

Chúng tôi hiếm khi phải thực hiện các ca phẫu thuật tạo hình màng trinh chỉ nhằm mục đích tuân thủ tiêu chuẩn đặt ra của 1 cuộc hôn nhân truyền thống hoặc để kỷ niệm tuần trăng mật thứ hai. Tuy nhiên, một phụ nữ, dù có hoặc không có các thành viên trong gia đình đi cùng, thường yêu cầu BS giữ kín lịch sử quan hệ tình dục trước hôn nhân với người chồng tương lai và để đảm bảo nhận thức về trinh tiết. Điều này rất được mong đợi để ngăn chặn những hậu quả “thảm khốc” đã được thảo luận trước đây. Các vấn đề đạo đức đã thảo luận trước đó cũng được áp dụng. Trong bối cảnh này, nhiều bác sĩ, bao gồm cả bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ nam và nữ, từ chối tham gia vào một phẫu thuật mà (1) không cần thiết về mặt y khoa, (2) giúp phụ nữ giữ được các tiêu chuẩn đạo đức trước hôn nhân, và (3) lừa dối một “nạn nhân” vô danh: bạn tình. Một tác giả cho rằng ngay cả khi chàng rể nhận thức được, thì thầy thuốc đang thông đồng với những người khác trong gia đình lừa dối chàng rể đó. Những người khác đặt câu hỏi về những lập luận đạo đức này đối với các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ thực hiện nâng ngực và hút mỡ. Tương tự như vậy, các thủ thuật cũng này không được tiết lộ cho bạn tình/người chồng của bệnh nhân.

Một số người nghĩ rằng tạo hình màng trinh không giống như các thủ thuật thẩm mỹ thuần túy như nâng ngực mà có thể phục vụ mục đích giúp người phụ nữ đáng được “công nhận và được bảo vệ hơn”. Ở một số nền văn hóa, “giấy chứng nhận trinh tiết” có thể được bệnh nhân yêu cầu sau khi Bs hoàn thành thủ thuật; do đó, bác sĩ phẫu thuật phải chuẩn bị để quản lý và giải quyết xung đột đạo đức này và đối mặt với việc đồng lõa với sự gian dối. Các nhà đạo đức học nghĩ rằng cần thiết phải cung cấp các chứng chỉ này cho những bệnh nhân có nguy cơ bị tổn hại lớn đến “sức khỏe, quyền tự chủ hoặc tính toàn vẹn cá nhân”. Sự xấu hổ khi phải khám phụ khoa với mục đích được “chính thức chứng nhận” là trinh nữ đã khiến một số phụ nữ tự tử. Điều này đã thúc đẩy một số người ủng hộ đề xuất rằng nên cung cấp một phần tiền bảo hiểm cho những trường hợp được chỉ định không hoàn toàn vì lý do thẩm mỹ.

Những người ủng hộ cho rằng tính bảo mật mối quan hệ giữa bác sĩ – bệnh nhân và yêu cầu của người phụ nữ sẽ thay thế tất cả các mối quan tâm khác. Những người khác phản đối dựa trên cơ sở rằng điều này duy trì một tiêu chuẩn trinh tiết có định kiến của xã hội mà chỉ phụ nữ mới có. Do đó, phẫu thuật tạo hình màng trinh bảo tồn một ‘huyền thoại’ rằng một màng trinh nguyên vẹn là biểu tượng của trinh tiết. Một số người cho rằng việc loại bỏ những định kiến này có thể không phải là một vấn đề y khoa hoặc pháp lý và đòi hỏi nhiều hơn sự thay đổi cấu trúc xã hội. Những người khác mô tả nó như một “phẫu thuật mang tính nghi lễ” tương đương với cắt bao quy đầu và liên quan với tính đạo đức trong phẫu thuật thẩm mỹ.

Chỉ định và chống chỉ định

Chức năng của màng trinh chưa được biết rõ nhưng đã được coi như một hàng rào âm đạo chống lại các nguồn lây nhiễm bên ngoài cho đến tuổi dậy thì. Một số người đã tuyên bố rằng “không có chỉ định khoa học hợp lệ” cho tạo hình màng trinh, và nó được thực hiện chủ yếu do truyền thống văn hóa hoặc tập tục.

Gần như bất kỳ ai có một mong muốn thực tế và có đủ tổ chức đều là ‘ứng cử viên’ cho tạo hình màng trinh (tự chọn). Tùy thuộc vào lượng tổ chức còn lại mà lựa chọn thủ thuật sao cho phù hợp (Hình. 12-1). Thời điểm giao hợp “dự kiến” cũng có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp phẫu thuật và sẽ được thảo luận sau trong chương này. Những người chỉ trích quy trình cho rằng bác sĩ phẫu thuật vô đạo đức có thể không cung cấp thông tin thích hợp cho bệnh nhân và khuyến khích bệnh nhân thực hiện quy trình này để hưởng lợi từ phí phẫu thuật.

Hình. 12-1 Khám lâm sàng đơn thuần rất khó xác định phần tổ chức còn lại của màng trinh
Hình. 12-1 Khám lâm sàng đơn thuần rất khó xác định phần tổ chức còn lại của màng trinh

Chống chỉ định cho tạo hình màng trinh bao gồm “sự nhầm lẫn” với các thủ thuật thắt chặt âm đạo, nhiễm trùng âm hộ đang hoạt động, tình trạng viêm âm hộ đang hoạt động, kỳ vọng về một màng trinh “lý tưởng” với lỗ tròn ở trung tâm, rối loạn đông máu và hút thuốc.

Đánh giá bệnh nhân

Đánh giá bất thường giải phẫu

Mặc dù các phương pháp sàng lọc đã được khuyến nghị cho bệnh nhân phẫu thuật thẩm mỹ bộ phận sinh dục nữ, nhưng không có công cụ nào được thiết lập để đánh giá cho tạo hình màng trinh. Thông thường các tổn thương ở màng trinh lành khá nhanh và chúng cũng không có hình dạng chuẩn (nhiều biến thể giải phẫu). Hình thái học của màng trinh có thể thay đổi theo tuổi. Các nghiên cứu đã thấy rằng có sự đa dạng rất lớn về hình thái học ở phụ nữ không tiền sử lạm dụng tình dục.

Hơn nữa, đường kính hoặc kích thước màng trinh tối ưu vẫn chưa được xác định. Các nghiên cứu đã được thực hiện để thiết lập chiều rộng màng trinh và / hoặc đường kính lỗ trong “lý tưởng”, tuy nhiên vẫn chưa đưa ra được kết luận. Do đó, không có hình thái âm đạo tiêu chuẩn để tạo hình hoặc tái tạo.

Lên kế hoạch và chuẩn bị

Bệnh nhân cần được thông báo về quy trình với việc xem xét kỹ lưỡng các rủi ro, các lựa chọn thay thế và lợi ích lâu dài.Khi thảo luận về vai trò và mục tiêu của thủ thuật, bác sĩ phẫu thuật nên thảo luận về các chủ đề như sau:• Việc sửa chữa không đem lại lợi ích về mặt y khoa.

  • Không còn màng trinh hoặc quan hệ lần đầu không chảy máu không hẳn là người đã từng quan hệ tình dục.
  • Dưới 50% số phụ nữ cho biết họ không bị chảy máu ở lần đầu quan hệ.

Trong một nghiên cứu từ Amsterdam, 75% phụ nữ đã được tư vấn đồng ý rằng không nên tiến hành tạo hình màng trinh. Họ nói rằng mặc dù mong muốn “những chiếc ga giường thấm máu” và một âm đạo đủ “nhỏ” trong đêm tân hôn, nhưng phẫu thuật vẫn có thể cũng cần thiết.

Chảy máu trong lần quan hệ đầu tiên không nhất thiết là biểu hiện của sự trinh trắng, và trong một cuộc khảo sát với 41 phụ nữ, chỉ có 34% số trinh nữ chảy máu trong lần giao hợp đầu tiên, và 63% còn lại thì không.

Không phải lúc nào cũng có thể xác định được khi khám lâm sàng, rằng bệnh nhân đã có hoạt động tình dục trước đó hay chưa. Trong một nghiên cứu đánh giá việc thăm khám bằng mỏ vịt, chúng khá dễ dàng đưa vào ở 56% phụ nữ chưa từng quan hệ tình dục nhưng đã sử dụng tampons, trong khi nó được đưa vào dễ dàng ở 81% bệnh nhân có quan hệ tình dục. Nghiên cứu tương tự cũng tiết lộ rằng những đối tượng không hoạt động tình dục có hình ảnh màng trinh và các đặc điểm phụ khoa tương đương với nhau bất kể việc họ có sử dụng tampon hay không, tham gia các hoạt động thể thao hoặc khám vùng chậu trước đó. Tuy nhiên, rách màng trinh khi không có hoạt động tình dục có liên quan đến phẫu thuật trước đó, đặt tampon, tập thể dục và thủ dâm. Ngược lại, màng trinh nguyên vẹn, không bị rách được báo cáo ở 52% phụ nữ đã từng quan hệ tình dục trước đó. Chảy máu có thể không xảy ra, hoặc các phẫu thuật giúp cải thiện trương lực cơ vùng này có thể dẫn tới phải rạch hoặc cắt bỏ màng trinh.

Đối với bệnh nhân Hồi giáo, các bác sĩ nên phân biệt rằng mặc dù quan hệ tình dục trước hôn nhân hoặc ngoài hôn nhân bị nghiêm cấm, nhưng việc chứng minh trinh tiết bằng những giọt máu ở đêm tân hôn là không cần thiết. Tất cả phụ nữ (và các thành viên trong gia đình) những người muốn tạo hình màng trinh với mục đích có xuất hiện những giọt máu trong đêm tân hôn, nên được thông báo rằng việc tạo hình không giúp họ đạt được mục đích đó.

Mô tả kỹ thuật

Trong hầu hết các bài đánh giá, các kỹ thuật đều được mô tả một cách mơ hồ, và tỷ lệ thành công hoặc không được báo cáo hoặc được báo cáo là thấp, với tỷ lệ thành công 67% được báo cáo trong 1 nghiên cứu. Tuy nhiên, các phương pháp phẫu thuật có thể được phân loại là phẫu thuật tạo vạt, khâu đính, giảm đường kính trong, khâu đơn thuần, hoặc đặt màng trinh nhân tạo.

Thời gian ‘kiêng’ từ sau phẫu thuật tới khi được hoạt động tình dục trở lại là một vấn đề quan trọng thường ít được chú ý. Một tác giả đã thảo luận về các BS thậm chí thực hiện thủ tục “ngay trước đám cưới.”. Tôi đã học được nhiều điều về nó từ các buổi trao đổi với Bs khác. Đối với những bệnh nhân muốn toàn vẹn cấu trúc và cần màng trinh còn nguyên vẹn khi nhìn bằng mắt thường, việc sửa chữa nên được thực hiện 3 tháng trước khi “hoàn thành lời thề trong hôn nhân”. Tuy nhiên, khi biết rõ thời gian cần quan hệ trở lại và bệnh nhân muốn chảy máu nhưng không cần nhìn thấy bằng mắt thường, tốt nhất nên lên lịch phẫu thuật 3 tuần trước ngày đó. Ở những bệnh nhân bị chấn thương, mô hạt đủ để gây chảy máu với ma sát nhẹ nhất. Van Moorst và cộng sự đề nghị thực hiện phẫu thuật trong vòng 14 ngày trước đám cưới để tăng khả năng xuất hiện máu khi quan hệ, nhưng không quá gần đám cưới để người chồng có thể nhìn thấy vết khâu.

Vô cảm, Kháng sinh và Đánh dấu

Gần như tất cả các bệnh nhân đều có biểu hiện lo lắng rõ rệt vì những sự kiện xảy ra trước đó hoặc vì họ là người ‘hướng nội’ về tình dục; do đó, tôi khuyên các Bs nên gây mệ hoặc tiền mê với các thuốc chu phẫu thích hợp. Gây tê cục bộ có hoặc không có thuốc an thần đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch, hoặc dùng thuốc tiền mê, hiếm khi được thực hiện cho bệnh nhân thấy thoải mái trước phẫu thuật, chẳng hạn như những người đang tổ chức tuần trăng mật thứ hai, những người sẵn sàng chịu đựng việc tiêm và những người có thời gian chuẩn bị. Trong những trường hợp này, một miếng lót Telfa cuộn vào tampon sẽ được đưa sâu vào âm đạo. Tampons được lấy ra ngay sau khi bệnh nhân đã nằm đúng tư thế trước phẫu thuật nhưng trước khi tiêm và chuẩn bị. Mục đích của miếng đệm Tel-fa là tạo áp lực và tác động trực tiếp của kem bôi lên các ‘mảnh’ màng trinh còn sót lại thay vì cho phép trọng lực tác động vào những mảnh này. Không có nghiên cứu có nhóm chứng nào yêu cầu sử dụng kháng sinh, nhưng chúng phù hợp với các báo cáo cho thấy lợi ích của chúng đối với vết thương tầng sinh môn cấp III sau sinh.

Tư thế bệnh nhân

Bệnh nhân được đặt ở tư thế sản khoa và chuẩn bị vô trùng thông thường.

Kỹ thuật tạo vạt

Các nghiên cứu về thủ thuật vạt niêm mạc âm đạo hiện rất hạn chế và chỉ được đề cập ngắn gọn là khi không có đủ những ‘mảnh’ màng trinh để khâu nối. Mô tả của toàn bộ quy trình đơn giản là, “. . . Một dải hẹp của thành sau âm đạo được bóc tách để tái tạo. ” Hiếm khi được thực hiện, vì nó đòi hỏi ‘sửa chữa’ đủ chắc chắn để vẫn còn nguyên vẹn khi hoạt động nhưng đủ yếu để bị rách khi dương vật được đưa vào. Nếu biểu mô vảy thực sự lành lại, vạt có thể cần phẫu thuật để giải phóng.

Khâu đính

Kỹ thuật phổ biến nhất cho đến nay là kỹ thuật khâu đính. Tuy nhiên, một trong những bài báo mô tả về kỹ thuật này chỉ trích dẫn 9 trường hợp được thực hiện trong vòng 10 năm. Tác giả đã dựa trên kỹ thuật của mình trên một ấn phẩm đã được công bố trước đó (tổng cộng 20 ca lâm sàng và không khám lại sau phẫu thuật). Phương pháp phẫu thuật được đề cập ngắn gọn chỉ với 29 từ.Chúng tôi sẽ đề cập chi tiết các bước thực hiện phẫu thuật ở phần dưới.

Giảm đường kính trong âm đạo

Trong phần tổng quan về phẫu thuật tạo hình bộ phận sinh dục nữ, Goodman đã thảo luận về hai kỹ thuật. Ông đã báo cáo về một phương pháp làm giảm chu vi của lỗ trong màng trinh bằng cách sử dụng nhiều vết cắt nhỏ, hình thoi dọc theo ngoại vi của màng trinh Và một thủ thuật khâu đính kinh điển, chủ yếu bằng cách tìm các cặp mảnh còn dư đối xứng nhau và khâu nối lại.

Hình. 12-2 So sánh kỹ thuật Goodman và kỹ thuật khâu đính kinh điển.
Hình. 12-2 So sánh kỹ thuật Goodman và kỹ thuật khâu đính kinh điển.

Kỹ thuật Goodman giúp làm giảm đường kính ngoài và trong bằng cách sử dụng các vết cắt hình kim cương giữa các mảnh tồn dư, sau đó khâu nối, còn kỹ thuật khâu đính hình thành các cầu biểu mô nối hai phía lỗ màng trinh, tuy giúp “tái tạo lại màng trinh” nhưng không tác động vào đường kính (Hình .12-2).

Kỹ thuật khâu đơn thuần

Nhiều phương pháp khâu đơn giản, nhanh chóng đã được thực hiện để tái tạo màng trình. Ou và cộng sự đã mô tả một mối khâu vắt bằng chỉ catgut 5-0 chromic ngay bên dưới các mảnh tồn dư, bắt đầu từ vị trí 6 giờ, kéo dài và kết thúc ở vị trí 12 giờ, sau đó khâu ngược lại để trở về vị trí cũ (6h). Chỉ khâu được buộc quanh dụng cụ nong Hegar 12 mm với một nút thắt vùi. Mặc dù kỹ thuật có vẻ đơn giản, nhưng rất hữu ích trong việc gia cố các mối chỉ trong kỹ thuật khâu đính đơn thuần.

El Hennawy khuyến nghị sử dụng chỉ khâu catgut để khâu đính các mảnh tồn dư, ít nhất trong khoảng 3 đến 7 ngày trước khi quan hệ (không được muộn hơn) vì còn chờ liền vết khâu. Ngoài ra, ông còn mô tả một kỹ thuật thậm chí còn dễ dàng hơn khi đặt một đường khâu đơn giản nối hai thành âm đạo lại với nhau.

Màng trinh nhân tạo

Kỹ thuật cấy màng trinh nhân tạo bao gồm việc khâu hoặc đặt các viên nang gel-atin chứa đầy dịch tương tự máu bên trong âm đạo. Chúng nhằm mục đích xuất hiện những giọt máu khi quan hệ, mô phỏng sự rách của màng trinh còn nguyên vẹn. Các nguồn trực tuyến cung cấp màng trinh nhân tạo (được gọi là màng trinh Trung Quốc hoặc màng trinh giả) bao gồm một màng giả chứa đầy “thuốc chứa chất lỏng (y tế) màu đỏ”(có thể so sánh với máu người) được đưa vào âm đạo mà không cần phẫu thuật.

Kỹ thuật chúng tôi thực hiện: Khâu đính cải tiến

Các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ đều biết rằng vết khâu sẽ được liền nhanh nhất dựa trên lượng máu cấp tới vùng đó và tính chịu lực của vết khâu. Thông qua kinh nghiệm của tôi có được trong một chương trình đào tạo phẫu thuật thẩm mỹ, tôi liên hệ cách tiếp cận của mình với phương pháp phẫu thuật tạo hình Furlow Z-plasty áp dụng các nguyên tắc này. Việc cầm máu có thể xử lý bằng tay đơn thuần. Kỹ thuật được mô tả trong các bước sau.

  • Bệnh nhân được đặt ở tư thế sản khoa và tiêm lidocain 1% với epineph-rine bằng kim 30G. Bệnh nhân được trải xăng và mặc quần áo vô trùng.
  • Môi bé hai bên được kéo một cách thận trọng bằng chỉ khâu hoặc dụng cụ kéo để tạo phẫu trường rộng, nhưng phải duy trì độ căng tối thiểu trên lỗ âm đạo (Hình 12-3, A).
  • Xác định các mảnh màng trinh còn sót lại, tìm và đánh dấu các cặp mảnh đối xứng, ít nhất là 3 cặp mảnh (Hình. 12-3, B).

Hình. 12-3, A, B

Hình. 12-3, A, B
Hình. 12-3, A, B
  • Đối với mỗi cặp mảnh, thực hiện thủy tách các đầu mảnh bằng lidocain 1% với kim 30G để vừa có thể tăng kích thước và vừa tạo thuận cho quá trình khâu đính. Sau khi tiêm lidocaine, có thể không cần sử dụng epinephrine, vì các mô này không có mạch máu, và trong lúc khâu nối vẫn cần đánh giá tình trạng chảy máu. Nên ép mô cầm máu thay vì đốt điện (chỉ nên được sử dụng ít nhất có thể). Tôi thích kẹp mô Gerald có răng để cầm máu tổ chức.
Hình. 12-3, C
Hình. 12-3, C
  • Sau khi tiêm xong, một lưỡi dao số 15C, một lưỡi dao số 11 hoặc kéo cắt mống mắt được sử dụng để tạo ra một vạt trước trên (xa), giúp kéo dài phần còn lại một cách hiệu quả. Phía còn lại cũng được thực hiện tương tự để tạo ra một vạt sau dưới (gần). Phương pháp này được sử dụng để giảm sức căng vết mổ, đồng thời tăng diện tích bề mặt trong quá trình lành vết mổ (Hình. 12-3, D).
Hình. 12-3, D
Hình. 12-3, D
  • Nếu cần thiết, có thể nới lỏng việc kéo môi bé hai bên để tạo thuận lợi cho việc khâu (Hình. 12-3, E).
  • Các vạt được khâu bằng chỉ khâu Monocryl 5-0 với kim thuôn nhọn RB-1. Đôi khi, nếu các mảnh màng trinh đủ dày, có thể đặt một mũi khâu vùi. Tuy nhiên, thường thì các đường khâu này sẽ tương tự như khâu nối mạch máu kiểu bên – bên (Hình. 12-3, F).
  • Nếu chảy máu, dùng lực ép và theo dõi cho tới khi máu ngừng chảy. Hạn chế sử dụng dao điện để cầm máu.
  • Áp một Telfa pad có bôi một lớp oint mỏng lên vùng phẫu thuật.
Hình. 12-3, F
Hình. 12-3, F

Ví dụ ca lâm sàng

Các mảnh âm đạo được đánh dấu. A sẽ được nối với A, B với B ‘, và C với C’, (Hình. 12-4, A).

Phân mảnh B ‘ được khâu với B (Hình. 12-4, B). Phân mảnh C được khâu với C ‘(Hình. 12-4, C). Đã khâu nối mảnh A với A ‘ (Hình. 12-4, D).

Hình. 12-4 A-F
Hình. 12-4 A-F

Lỗ thông vào trong âm đạo phía bên phải bệnh nhân sau khâu đính mảnh A – A‘(bên phải bệnh nhân) (Hình. 12-4, E). Lỗ thông vào trong âm đạo phía bên trái bệnh nhân sau khâu đính mảnh A – A‘ (bên trái bệnh nhân) (Hình. 12-4, F).

Hình. 12-4 A-F
Hình. 12-4 A-F

Kỹ thuật khâu đính được mô phỏng bằng hình ảnh hai bàn tay đan vào nhau. Các bàn tay đại diện cho các mảnh màng trinh đối lập (Hình. 12-4, G). Bàn tay mở, phía trên đại diện cho mảnh trên được rạch, tạo ra một vạt quay xuống (các đầu ngón tay là đầu của vạt; lòng bàn tay là mặt sau khi đã lật vạt) (Hình. 12-4, H). Bàn tay mở, phía dưới đại diện cho mảnh dưới được rạch, tạo ra một vạt được xoay và nâng lên trên (các đầu ngón tay là đầu của vạt; lòng bàn tay là mặt sau khi đã lật vạt) (Hình. 12-4, I). Phần tay trên mở đại diện cho phần vạt trên được khâu vào vị trí mặt sau, khi đã lật vạt và ngược lại (Hình. 12-4, J ).

Hình. 12-4 G-J
Hình. 12-4 G-J

Mảnh B ‘được rạch dọc theo bề mặt trước và mặt xa để tạo ra một vạt lật ngược dựa trên (Hình. 12-4, K). Vạt trên là mảnh B ’khi nó đang được rạch (Hình. 12-4, L). Mảnh B được rạch dọc theo bề mặt sau và mặt gần để tạo ra một vạt lật ngược lên trên (Hình. 12-4, M).

Hình. 12-4 K-M
Hình. 12-4 K-M

Phân mảnh C’ sẽ được cặp lên trước khi tiêm lido (Hình. 12-4, N). Mảnh C ‘được tiêm để ‘phóng to’ nó trước khi rạch và tạo một vạt (Hình. 12-4, O). Mảnh C được cặp lên và tiêm để ‘phóng to’ nó trước khi rạch và tạo một vạt (Hình. 12-4, P).

Hình. 12-4 N-P
Hình. 12-4 N-P

Mảnh C ‘được rạch dọc theo bề mặt trước và mặt xa để tạo ra một cánh lật ngửa dựa trên (Hình. 12-4, Q). Vạt lật trên mảnh C ‘được quan sát thấy khi nó đang được rạch một vạt (Hình. 12-4, O). Mảnh C được cặp lên và tiêm để ‘phóng to’ nó trước khi rạch và tạo một vạt (Hình. 12-4, P).(Hình. 12-4, R). Chỉ nên cầm máu bằng lực ép với một miếng gạc hoặc bông. Hạn chế tối đa đốt điện (Hình. 12-4, S).

Hình. 12-4 Q-S
Hình. 12-4 Q-S

Khâu nối mảnh C với C’ (Hình. 12-4, T). Chỉ khâu Monocryl 5-0 với kim RB-1 đầu thuôn nhọn được sử dụng để giảm thiểu chấn thương cho mô. Chỉ khâu màu tím tạo điều kiện thuận lợi cho việc giấu đi đường khâu (mịn) (Hình. 12-4, U). Ba vị trí khâu — A-A’, B-B’, C-C ’— được đánh dấu trong Hình. 12-4, V. Lỗ âm đạo sau khi đã tháo bỏ dụng cụ kéo môi bé (Hình. 12-4, W).

Hình. 12-4 T-W
Hình. 12-4 T-W

Kỹ thuật buộc vòng (dải rút)

Các bước thực hiện kỹ thuật được mô tả trong Hình. 12-5.

Hình. 12-5 A, Hình ảnh trước phẫu thuật. B, Kéo môi bé sang hai bên. C, Điểm bắt đầu ở góc 6h. D, kéo căng vùng mô ở điểm bắt đầu để tiến hành khâu.
Hình. 12-5 A, Hình ảnh trước phẫu thuật. B, Kéo môi bé sang hai bên. C, Điểm bắt đầu ở góc 6h. D, kéo căng vùng mô ở điểm bắt đầu để tiến hành khâu.
Hình. 12-5 (tiếp) E-J, Vị trí khâu bắt đầu ở vị trí 6 giờ. 4-0 cromic catgut được khâu móc qua lớp dưới niêm mạc theo chiều kim đồng hồ, khâu liên tục giống mũi vắt, dọc theo chiều kim đồng hồ tới vị trí 12h. K, Vừa khâu vừa kéo chỉ để làm giảm đường kính trong của lỗ âm đạo. L, Kết thúc bằng một nút thắt ở vị trí 6 giờ. (đi 1 vòng đồng hồ).
Hình. 12-5 (tiếp) E-J, Vị trí khâu bắt đầu ở vị trí 6 giờ. 4-0 cromic catgut được khâu móc qua lớp dưới niêm mạc theo chiều kim đồng hồ, khâu liên tục giống mũi vắt, dọc theo chiều kim đồng hồ tới vị trí 12h. K, Vừa khâu vừa kéo chỉ để làm giảm đường kính trong của lỗ âm đạo. L, Kết thúc bằng một nút thắt ở vị trí 6 giờ. (đi 1 vòng đồng hồ).
Hình. 12-6 A, Kéo môi bé sang hai bên để bộc lộ phẫu trường. B, Hình ảnh ngay sau phẫu thuật khâu buộc vòng. C, Ba tuần sau phẫu thuật.
Hình. 12-6 A, Kéo môi bé sang hai bên để bộc lộ phẫu trường. B, Hình ảnh ngay sau phẫu thuật khâu buộc vòng. C, Ba tuần sau phẫu thuật.

Thủ thuật bổ sung

Có một quan niệm sai lầm rằng tạo hình màng trinh sẽ làm se khít âm đạo, và nhiều chuyên gia thực hành đã nhầm lẫn giữa hai quy trình. Ngoại trừ kỹ thuật thu nhỏ đường kính ngoài âm đạo đã được mô tả trước đây của Goodman, tạo hình màng trinh không làm se khít âm đạo. Điều này được thảo luận trong CHƯƠNG 11, Tạo tầng sinh môn và âm đạo. Các nhà thực hành sẽ khuyên bạn nên sử dụng kem làm se khít âm đạo như một liệu pháp bổ sung.

Chăm sóc sau phẫu thuật

Nên chườm lạnh trong vòng 24 đến 48 giờ đầu tiên sau phẫu thuât (chăm sóc sau phẫu thuật vùng kín tiêu chuẩn). Chăm sóc vết thương bao gồm rửa vùng kín sau khi đi tiểu và sau khi đại tiện. Bệnh nhân được khuyến khích tắm vòi hoa sen, nhưng họ không nên tắm bồn, trừ bồn tắm sitz (nước lạnh thì tốt hơn ấm); và bệnh nhân không nên sử dụng hồ bơi công cộng, bồn tắm nước nóng và phòng tắm hơi trong 4 tuần. Khuyến cáo hạn chế hoạt động thể chất và không tập thể dục trong 4 tuần. Bệnh nhân được hướng dẫn không sử dụng băng vệ sinh. Nếu phải dùng thì nên thoa nhẹ thuốc mỡ lên băng vệ sinh hoặc sử dụng băng Telfa không dính.

Một trong những hướng dẫn quan trọng nhất là không kiểm tra vết mổ (có thể gây rách vết mổ). Việc này sẽ được thực hiện ở lần khám hậu phẫu đầu tiên, 4 tuần sau phẫu thuật.

Đôi khi, một bệnh nhân sẽ được kiểm tra bởi Bs có chuyên môn một cách chi tiết (để có giấy chứng nhận). Trong trường hợp này, chỉ khâu có thể được gỡ bỏ sau 3 đến 4 tuần. Tuy nhiên, chỉ khâu thường được hấp thu hoàn toàn trong 6 đến 8 tuần.

Đánh giá kết quả sau phẫu thuật

Kết quả thường dựa trên mong muốn của bệnh nhân, thường là chảy máu khi quan hệ. Trong khi các bác sĩ có thể đánh giá sự thành công của thủ thuật bằng cách khôi phục nguyên vẹn màng trinh, điều này ít ý nghĩa đối với những bệnh nhân, vì cơ bản họ chỉ muốn có cảm giác đau, thắt chặt và có máu ra khi quan hệ. Tôi tìm kiếm sự hài lòng của bệnh nhân trong tin nhắn văn bản di động sau phẫu thuật mà một bệnh nhân đã gửi cho tôi vào ngày sau khi kết hôn. (Chưa sửa lỗi chính tả và dấu câu.) “Everthin is ok if u know what I mean [đã xảy ra chảy máu] dnt text back ttyl [nói chuyện với bạn sau] I’m with my hubby tell everyone thanks”. Người phụ nữ nà cho biết cô ấy sẽ bị ly hôn ngay lập tức và lo ngại về tổn hại cơ thể nếu cô ấy không bị chảy máu ở lần quan hệ đầu tiên.

Kết quả

Kết quả của những sửa chữa này rất khó đánh giá vì thiếu theo dõi sau thủ thuật; do đó tỷ lệ “thành công” khác nhau. Trong một báo cáo về 20 bệnh nhân được phẫu thuật khâu đính các mảnh màng trinh, trong đó 10 bệnh nhân được theo dõi, Longmans và cộng sự cho biết cả 10 đều có kết quả tốt. Ou và cộng sự đã thực hiện Kỹ thuật Longman trên 2 bệnh nhân và báo cáo rằng cần phải thực hiện lại quy trình ở cả hai (100% thất bại) nhưng trích dẫn rằng tất cả 6 bệnh nhân đã được thực hiện kỹ thuật khâu vòng đều báo cáo “không hối tiếc”. Van Moorst và cộng sự cho thấy trong số 24 bệnh nhân, 19 bệnh nhân quay lại tái khám, chỉ 2 (11%) bị chảy máu khi quan hệ, và 17 (89%) thì không. Tuy nhiên, mặc dù số bệnh nhân không bị chảy máu, 13 trong số 19 (68%) nói rằng họ sẽ làm lại thủ thuật, và tất cả 19 bệnh nhân được phẫu thuật cho biết họ không hối tiếc về việc làm thủ thuật.

Theo kinh nghiệm của tôi, ở sáu trong số bảy bệnh nhân (trải qua quy trình được mô tả) được khám, việc sửa chữa được coi là thành công. Thành công được xác định là hai hoặc ba vết đính còn nguyên tại lần thăm khám sau phẫu thuật kéo dài 1 tháng hoặc chảy máu trong quá trình giao hợp. Một trong bảy bệnh nhân được khám 4 tuần sau khi phẫu thuật; một trong ba vết đính đã lành. Bệnh nhân này được điều trị bằng chỉ khâu catgut 5-0 5 ngày trước khi kết hôn để đảm bảo có chảy máu; và bệnh nhân xác nhận đã có chảy máu khi quan hệ.

Biến chứng

Rất ít bài viết về biến chứng tạo hình màng trinh ngoài các kết quả đã thảo luận trước đó và các tác động xã hội, tôn giáo, văn hóa và đạo đức đã được xem xét. Hầu hết các tác giả báo cáo rằng tỷ lệ các biến chứng thấp; tuy nhiên, một số mô tả rằng có nguy cơ “biến dạng, sửa chữa quá mức với chứng giao hợp đâu thứ phát hoặc làm cho dương vật khó đưa vào âm đạo, tách vết mổ, các biến dạng của âm đạo sau phẫu thuật; sự lừa dối đối với người chồng, và sự tồn tại của bất công xã hội đối với phụ nữ ”; không chảy máu; và các biến chứng y khoa nghiêm trọng. Chúng tôi biết rằng nếu phẫu thuật chỉ giới hạn ở màng trinh, các vết thương ở màng trinh có xu hướng lành nhanh chóng và không để lại bằng chứng về chấn thương trước đó.

Tạo hình màng trinh là một thủ thuật thú vị trong đó biến chứng phổ biến nhất là tình trạng tách vết mổ, về cơ bản là trạng thái tự nhiên của màng trinh khi bị tổn thương. Trong một loạt ca lâm sàng được thảo luận bởi Longmans và cộng sự, Ou và cộng sự, và van Moorst và cộng sự, trường hợp không chảy máu và phẫu thuật chỉnh sửa lại là những biến chứng duy nhất được báo cáo. Họ không báo cáo về hậu quả liên quan đến văn hóa của những người không bị chảy máu, nhưng theo dõi của nghiên cứu van Moorst (có lẽ là ít sai lệch nhất) cho thấy 19 trong số 24 phụ nữ trải qua thủ thuật đều không hối tiếc về những gì mình đã làm.

Để lại một bình luận (Quy định duyệt bình luận)

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

The maximum upload file size: 1 MB. You can upload: image. Drop file here