Kỹ thuật tiêm filler làm đầy môi lớn: Chỉ định và chống chỉ định

Xuất bản: UTC +7

Cập nhật lần cuối: UTC +7

Tác giả: Christine Hamori, Paul Banwell, Red Alinsod

nhathuocngocanh.com – Bài viết Kỹ thuật tiêm filler làm đầy môi lớn: Chỉ định và chống chỉ định được trích từ chương 9 sách Phẫu thuật Thẩm mỹ vùng kín : Chỉ định, Kỹ thuật thực hiện và Áp dụng lâm sàng.

Những điểm chính

  • Việc sử dụng HA dạng tiêm để tái cấu trúc môi lớn đã dần trở nên phổ biến. Chúng đã được ca ngợi về tính hiệu quả cũng như tính an toàn khi được thực hiện bởi các Bs lâm sàng có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng tuyệt vời cùng với các dụng cụ tiêm filler tốt.
  • Trẻ hóa hoặc phục hồi cấu trúc âm hộ bằng các sản phẩm có khả năng tự thoái giáng không đồng nhất như HA hứa hẹn sẽ là một xu hướng trong tương lại, đặc biệt là khi kết hợp với các phương pháp không phẫu thuật khác.

Giải phẫu và mô học

Hình. 9-1 A, Cấu trúc nông vùng đáy chậu (xem chú thích hình 1.1). B, Bóc tách phần dưới trung bì và lớp chất béo nông để quan sát phần chất béo môi lớn (a, Phần niệu đạo của tiền đình; b, phần màng trinh của tiền đình 1, sự mở rộng mạc nối mu âm vật; 2, sự mở rộng vùng bẹn; 3, tiểu thể mỡ trong môi; 4, sự mở rộng phần mông; 5, sự mở rộng đáy chậu

Hình. 9-1 A, Cấu trúc nông vùng đáy chậu (xem chú thích hình 1.1). B, Bóc tách phần dưới trung bì và lớp chất béo nông để quan sát phần chất béo môi lớn (a, Phần niệu đạo của tiền đình; b, phần màng trinh của tiền đình 1, sự mở rộng mạc nối mu âm vật; 2, sự mở rộng vùng bẹn; 3, tiểu thể mỡ trong môi; 4, sự mở rộng phần mông; 5, sự mở rộng đáy chậu
Hình. 9-1 A, Cấu trúc nông vùng đáy chậu (xem chú thích hình 1.1). B, Bóc tách phần dưới trung bì và lớp chất béo nông để quan sát phần chất béo môi lớn (a, Phần niệu đạo của tiền đình; b, phần màng trinh của tiền đình 1, sự mở rộng mạc nối mu âm vật; 2, sự mở rộng vùng bẹn; 3, tiểu thể mỡ trong môi; 4, sự mở rộng phần mông; 5, sự mở rộng đáy chậu

Môi lớn đóng 1 vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi bé ở PHẦN trên của tiền đình âm hộ và phần lỗ âm đạo (1/3 dưới của âm hộ) ở phía dưới. Lớp bảo vệ này ngăn chặn ma sát của quần áo với môi bé, đặc biệt do các hoạt động thể thao (ví dụ, cưỡi ngựa và đi xe đạp) hoặc quần áo bó sát/ôm dáng. Chứng teo môi lớn là nguyên nhân gây ra viêm âm hộ mãn tính và khô âm hộ, gây khó chịu, ngứa và chứng giao hợp đau. Hậu quả về chức năng, tâm lý và tình dục là những hạn chế thực sự trong cuộc sống của phụ nữ và có thể ảnh hưởng đến tình dục, ham muốn tình dục và sự tự tin.

Tính thẩm mỹ của vùng âm hộ phụ thuộc vào ‘cấu trúc’ của vùng mỡ dưới da nằm trên xương mu và phần mỡ dưới môi lớn.

Mong muốn của phụ nữ trong việc điều chỉnh hoặc giữ lại vẻ trẻ trung của bộ phận sinh dục có lẽ đã được khuếch đại bởi sự phổ biến của xu hướng wax lông mu, nhưng nó cũng là mong muốn nhằm xóa bỏ hậu quả của quá trình lão hóa, sinh con, và các chấn thương vùng kín. Sự hiểu biết về giải phẫu của vùng âm hộ là điều cần thiết để thực hiện kỹ thuật trẻ hóa và phục hồi bộ phận sinh dục. Sự phức tạp trong mối quan hệ giữa cấu trúc nông và sâu cùng với các tương quan cấu trúc giữa da, tổ chức dưới da, cơ, dây chằng và cân mạc đã tạo nên những thách thức không hề nhỏ cho Bs lâm sàng.

Môi lớn được hình thành từ tổ chức da bao gồm các tế bào biểu mô vảy phân tầng (sừng hóa và sắc tố), lớp trung bì dày đặc mạch máu cùng với nhiều tuyến bã nhờn, tuyến bán hủy và một lớp sâu chứa các sợi cơ trơn: mạc môi lớn (Hình 9-1).

Các thành phần khác của môi âm hộ bao gồm một lớp mỡ dưới da thoái triển theo thời gian hoặc khi giảm cân quá mức và một tiểu thể mỡ môi lớn, cả hai đều là một dạng xơ sợi giàu mạch máu và một cơ quan bán cương cứng được củng cố bởi các sợi đàn hồi với các sợi xơ hướng ra phía trước, phía sau và đi ngang. Sự thoái triển của mô mỡ môi âm hộ là kết quả của tác động của trọng lượng cơ thể lên đáy chậu và từ chuyển động ma sát lặp đi lặp lại của đùi.

Trong quá trình lão hóa, bề mặt da của môi âm hộ trải qua quá trình ‘xuống cấp’ giống như lớp trung bì của các phần da khác trong cơ thể. Phần mỡ dưới da môi lớn sẽ trải qua quá trình “chảy” hay còn gọi là teo mỡ. Điều này dẫn tới tình trạng xẹp lún và giảm trương lực, làm mất thể tích và bề mặt da sẽ xuất hiện nếp nhăn. Việc mất đi ‘hàng rào’ này cũng ảnh hưởng tới môi bé và tiền đình, dẫn đến khô âm hộ, đau tự phát hoặc khi quan hệ tình dục và phì đại của môi bé khi tăng ma sát.

Nguyên tắc chính của việc ‘tái cấu trúc’ môi lớn dựa trên việc tái tạo lại các mặt phẳng khác nhau:

Trẻ hóa phần da bề mặt môi lớn tương tự như cách chúng ta phục hồi da mặt:

  • Áp dụng kỹ thuật tiêm vi điểm, HA không có liên kết chéo hoặc liên kết yếu được tiêm vào trong da hoặc ở các lớp nông bằng kim, kim lăn, vi kim và hoặc súng kim.
  • Việc sử dụng PRP tiêm vi điểm, đơn độc hoặc kết hợp với HA đã cho phép tái tạo đáng kể độ dày của lớp da, loại bỏ các nếp nhăn và các đường gờ ở vùng âm hộ.
  • Việc điều trị trẻ hóa môi lớn ở phần sâu dưới da đã giúp cải thiện trương lực cơ âm hộ và môi (các mạc dartos), độ “đầy đặn” và “trẻ trung” của môi âm hộ. Kỹ thuật RF và hiệu ứng nhiệt được áp dụng lên vùng sinh dục giúp điều chỉnh đáng kể tình trạng giảm thể tích hoặc lão hóa âm hộ – âm đạo hoặc các chấn thương khi sinh bằng đường âm đạo thông qua tác động của chúng lên việc hình thành collagen và điều chỉnh trương lực cơ trơn (xem chương 16).
  • Liên tục với tổ chức mỡ vùng gò mu, phần mỡ dưới môi lớn giúp cải thiện tương quan giữa hai vùng giải phẫu này, đồng thời giúp phân cách giữa vùng có lông mu và không có lông mu. Lớp mỡ dưới da này được chia thành 2 phân lớp là phân lớp nông bề mặt và sâu phía dưới – bao phủ bề mặt đáy chậu. Các tuyến Bartholin và thể cương, với nhiều tổ chức cơ và cân mạc, nằm giữa lớp cân nông của đáy chậu và mạc chậu (hoặc lớp cân dưới của hoành niệu dục), tiếp nối với lớp mỡ sâu. Các cơ hành xốp bao phủ phần hành tiền đình, và cơ ngồi hang nằm trên thể hang (Hình. 9-2).

Giảm tổ chức mỡ dưới da thường liên quan tới các nguyên nhân như lão hóa (sau mãn kinh), giảm estrogen, giảm cân lượng lớn (sau các liệu trình giảm cân nghiêm ngặt hoặc sau mang thai), và vi chấn thương (do chơi thể thao, mặc quần áo chật, wax lông) thường xuyên. Không dừng lại ở đó, điều này còn dẫn tới tình trạng chùng nhão da và tổ chức dưới da ‘lỏng lẻo’, hình thành nên các nếp nhăn hằn sâu. Đường viền môi lớn – với mặt ngoài, mặt trong và phần mép tự do nhô ra ngoài – đều được cấu thành 1 phần từ tổ chức mỡ dưới da. Chúng hình thành một hình chữ V ngược ‘mềm mại’.

Hình. 9-2 Lớp cân chậu nông và mạc chậu.
Hình. 9-2 Lớp cân chậu nông và mạc chậu.

Chúng ta có thể giải quyết tình trạng này bằng cách tiêm HA thay vì ghép mỡ tự thân. Phương pháp trẻ hóa bộ phận sinh dục không phẫu thuật, xâm lấn tối thiểu này đặc biệt được chú ý đến vì tính đơn giản khi thực hiện, không yêu cầu thực hiện tại các cơ sở y tế lớn và kết quả thu được tương đối thuyết phục.

Chỉ định và chống chỉ định

Chỉ định

  • Phụ nữ trên 18 tuổi
  • Bệnh nhân mong muốn trẻ hóa môi lớn vừa vì mục đích thẩm mỹ, vừa vì mục đích bảo vệ cho các cấu trúc phía trong.

Chống chỉ định

  • Phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú
  • Có tiền sử dị ứng với các hoạt chất filler (HA và mannitol)
  • Nhiễm trùng âm đạo ở vùng tiêm (nhiễm khuẩn hoặc virus như HPV, herpes hoặc nhiễm nấm)
  • Những vấn đề về da như tình trạng viêm da vùng gần vị trí tiêm
  • Có các vật dụng cấy ghép vĩnh viễn hoặc tạm thời tại vùng tiêm
  • Bệnh nhân vừa được phẫu thuật tại khu vực dự tính tiêm filler do căn nguyên ung thư

Chống chỉ định liên quan tới acid hyaluronic

  • Tiền sử bệnh lý miễn dịch, nhiễm streptococcus, sốt thấp cấp có tổn thương khu trú tại tim.

Đánh giá bệnh nhân

Việc đánh giá tổ chức mỡ môi lớn bị teo, và ước đoán lượng hoạt chất cần tiêm, được thực hiện bằng cách so sánh và đánh giá độ dày của mỡ ở gò mu và độ ‘nhô’ của môi âm hộ. Chúng ta cần tìm ra sự ‘cân bằng’ về mặt thẩm mỹ và chức năng giữa các cấu trúc này.

Lên kế hoạch và chuẩn bị

Bệnh nhân được sử dụng kháng sinh dự phòng trong 3 ngày bằng neomycin với polymyxin Bnystatin đặt âm đạo. Trong 3 ngày trước khi can thiệp, không được cạo lông mu hoặc dùng bất kỳ dụng cụ nào tác động vào khu vực này. Nếu bệnh nhân có lông mu mọc nhiều và có khả năng ảnh hưởng tới việc thực hiện thủ thuật, chúng tôi yêu cầu họ tỉa gọn khoảng 2 hoặc 3 ngày trước khi làm thủ thuật. Có thể dùng kéo cắt, chỉ để lại đoạn dài 1 cm.

Trước khi tiêm, nên sát trùng cẩn thận trước, ít nhất ba lần trên khắp bề mặt da, âm hộ và âm đạo. (Chúng tôi thường sử dụng povidone iodine 10%, đôi khi, chlorhexidine gluconate hoặc benzalkonium chloride).

Mô tả kỹ thuật

Vô cảm

Xylocaine 2% được tiêm trong da, mỗi bên 0,2 ml. Chúng tôi cũng tiêm các lớp da sâu và tiêm dưới da (năm đến bảy lần tiêm 0,3 ml) dọc theo đường đi của canuyn, theo đường đã vẽ trước đó, sẽ được mô tả ở phía dưới.

Đánh dấu

Có thể đặt kim ở 1 số điểm khác nhau tùy thuộc vào vị trí và kinh nghiệm người thực hiện. Hình 9-3 đánh dấu các điểm đặt kim được cho là an toàn và phù hợp hơn cả dựa trên đặc trưng giải phẫu vùng. Các điểm phía trên mà chúng tôi sử dụng là ở vùng mép ngoài của gò mu, cách 1 đoạn khoảng 2-3 ngón tay so với đường dọc giữa (từ gò mu thẳng tới mép môi sau). Còn điểm phía dưới sẽ cách môi bé 2cm về phía ngoài, ngang với mép môi sau.

Hình. 9-3 Vị trí tiêm filler. A, Điểm trên (1 và 2 ). Vị trí đầu kim phải nằm ở lớp mỡ nông ngay dưới da, và ngay trên lớp mỡ sâu với cơ hành xốp. B, Điểm dưới.
Hình. 9-3 Vị trí tiêm filler. A, Điểm trên (1 và 2 ). Vị trí đầu kim phải nằm ở lớp mỡ nông ngay dưới da, và ngay trên lớp mỡ sâu với cơ hành xốp. B, Điểm dưới.

Đối với những mũi tiêm này, bệnh nhân sẽ nằm ở tư thế sản khoa, và bác sĩ phẫu thuật sẽ đưa kim hoặc ống tiêm hướng lên trên và chéo về phía rãnh sinh dục-đùi.

Các đường nét đứt được vẽ trên da là chỉ điểm cho hướng đi của canuyn. Hướng chếch về phía nút đáy chậu mà không tràn vào bên trong bờ tự do của môi âm hộ và rãnh sinh dục đùi. Chúng ta dừng kim ở ngay dưới mép môi sau và ngay trên trung tâm đáy chậu.

Tư thế bệnh nhân

Bệnh nhân có thể được đặt ở tư thế phụ khoa với hai chân hơi dạng hoặc nằm ngửa trên bàn thủ thuật (Hình 9-4). Người thực hiện có thể đứng như khi khám sàn chậu hoặc ngồi trên ghế đẩu. (Một chiếc bàn có thể điều chỉnh là điều cần thiết để có tầm nhìn tối ưu và sự thoải mái khi làm việc.) Khi thực hiện tiêm mỡ, tôi thích đứng cùng bên với vùng tiêm.

Hình. 9-4 A, Người thực hiện có thể ngồi trước mặt bệnh nhân, như khi khám phụ khoa. B, Vị trí ưa thích là đứng cùng với bên thực hiện thủ thuật, bệnh nhân ở tư thế nằm ngửa.
Hình. 9-4 A, Người thực hiện có thể ngồi trước mặt bệnh nhân, như khi khám phụ khoa. B, Vị trí ưa thích là đứng cùng với bên thực hiện thủ thuật, bệnh nhân ở tư thế nằm ngửa.

Kỹ thuật

Dụng cụ

Những dụng cụ cần thiết để thực hiện thủ thuật (Hình. 9-5):

  • Kim: Dài 13 mm, 20 mm, 25 mm; đường kính 27 G hoặc 30 G
  • Cannuyn: Dài 80 mm; đường kính 18-gauge
  • Xylocaine 2%
  • Băng ép, găng tay
  • Bơm tiêm chứa HA: 2 ml mỗi bơm
  • Bút đánh dấu
Hình. 9-5 Dụng cụ cần dùng cho thủ thuật.
Hình. 9-5 Dụng cụ cần dùng cho thủ thuật.

Acid Hyaluronic

HA là một polyme anion trọng lượng phân tử cao. Nó là một ‘thành viên’ của siêu họ glycos- aminoglycan nonsulfat-ed, và cấu trúc của nó dựa trên sự kết hợp luân phiên của các chuỗi disaccharide (axit D-glucuronic và D-N-acetylglucosamine).

HA được tổng hợp nội sinh. Nó xuất hiện trong nhiều mô và đóng các vai trò sinh lý quan trọng trong cơ thể sống, bao gồm duy trì độ nhớt của các mô liên kết lỏng như hoạt dịch ở khớp và thủy tinh thể ở mắt; kiểm soát quá trình hydrat hóa mô, đặc biệt là ở da, màng nhầy và các lớp mô dưới niêm mạc; vận chuyển nước; tổ chức hóa proteoglycan ở chất nền ngoại bào; sửa chữa mô; và các chức năng khác qua trung gian thụ thể trong việc giải phóng liên kết giữa các tế bào, quản lý khối u và viêm. Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của phân tử này là khả năng ‘bảo tồn’ đặc trưng của nó giữa các loài. Cấu trúc HA xuất hiện giống hệt nhau ở khắp các ngành và các loài sinh vật đa dạng như Pseudomonas slime, giun đũa và động vật có vú như chuột, thỏ và người.

Sự luân chuyển HA nội sinh được kiểm soát bởi các thành phần tổng hợp HA (isoforms 1, 2 và 3) và các hyaluronidase (Hyal-1, Hyal-2 và Hyal-3) và dường như tương đối nhanh: Thời gian bán hủy HA bình thường dao động từ 3 tuần trong sụn đến 2 ngày trong da. Quá trình luân chuyển HA là rất quan trọng trong việc thiết kế các sản phẩm tiêm filler. Vào đầu những năm 1990, các sản phẩm HA dạng tiêm bắt đầu được tung ra thị trường. Sự luân chuyển nội sinh nhanh như vậy đòi hỏi phải tăng cường thêm các gel có thành phần HA để kéo dài tác dụng lâm sàng của chúng. Vì vậy, giải pháp đã được tìm thấy, đó chính là HA liên kết chéo. Về cơ bản, nó là một phản ứng đơn giản giữa một chất hóa học và sợi HA. Mục đích là tạo liên kết cộng hóa trị, bền vững để ‘gắn kết’ các sợi HA lại với nhau. Khi thực hiện bước này, khả năng tiếp cận của hyaluronidase đối với mạng HA giảm mạnh. Các liên kết cộng hóa trị được tạo ra sẽ ảnh hưởng đến tính lưu biến của sản phẩm, đặc biệt là các thông số về độ nhớt và độ đàn hồi. Cho đến nay, các sản phẩm có sẵn trên thị trường đều được liên kết chéo với diepoxyoctane, polyethyleneglycol hoặc 1,4-butanediol diglycidylether.

Trong phụ khoa, HA lần đầu tiên được nghiên cứu vì đặc tính chống dính tổ chức sau phẫu thuật đặc biệt của chúng. Nó cũng được sử dụng rộng rãi như một thành phần quan trọng trong gel bôi trơn và hydrat hóa tại chỗ hoặc tiêm điều trị chứng giao hợp đau. Chất làm đầy có HA giúp làm căng da mặt trong phẫu thuật thẩm mỹ, do đó việc sử dụng sản phẩm này như một công cụ mới để điều trị tình trạng teo mỡ do tuổi tác ở cơ quan sinh dục nữ có vẻ hợp lý. Rất nhiều tài liệu đã được xuất bản để mô tả kỹ thuật ghép mỡ môi lớn. Các quy trình này được thực hiện trong phòng phẫu thuật, và điều chỉnh quá mức ban đầu thường là cần thiết vì quá trình tiêu mỡ ghép luôn xảy ra sau phẫu thuật. Để dễ dàng bù đắp sự mất mát này, gel có thành phần HA đã được phát triển.

Ghép mỡ làm đầy môi lớn với HA nên được điều chỉnh phù hợp với lớp giải phẫu. Mỡ dưới da có ở lớp da nông, trung gian và sâu của môi âm hộ (Hình. 9-6). Kế hoạch tiêm HA phải được điều chỉnh cho phù hợp với vị trí giải phẫu cụ thể. Nhiều sản phẩm trên thị trường được thiết kế để tiêm vào tổ chức mỡ, nhưng liệu mỡ môi âm hộ có thể được coi là tương đương với mỡ mặt không?

Hình. 9-6 Đảo mỡ và các dải cân mạc vùng đáy chậu.
Hình. 9-6 Đảo mỡ và các dải cân mạc vùng đáy chậu.

Thành phần kiểu gen của tế bào mỡ môi lớn vẫn chưa được nghiên cứu cụ thể, nhưng về mặt giải phẫu, chất béo ở môi lớn liên tục với mạc nông Camper, và cũng với mạc Colles ở phía dưới (có thể so sánh với cân Scarpa ở môi lớn). Mạc Colles là phần mở rộng của lớp cân nông thành bụng. Nó được gắn vào ngành cơ ngồi mu và hoành niệu sinh dục; do đó chất béo này phải chịu các ràng buộc cơ học cao: Các tác động cơ học trên môi âm hộ có liên quan đến các lực tạo bởi trọng lực, trọng lượng cơ thể, ma sát của đùi, thói quen đi bộ nhiều, hoạt động thể thao và áp lực do co cơ bụng phía trên đáy chậu.

Hơn nữa, môi lớn là cấu trúc giải phẫu chủ yếu dành để bảo vệ và hấp thụ các sang chấn. Vì tất cả những lý do này, mỡ môi âm hộ khác với mỡ mặt. Do đó, các đặc tính của gel HA được tiêm phải được điều chỉnh phù hợp với ‘môi trường’ cụ thể này để ngăn chặn sự ‘di chuyển’ của sản phẩm sau tiêm.

Vì tầm quan trọng về giải phẫu, chức năng và tình dục của vùng này, đặc biệt là môi lớn, chúng ta cần phải lựa chọn các sản phẩm chúng ta sử dụng một cách cẩn thận. Nhiều HA có dạng tiêm đã được tạo ra dưới dạng filler “thể tích”, bao gồm Vbluma (Allergan) (thường được sử dụng nhất), Belotero (Merz), Sculptra (Sanofi) và Radiesse (Bioform Medical). Nhưng những sản phẩm được FDA chấp thuận nhằm mục đích trẻ hóa da mặt. Mặc dù có thể đạt được kết quả tốt khi sử dụng các sản phẩm này ở vùng sinh dục, nhưng chúng chỉ được dùng dưới dạng off-label. Nên chú ý thay đổi kỹ thuật sao cho phù hợp với chỉ định và tính pháp lý cũng như tính an toàn. Chỉ một sản phẩm (Desirial Plus, Vivacy) đã được thử nghiệm lâm sàng và nhận được sự chấp thuận của Châu Âu cho chỉ định này.

Nó chưa được FDA chấp thuận. Sản phẩm này cũng chứa mannitol, một thành phần tự nhiên có nguồn gốc thực vật có thể trì hoãn sự phân hủy của axit hyaluronic bởi hyaluronidase trong cơ thể và các gốc tự do được tạo ra trong quá trình tiêm.

Desirial Plus là sản phẩm chúng tôi sử dụng để ‘tân trang’ vùng âm hộ. Hoạt chất này đã được nghiên cứu lâm sàng. Sản phẩm cuối cùng là kết quả của sự “dung hòa” giữa các đặc điểm hóa lý khác nhau đặc trưng cho HA, bao gồm độ nhớt, trọng lượng phân tử, nồng độ (21 mg / g), độ đặc hiệu đơn pha, tính đàn hồi, tính lưu động, liên kết chéo, tính hút ẩm. Do đó, sản phẩm loại tăng thể tích có thể hoàn toàn phù hợp cho các ứng dụng vùng sinh dục và khắc phục được các hạn chế đã đề cập trước đây.

Do đặc tính lưu biến của chất làm đầy chứa HA rất khác với chất béo được ghép nên không nên so sánh trực tiếp thể tích tiêm được. Vào năm 2011, Vogt và cộng sự đã công bố một báo cáo trường hợp trong đó 52 ml chất béo được tiêm vào để điều chỉnh sự bất đối xứng của môi âm hộ. Lượng thể tích quá lớn này nằm ngoài khả năng của filler HA. Tuy nhiên, với 1 đến 4 ml HA, có thể điều chỉnh tốt và tự nhiên vì gel có độ đàn hồi cao hơn so với mỡ ghép. Chất làm đầy chứa HA cũng có thể được sử dụng để chỉnh hình sau phẫu thuật ghép mỡ.

Phương pháp

Sau khi tiêm xylocaine 2%, đợi vài phút để nó có hiệu lực. Chúng tôi tạo một lỗ nhỏ bằng cách sử dụng kim 27G và đưa vào một canuyn dài 8 cm với kim 18G. Đường đi cannula sẽ theo đường đã được đánh dấu sao cho đầu kim luôn đi ngay dưới lớp da. HA được tiêm theo kiểu ngược dòng từ dưới lên trên (Hình. 9-7).

Hình. 9-7 Hướng đi của canuyn từ điểm trên.
Hình. 9-7 Hướng đi của canuyn từ điểm trên.

Ưu điểm của phương pháp tiêm này là nó cho phép quan sát trực tiếp toàn bộ diễn biến và giúp phân phối HA một cách hài hòa vì lượng hoạt chất tiêm được kiểm soát giữa ngón cái và ngón trỏ. Chúng tôi cố gắng tạo ra một vẻ ngoài nữ tính và môi âm hộ trẻ trung nhất có thể. Sau khi tiêm, chúng tôi sẽ xoa bóp vùng vừa tiêm để phân phối đều HA để đạt được kết quả thẩm mỹ tối ưu.

Chăm sóc sau phẫu thuật

Bệnh nhân được hướng dẫn không sinh hoạt tình dục, tắm, bơi, thể thao sau thủ thuật 1 thời gian, cũng không nên mặc đồ lót chật trong 1 tuần đầu.

Kết quả

Người phụ nữ 25 tuổi này lo lắng về những vết nhăn vùng âm hộ sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống tình dục của cô ấy (Hình. 9-8). Tôi đã tiêm 2 ml HA (Desirial Plus) ở mỗi bên môi lớn.

Hình. 9-8 A, Bệnh nhân này, một vận động viên lướt ván diều chuyên nghiệp, với hình ảnh trước khi tiêm HA. B, Ngay sau khi tiêm. C, Một tháng sau khi tiêm. D, Ba tháng sau khi tiêm.
Hình. 9-8 A, Bệnh nhân này, một vận động viên lướt ván diều chuyên nghiệp, với hình ảnh trước khi tiêm HA. B, Ngay sau khi tiêm. C, Một tháng sau khi tiêm. D, Ba tháng sau khi tiêm.

Hình. 9-9 A Hình ảnh trước khi tiêm. B, Giữa các lần tiêm. C, Sáu tháng sau khi tiêm.

Người phụ nữ 45 tuổi này đã trải qua liệu pháp progestin trong 10 năm để điều trị bệnh phụ khoa. Liệu pháp này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến lớp da vùng kín của cô và gây ra chứng teo mỡ môi âm hộ.

Tôi đã tiêm 2 ml HA (Desirial Plus) vào mỗi bên môi lớn (Hình. 9-9).

Hình. 9-10 cho thấy cách tiêm Desirial Plus đã cải thiện đáng kể các rối loạn chức năng sau thời gian ngắn.

Hình. 9-10 Xác nhận mức độ giảm ngứa và nứt nẻ âm hộ trung bình rất đáng kể trên 35 bệnh nhân và thời gian duy trì tác dụng (lâu hơn 6 tháng) sau một lần điều trị duy nhất với Desirial Plus. A, Tình trạng ngứa. B, Tình trạng nứt nẻ. (FSFI, Chỉ só chức năng tình dục ở nữ giới.)
Hình. 9-10 Xác nhận mức độ giảm ngứa và nứt nẻ âm hộ trung bình rất đáng kể trên 35 bệnh nhân và thời gian duy trì tác dụng (lâu hơn 6 tháng) sau một lần điều trị duy nhất với Desirial Plus. A, Tình trạng ngứa. B, Tình trạng nứt nẻ. (FSFI, Chỉ só chức năng tình dục ở nữ giới.)

Biến chứng

Các biến chứng liên quan đến việc làm đầy môi âm hộ được liệt kê trong CHƯƠNG 8. Không giống như các kỹ thuật tiêm mỡ tự thân (lipofilling) để định hình lại môi âm hộ, các biến chứng của tiêm HA rất hiếm gặp. Các biến chứng khi tiêm Desirial Plus vào môi âm hộ liên quan đến kỹ thuật tiêm và phân bố chất làm đầy kém, dẫn tới hình thành các nốt sần và các vết lõm khó coi ngay sau phẫu thuật, bao gồm hình dạng “bánh pudding”, hình các cột hoặc “tinh hoàn”.

Tiêm vào tiểu thể mỡ môi âm hộ có thể hình thành khối máu tụ, nang, viêm hạch bạch huyết gây đau đớn hoặc sự phân bố không hài hòa của sản phẩm làm đầy tạo ra các nốt sần. Kết quả được mô tả như hình cái “tất” hoặc “trụ”.

Về mặt lý thuyết, cũng như khi tiêm HA ở mặt, một nốt hoặc u hạt có thể là hậu quả của phản ứng viêm sau tiêm, biến chứng này có thể điều trị bằng corticosteroid hoặc cắt bỏ.

Bác sĩ cần thực hiện đúng đủ các bước trong kỹ thuật tiêm và đánh dấu các vùng an toàn xung quanh môi lớn. Hầu hết các vấn đề là nhỏ và dễ giải quyết (Bảng 9-1). Chú ý, sẽ xảy ra tình trạng rò rỉ và mất toàn bộ chất làm đầy khi tiêm nhầm vào vị trí miếng đệm mỡ ụ ngồi trực tràng (Hình.9-11).

Bảng 9-1 Tác dụng không mong muốn sau tiêm filler*

Tác dụng không mong muốn Tần suất
Bầm tím (nhẹ đến trung bình) 3
Đau trong quá trình tiêm (nhẹ đến trung bình) 6
Phù thoáng qua (nhẹ đến trung bình) 9
Đau sau khi mát xa phân bố filler (nhẹ đến trung bình) 6
Tấy đỏ/phát ban (nhẹ đến trung bình) 9

*Ngoài ra còn có các tác dụng phụ kinh điển cổ điển, tuy nhiên chúng không kéo dài.

Kết quả nghiên cứu lâm sàng trên 50 bệnh nhân khẳng định rằng tác dụng tiêu cực xảy ra ở dưới 10% các trường hợp và giống với tác dụng phụ khi tiêm các hoạt chất khác.

Hình. 9-11 Mỡ dưới môi lớn liên tiếp với đệm mỡ ụ ngồi trực tràng
Hình. 9-11 Mỡ dưới môi lớn liên tiếp với đệm mỡ ụ ngồi trực tràng
Để lại một bình luận (Quy định duyệt bình luận)

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

The maximum upload file size: 1 MB. You can upload: image. Drop file here