Tác giả: Christine Hamori, Paul Banwell, Red Alinsod
nhathuocngocanh.com – Bài viết Hướng phát triển và những tiến bộ trong tương lai của thẩm mỹ vùng kín được trích từ chương 14 sách Phẫu thuật Thẩm mỹ vùng kín : Chỉ định, Kỹ thuật thực hiện và Áp dụng lâm sàng.
Những điểm chính
- Điểm G nằm dưới niệu đạo của người phụ nữ, khoảng giữa xương mu và cổ tử cung và chịu trách nhiệm ‘kích hoạt’ trạng thái cực khoái.
- Giải phẫu chính xác của điểm G không rõ ràng.
- Âm đạo lỏng lẻo có thể được điều trị bằng phẫu thuật tạo hình âm đạo, bao gồm việc nâng niêm mạc âm đạo để thắt chặt các cơ treo, loại bỏ lớp niêm mạc âm đạo thừa và cố định lại các cơ vùng chậu.
- Teo âm đạo có thể được điều trị bằng các liệu pháp estrogen tại chỗ, toàn thân, RF và laser.
- Trẻ hóa âm đạo bằng laser là phương pháp điều trị tạm thời, ít xâm lấn, có thể thực hiện đơn độc hoặc sau các phẫu thuật tạo hình âm đạo.
- Trẻ hóa âm đạo bằng sóng RF thúc đẩy sự hình thành và tái tạo collagen, và cũng là 1 phương pháp điều trị tạm thời, tương tự như laser, nó đạt được hiệu quả cao khi kết hợp cùng với phẫu thuật tạo hình âm đạo.
Điểm G
Lịch sử
Hiếm khi trong y học hiện đại, và đặc biệt là trong giới tính học và y học tình dục, có quá nhiều phản ứng liên quan đến cực khoái của phụ nữ nói chung và đến điểm G nói riêng. Theo thần thoại, Tiresias, con trai của một người chăn cừu và một tiên nữ, đã bị nữ thần Hera trừng phạt vì đã đánh một cặp rắn đang giao cấu và bị biến thành phụ nữ. Sau đó, Tiresias bị lôi kéo vào một cuộc tranh cãi giữa Zeus và Hera xem nam hay nữ là người có khoái cảm hơn khi quan hệ tình dục: người đàn ông, theo tuyên bố của Hera, hay người phụ nữ, theo tuyên bố của Zeus. Là một phụ nữ đã từng là đàn ông, Tiresias trả lời rằng: “Nếu cực khoái tương ứng với 10 phần, người đàn ông chỉ đang cảm nhận được một.” Hera ngay lập tức khiến Tiresias bị mù vì sự bất cần của anh ta (hoặc cô ta) và vì tiết lộ bí mật về cực khoái của phụ nữ. Huyền thoại này cho thấy, vì bất cứ lý do gì, sự thật về tính dục nữ phần lớn đã bị che giấu, kể cả từ thời cổ đại.
Trong thế kỷ 20, văn hóa phương Tây hiện đại đã hướng tới niềm tin rằng phụ nữ không có khả năng đạt cực khoái mãnh liệt, ngoại trừ bằng cách tác động trực tiếp lên âm vật. Quan niệm này đã được củng cố bởi công trình của Masters và Johnson, người có nghiên cứu cho rằng âm vật của phụ nữ là nguồn duy nhất của khoái cảm phụ nữ, mặc dù nhiều phụ nữ nhận thấy rằng điều này khác xa sự thật.
Quan niệm sai lầm này vẫn tồn tại cho đến năm 1950, khi một bài báo của bác sĩ phụ khoa người Đức Ernst Grafenberg thu hút sự chú ý của ông về những phát hiện về một khu vực kích thích khoái cảm trong niệu đạo của phụ nữ, khoảng giữa xương mu và cổ tử cung. Tiến sĩ. John Perry và Beverly Whipple đã đặt tên khu vực này của niệu đạo là Grafenberg spot hay G-spot.
Whipple — đồng tác giả của The G-Spot và những khám phá khác về tình dục con người — tuyên bố rằng điểm G bị rất nhiều bác sĩ bỏ qua trong nửa đầu thế kỷ 19 vì hai lý do. Đầu tiên, điểm G nằm trên thành trước của âm đạo, đây là vùng không được sờ nắn khi khám âm đạo. Khi thầy thuốc sờ nắn vùng này ở bệnh nhân, bệnh nhân sẽ có phản ứng. Thứ hai, các bác sĩ được đào tạo để không gây ra kích thích này. Whipple tuyên bố rằng tất cả các Bs phụ khoa sờ nắn khu vực này theo hướng dẫn của cô ấy và Tiến sĩ Perry đều thấy bệnh nhân bị kích thích.
Phân loại cực khoái
Phụ nữ có thể có hai loại cực khoái. Tuy nhiên, chúng không hoàn toàn là ở vị trí “âm vật” và “âm đạo” như một số tác giả đã báo cáo. Đúng hơn, chúng nên được gọi là “kích hoạt âm vật” so với “kích hoạt cuối cùng.” Trong nghiên cứu của họ về cực khoái được kích hoạt ở âm đạo so với cực khoái được kích hoạt ở âm vật, Jannini và cộng sự đã chỉ ra rằng cực khoái do kích thích âm vật trực tiếp luôn mạnh mẽ, bùng nổ, kéo dài ngắn, nông và khu trú hơn, chỉ giới hạn ở vùng mu. Ngược lại, cực khoái được kích hoạt qua âm đạo được mô tả là lan tỏa hơn, toàn bộ cơ thể, tỏa ra nhiều hơn, thỏa mãn hơn về mặt tâm lý và kéo dài hơn. Người ta đã chứng minh thêm rằng phụ nữ đạt cả hai loại cực khoái thậm chí còn sâu hơn, nhiều hơn, cực khoái mạnh mẽ hơn do sự kết hợp co ở cả hai khu vực cùng một lúc.
Cực khoái phổ biến nhất (đôi khi được gọi là cực khoái do âm vật kích hoạt) cũng liên quan đến âm đạo, bởi vì kích thích âm vật tạo ra các cơn co thắt của cơ mu cụt hỗ trợ sàn chậu, với cảm nhận là các cơn co thắt âm đạo. Cực khoái do kích thích điểm G cũng liên quan đến âm đạo nhưng gây ra các cơn co thắt xung quanh tử cung, nơi cao hơn sàn chậu vài inch, và cũng có thể liên quan đến các cơ phần dưới của thành bụng trước.
Giải phẫu điểm G
Các cấu trúc giải phẫu có thể gây ra cực khoái được kích hoạt qua âm đạo, chưa được mô tả đầy đủ và rõ ràng. Đây có lẽ là kết quả của sự mơ hồ về giải phẫu tổng thể của con người (Hình. 14-1). Sau khi xuất bản cuốn sách Điểm G và những khám phá khác về tình dục con người vào năm 1982, nhiều nhà khoa học đã bắt đầu tìm kiếm một cơ quan hoặc vị trí cụ thể trong thành trước âm đạo có mật độ dây thần kinh cao có thể giải thích sự gia tăng độ nhạy cảm của khu vực này, được nhiều phụ nữ báo cáo.
Gần đây, Gravina và cộng sự đã chứng minh mối tương quan trực tiếp giữa độ dày của khoang niệu đạo – âm đạo, hoặc điểm G và cực khoái được kích hoạt ở âm đạo. Zaviacic và cộng sự khẳng định rằng kho-ang này chứa tuyến tiền liệt của phụ nữ. Mặt khác, Crooks và Baur báo cáo rằng điểm G bao gồm một hệ thống các tuyến (tuyến Skene) và các ống dẫn bao quanh niệu đạo. Tuyến tiền liệt của phụ nữ được coi là một bộ phận không có chức năng.
Zaviacic và Albin đã chứng minh rằng tuyến tiền liệt có thể được coi là một cơ quan ở cả nam và nữ, có kích thước, trọng lượng và chức năng khác nhau, nhưng các thông số định tính giống nhau ở cả hai giới tính. Battaglia và cộng sự đã nghiên cứu một nhóm phụ nữ bằng cách siêu âm và kiểm tra Doppler màu. Khoang âm đạo – niệu đạo và âm vật được quét trên siêu âm độ phân giải cao bằng chế độ Doppler màu.
Gravina và cộng sự đã kiểm tra khoang âm – niệu đạo dọc theo một đường kẻ giữa viền cơ trơn, lớp niêm mạc-dưới niêm mạc của thành niệu đạo, và đường viền của thành âm đạo và lòng của nó. Sự tái tạo không gian ba chiều của khoang âm – niệu đạo cho thấy chúng giống như một tuyến với các mạch nuôi nhỏ. Komisaruk và cộng sự đã xác nhận sự hiện diện của một số cơ quan khác nhau trong vùng cơ thể rất phức tạp này. Họ nói rằng khu vực này có thể bao gồm thành trước âm đạo, chính niệu đạo, các tuyến Skene (bao gồm các tuyến quanh niệu đạo, còn được gọi là tuyến tiền liệt nữ), có lẽ là cả các tuyến khác trong khu vực này (tuyến tiền đình và tuyến Bartholin), cơ và mô liên kết bao quanh, và có thể là phần đáy của âm vật. Gravina và cộng sự đã chứng minh rằng những phụ nữ báo cáo đạt cực khoái được kích hoạt qua đường âm đạo có khoảng cách giữa niệu đạo và niêm mạc âm đạo lớn hơn so với những phụ nữ còn lại, do đó cho thấy một phức hợp âm vật – âm đạo – niệu đạo (điểm G) lớn hơn sẽ dễ bị kích hoạt hơn. Phát hiện này đã được xác nhận bởi các nhà nghiên cứu khác, những người phát hiện ra rằng cực khoái được kích hoạt qua âm đạo không chỉ có liên quan đến âm đạo dày hơn mà còn với vách ngăn âm – niệu đạo dài hơn.
Ngoài vai trò quan trọng trong việc căng cứng các thành phần cương (mạch máu) của phức hợp âm vật – âm đạo – niệu đạo khi kích thích tình dục, mô này nằm ở bề mặt bên dưới lớp niêm mạc của âm đạo trong một nghiên cứu khám nghiệm tử thi. Dựa trên phát hiện giải phẫu này, làm đầy âm đạo (như trong làm đầy điểm G), qua đường âm đạo có khả năng không chính xác. Những phát hiện này cho thấy chất làm đầy nên được đặt gần niệu đạo hơn là thành âm đạo.
Âm vật được chi phối chủ yếu bởi dây thần kinh thẹn (xem Hình. 1-11), âm đạo được chi phối bởi là dây thần kinh vùng chậu, và cổ tử cung bởi dây thần kinh hạ vị, vùng chậu và phế vị. Do đó, một số đường dẫn thần kinh được kích hoạt trong quá trình phức hợp âm vật – âm đạo – niệu đạo được kích thích (các dây thần kinh vùng chậu, hạ vị và phế vị), trong khi chỉ có dây thần kinh thẹn bị kích thích trực tiếp trong quá trình kích thích âm vật, điều này ít nhất có thể giải thích rõ ràng sự khác biệt về cảm giác giữa cực khoái được kích hoạt âm vật và cực khoái được kích hoạt qua âm đạo.
Trong một nghiên cứu gần đây, giải phẫu tử thi tươi đông lạnh, Ostrzenski xác định điểm G là một cấu trúc kéo dài nằm trên màng đáy chậu ở một góc xiên 35 độ với mặt lưng (nghĩa là, về phía âm đạo) với niệu đạo. Cực trên cách niệu đạo 15mm cực dưới cách 3mm, và toàn bộ cấu trúc gần như là tổ chức sợi (Hình. 14-2).
Điều trị
Bệnh sử và khám lâm sàng
Tất cả phụ nữ đều có điểm G. Không phải tất cả phụ nữ đều đạt cực khoái tại điểm G (cliterourethrovaginal complex). Nguyên nhân có thể là do âm vật nằm nông và dễ bị kích thích, ngược lại điểm G bị che khuất và khó kích thích hơn. Cả phụ nữ và nam giới ban đầu có xu hướng tập trung vào việc kích thích âm vật, đặc biệt là trong quá trình thủ dâm; tuy nhiên, một số phụ nữ phát hiện ra điểm G của họ sau khi dậy thì và học cách kích thích nó. Những phụ nữ này có nhiều khả năng đạt cực khoái điểm G hơn những người chỉ tập trung vào âm vật. Vì vậy, khi xem xét tiền sử của bệnh nhân, việc xác định loại cực khoái mà bệnh nhân có là điều cần thiết. Những bệnh nhân không đạt cực khoái (điểm G) kích hoạt qua đường âm đạo cần được dạy cách đạt được những điều này, bởi vì chỉ làm đầy điểm G sẽ không đảm bảo rằng bệnh nhân sẽ đạt cực khoái điểm G (xem phần tự khám phá điểm G).
Khám lâm sàng bao gồm khám tổng quát thông thường và khám âm đạo (bao gồm xác định điểm G của bệnh nhân). Với các ngón tay nhẹ nhàng đưa vào âm đạo 1 đoạn sâu khoảng 5 đến 6 cm và bên dưới xương mu, áp lực lên thành trước âm đạo dọc đường giữa, ở khoảng giữa xương mu và cổ tử cung ban đầu sẽ gây buồn tiểu. Sau khi đi tiểu và gây áp lực trở lại, bệnh nhân sẽ đạt được cực khoái. Người khám nên dừng lại ở điểm này, ghi lại độ sâu của điểm G liên quan đến một mốc giải phẫu cố định như lỗ niệu đạo, và tiếp tục thông báo cho bệnh nhân. Độ sâu ghi lại của điểm G sẽ hữu ích sau này trong quá trình làm đầy điểm G.
Tự khám phá điểm G
Những bệnh nhân không kích hoạt âm đạo phải được dạy cách kích thích điểm G của họ. Họ nên đạt cực khoái do điểm G trước khi tiến hành làm đầy điểm G. Điều này sẽ giúp đảm bảo kết quả thu được như mong muốn. Để làm điều này, bệnh nhân sẽ được Bs hướng dẫn để tìm điểm G (với sự có mặt của y tá). Bệnh nhân ngồi thẳng và được hướng dẫn cách và vị trí để xác định điểm G bằng ngón tay của mình. Điều này có thể khó khăn đối với một số bệnh nhân. Trong những trường hợp này, tôi lấy máy rung tìm điểm G và xác định vị trí cho cô ấy. Sau đó, cô ấy tự cầm máy rung và xác định lại vị trí của điểm G trên thành trước âm đạo của cô ấy. Nếu cô ấy đã mang theo máy rung của riêng mình, chúng tôi sẽ sử dụng nó và chúng tôi sẽ đánh dấu mép của máy rung để hỗ trợ cô ấy tìm độ sâu chính xác khi thực hiện việc này tại nhà. Hầu hết bệnh nhân học kỹ thuật này một cách dễ dàng, mặc dù một số cần tới vài buổi thực hành. Tôi khuyên họ nên ngồi trước gương ở nhà với phần đùi gấp lại hoàn toàn và hơi gập vào hông để lộ phần lỗ âm đạo. Họ sẽ tiến hành như trong phòng khám của tôi. Tôi nghĩ rằng có một y tá đứng cùng (không phải bạn bè hoặc thành viên gia đình) là rất quan trọng. Tôi đeo găng tay và nhấn mạnh càng nhiều càng tốt về mặt lâm sàng và tâm lý học về tính nhạy cảm của việc khám nghiệm này. Khoảng 35% phụ nữ không thể đạt được cực khoái điểm G ngay cả ở mức độ nhẹ. Tôi giới thiệu những bệnh nhân này đến một nhà trị liệu tình dục, điều này hữu ích trong nhiều trường hợp (khoảng 15%). Một số mất khả năng theo dõi và một số tiếp tục điều trị.
Những phụ nữ chưa tìm thấy điểm G
Là một phần của việc khám sức khỏe, khi bác sĩ đã xác định được điểm G, bệnh nhân nên được chỉ ra vị trí của điểm G bằng cách cho ngón tay của cô ấy vào dọc theo thành trước âm đạo cho đến khi cô ấy cảm thấy cùng một cảm giác tương tự như khi người khám thực hiện trong khi khám. Bệnh nhân nên được yêu cầu mua một cái gọi là máy rung tìm điểm G, được thiết kế đặc biệt để kích thích thành trước âm đạo để cô ấy có thể tìm điểm G tại nhà. Bạn tình của bệnh nhân cũng nên được dạy cách xác định vị trí của điểm G bằng ngón tay để sau này có thể ‘thực hành’ tốt hơn.
Những phụ nữ đã tìm thấy điểm G
Huyết tương giàu tiểu cầu và các phương pháp làm đầy điểm G khác chỉ nên được thực hiện cho những phụ nữ đã đạt cực khoái điểm G, tuy nhiên điều này không thôi là không đủ. Những kỹ thuật này sẽ chỉ nâng cao thời gian và cường độ của cực khoái điểm G ở những phụ nữ này. Theo kinh nghiệm của tôi, những phương pháp này sẽ không gây ra cực khoái điểm G ở những phụ nữ chưa từng đạt cực khoái điểm G.
Huyết tương giàu tiểu cầu
Huyết tương giàu tiểu cầu là một liệu pháp mới cho lĩnh vực này (xem CHƯƠNG 15). Kinh nghiệm về việc sử dụng nó còn hạn chế, và không có bài báo nào được bình duyệt về việc sử dụng nó. Tôi không có kết luận nào về sản phẩm này dựa trên kinh nghiệm hạn chế của bản thân. Trong một số ít trường hợp mà tôi đã thực hiện, không có trường hợp nào cải thiện cực khoái điểm G và không trường hợp nào chuyển đổi từ không đạt cực khoái điểm G thành có.
Làm đầy điểm G qua ngả âm đạo và ngả niệu đạo
Việc làm đầy điểm G hoạt động trên cơ sở đẩy điểm G ra phía trước, về phía lòng âm đạo trên thành âm đạo sẽ đưa nó tiếp xúc nhiều hơn với dương vật khi quan hệ và tăng khả năng bệnh nhân có cực khoái điểm G lâu hơn và mãnh liệt hơn. Các kỹ thuật hiện tại để đưa hóa chất qua đường âm đạo như collagen hoặc các chất làm đầy ngắn hạn khác hoặc các chất làm đầy dài hạn khác vào thành trước của âm đạo đều không hiệu quả . Kỹ thuật G-Shot®, được David Matlock mô tả, đưa hóa chất vào phần tổ chức dưới âm đạo (nghĩa là, giữa điểm G và niêm mạc âm đạo) hoặc vào điểm G trong vách ngăn âm đạo – niệu đạo.
Bởi vì phần lớn điểm G nằm gần thành âm đạo hơn thành niệu đạo, nên việc đưa hóa chất vào vị trí ngay dưới cơ của niệu đạo ở khoảng giữa cơ và điểm G sẽ hợp lý hơn (Hình 14- 3 và 14-4) để đẩy các cấu trúc điểm G tiến về phía lòng âm đạo và tạo điều kiện cho chúng dễ tiếp cận với dương vật khi quan hệ.
Tôi đã thành công với quy trình tiêm 1,5 đến 2,5 ml Macroplastique® (Cogentix Medical) qua niệu đạo bằng bộ tiêm dịch nhầy Storz (xem Hình. 14-3). Macroplas-tique được đặt ngay dưới cơ niệu đạo, phía trên điểm G (đã được xác định trước đó) để làm cho điểm G bị đẩy về phía âm đạo. Ngoài ra, có thể sử dụng thiết bị Cấy ghép Macroplastique, bản chất là 1 thủ thuật mù, yêu cầu phải sờ nắn điểm G qua đường âm đạo để đảm bảo rằng đầu của thiết bị nằm trong niệu đạo ở vị trí chính xác (xem Hình 14- 4). Kim được đưa vào và hoàn tất quá trình tiêm.
Macroplastique là silicone y tế được phân tích nhiệt trọng lượng (TGA) – được chấp thuận để tiêm quanh niệu đạo và quanh tử cung để điều trị các bệnh lý tiết niệu khác nhau. Nó là chất làm đầy vĩnh viễn và không di chuyển hoặc mất khối lượng. Tuy nhiên nếu đặt sai vị trí thì nó dễ dàng bị đào thải. Ngược lại, axit hyaluronic là chất làm đầy tạm thời, chỉ kéo dài từ 12 đến 18 tháng; nếu nó được kết hợp với Bo-tox, nó có thể kéo dài từ 2 đến 2.5 năm. Sau tiêm, chúng có thể được điều chỉnh bằng cách tiêm hyaluronidase nhằm giảm thiếu tác động làm đầy, nhưng việc loại bỏ 100% sẽ khá mất thời gian. Dị ứng với axit hyal-uronic đôi khi xảy ra, trong khi dị ứng với silicone chưa bao giờ được báo cáo, theo những gì tôi biết.
Tôi đã sử dụng Macroplastique (silicon) hoặc gel polyacrylamide (Aquamid, Contura) cho thấy kết quả tốt như nhau.
Việc sử dụng các chất làm đầy tạm thời có thể cải thiện hàm lượng collagen cục bộ và kích thích tăng sinh collagen, tăng lưu lượng máu nếu sử dụng axit hyaluronic hoặc các sản phẩm Radiesse và / hoặc huyết tương giàu tiểu cầu. Lưu lượng máu cục bộ tăng lên có thể giúp giải thích cách hoạt động của những mũi tiêm này ở một số bệnh nhân.
Theo kinh nghiệm của tôi với 230 bệnh nhân, một số chỉ có âm vật và một số có cực khoái điểm G, kỹ thuật này (gel Mac-roplastique hoặc polyacrylamide đưa qua đường niệu đạo) đã tạo ra kết quả tuyệt vời với việc cải thiện cực khoái kích hoạt ở âm đạo về cường độ và tần suất. Tại bài viết này, 99% phụ nữ trong nghiên cứu của tôi, những người có cực khoái điểm G kém chất lượng trước khi điều trị đã cải thiện cực khoái điểm G ngay sau đó. Tổng số người có cực khoái điểm G chất lượng tốt sau điều trị là 189 (82%) và tổng số người có cực khoái điểm G chất lượng thấp hơn đã chuyển đổi thành cực khoái điểm G chất lượng tốt là 187, tương đương với 99 % bệnh nhân đạt thành công sau điều trị. Trong số những người không đạt cực khoái điểm G trước khi điều trị, chỉ 65% có thể chuyển đổi với phương pháp được mô tả trước đây (trong phần phụ nữ không đạt cực khoái điểm G). Tuy nhiên, 92,5% bệnh nhân của tôi trong nhóm này cuối cùng đã đạt cực khoái điểm G chất lượng tốt sau khi điều trị.
Sau khi đưa gel Macroplastique hoặc polyacrylamide vào vách ngăn niệu đạo – âm đạo bên dưới cơ niệu đạo, tạm thời bệnh nhân sẽ có nguy cơ tắc nghẽn niệu đạo. Do đó, tôi đặt một ống thông Foley 14 Fr vào bàng quang, vừa để tránh bí tiểu, vừa để vật liệu được bơm vào lan ra xung quanh niệu đạo và cho phép nó tạo thành hình chữ U. Sonde tiểu vẫn giữ nguyên qua đêm và được lấy ra vào sáng hôm sau.
Trong thời gian này, Macroplastique hoặc gel polyacrylamide sẽ được định hình theo tác động của ống thông tiểu (đẩy cấu trúc điểm G về phía âm đạo) và phát triển một nang (bao) bọc xung quanh vật liệu (ví dụ, tương tự như những gì xảy ra xung quanh mô cấy ghép ngực); điều này góp phần vào sự ổn định vị trí và tuổi thọ của nó. Bệnh nhân được xuất viện sau khi họ có thể đi tiểu bình thường.
Theo kinh nghiệm của tôi, việc đưa khoảng 2,5 đến 5 ml gel Macroplastique hoặc polyacrylamide ngay dưới thành cơ niệu đạo ở đường giữa thường đạt được kết quả tuyệt vời.
Biến chứng
Tỷ lệ tắc nghẽn đường tiết niệu trong nghiên cứu loạt ca lâm sàng của tôi là 7 trên 10. Những bệnh nhân này được điều trị bằng cách đặt một ống thông niệu đạo trong 12 giờ và được xuất viện mà không gặp bất kỳ vấn đề nào khác. Sau đó, tôi bắt đầu đặt ống thông niệu đạo thường quy ngay sau khi tiêm, giữ bệnh nhân ở bệnh viện qua đêm và rút ống thông vào sáng hôm sau. Sau khi bệnh nhân có thể đi tiểu qua niệu đạo, họ được xuất viện (thường là vào cuối buổi sáng hôm đó).
Tạo hình âm đạo
Sau khi sinh con, mãn kinh và quá trình lão hóa, phụ nữ có thể bị kéo căng cơ sàn chậu và dây chằng vùng chậu và những thay đổi về da có thể làm thay đổi hình dạng và chức năng của âm đạo bên trong và bên ngoài. Những thay đổi này đã được giải quyết bằng các loại kem bôi tại chỗ chứa hormone, chất bôi trơn và phẫu thuật. Chúng cũng có thể được điều trị bằng phẫu thuật tạo hình âm đạo (xem CHƯƠNG 11), bao gồm việc thắt chặt các cơ vòng của âm đạo thông qua việc nâng niêm mạc, loại bỏ lớp niêm mạc âm đạo dư thừa và gắn lại các cơ đã được thắt chặt.
Trước thời kỳ cao trào, âm đạo được cấu tạo bởi các lớp tế bào khỏe mạnh dày, và các estrogen khuyến khích sự tăng trưởng và phát triển của các tế bào này. Kết quả là, biểu mô âm đạo vẫn có nhiều lớp, và các bức tường của nó dẻo dai và đàn hồi.
Sự giảm dần các estrogen lưu hành xảy ra sau khi ngừng chức năng buồng trứng trong thời kỳ mãn kinh gây ra những thay đổi về mô và chuyển hóa, nổi bật nhất là ở đường sinh dục vì nó có độ nhạy cao với sự thay đổi nồng độ hormone sinh dục. Teo âm đạo là 1 tình trạng tiến triển được coi là sự xâm thực của các mô và màng nhầy âm hộ âm đạo do sự sụt giảm nồng độ estro-gen ở thời kỳ mãn kinh.
Các triệu chứng điển hình của teo âm hộ, phản ánh những thay đổi về hình thái – chức năng âm hộ, bao gồm khô âm đạo, ngứa, rát, kích ứng, khó tiểu và khó thở. Các thành âm đạo có vẻ mỏng hơn và kém đàn hồi hơn với ít nếp gấp hơn. Bề mặt âm đạo có vẻ khô và thường chảy máu sau một chấn thương nhỏ. Vùng âm hộ, đặc biệt là âm vật, trở nên teo và dễ bị tổn thương hơn.
Một số lựa chọn điều trị có sẵn để điều trị các triệu chứng teo âm hộ. Chúng bao gồm RF (xem CHƯƠNG 16), huyết tương giàu tiểu cầu (xem CHƯƠNG 15), chất làm đầy axit hyaluronic, các sản phẩm không chứa chất sinh nhiệt, liệu pháp đặt thuốc âm đạo cho trường hợp có triệu chứng dai dẳng và liệu pháp thay thế nội tiết tố toàn thân. Chất bôi trơn đã được chứng minh là làm giảm kích ứng âm đạo trong hoạt động tình dục nhưng không mang lại giải pháp lâu dài. Hạn chế chính của các phương pháp này là sự tái phát của các triệu chứng khi việc điều trị đã kết thúc. Hơn nữa, việc điều trị thường chỉ có hiệu quả ở lớp bề ngoài của thành âm đạo.
Gần đây, nhu cầu ngày càng tăng về một lựa chọn điều trị an toàn, lâu dài, có thể điều trị hiệu quả các lớp sâu của niêm mạc âm đạo, ngoài biểu mô. Bằng cách áp dụng các nguyên tắc của y học tái tạo và chống lão hóa vào niêm mạc âm đạo, việc sử dụng laser CO2 phân đoạn có thể được mở rộng để điều trị cho bệnh nhân bị teo âm hộ. Như được hiển thị ở các khu vực khác của cơ thể, laser CO2 phân đoạn tạo ra sự tái tạo tại chỗ của mô liên kết và sản xuất collagen và sợi đàn hồi.
Trẻ hóa âm đạo bằng Laser
Dựa trên kết quả thu được trên da, Peri-no và cộng sự đã áp dụng phương pháp điều trị bằng laser CO2 phân đoạn được thiết kế đặc biệt cho niêm mạc âm đạo. Họ đã chỉ ra rằng laser CO2 phân đoạn nhiệt áp là một lựa chọn an toàn, hiệu quả và khả thi để điều trị các triệu chứng teo âm hộ ở phụ nữ sau mãn kinh.
Vào năm 2011, Gaspar và cộng sự lần đầu tiên đã chứng minh sự cải thiện đáng kể về mô học trong các mẫu sinh thiết âm đạo đã được điều trị bằng laser CO2 phân đoạn, vi mô kết hợp với huyết tương giàu tiểu cầu. Họ đã quan sát thấy những thay đổi có lợi trong ba lớp của thành âm đạo trái ngược với những thay đổi gây ra bởi es-trogen hoặc các liệu pháp cục bộ khác chỉ điều trị biểu mô.
Salvatore và cộng sự gần đây đã công bố một nghiên cứu thử nghiệm về việc sử dụng laser CO2 phân đoạn để điều trị teo âm hộ ở phụ nữ sau mãn kinh. Kết quả cho thấy sự cải thiện đáng kể trong chức năng tình dục và sự hài lòng tổng thể đối với đời sống tình dục. Sau 12 tuần theo dõi, khoảng 2/3 số bệnh nhân nghiên cứu có dấu hiệu cải thiện. Khô âm đạo được cải thiện ở 66% bệnh nhân, nóng rát âm đạo ở 64%, ngứa âm đạo ở 67%, giao hợp đau ở 66% và khó tiểu ở 54% bệnh nhân. Alinsod đã thực hiện một nghiên cứu tương tự vào 12 tuần sau ba lần điều trị bằng RF, đã cho thấy sự cải thiện gần như 100% đối với tình trạng khô, rát, ngứa và giao hợp đau.
Trong một nghiên cứu vi mô và siêu cấu trúc, Zerbinati và cộng sự đã đưa ra kết quả ủng hộ mạnh mẽ giả thuyết rằng việc sản xuất collagen mới và các thành phần cơ bản trong mô liên kết, glycogen và các chất nhầy có tính axit trong biểu mô có thể tái cân bằng và phục hồi niêm mạc âm đạo khỏi bị teo gây ra. do không có estrogen buồng trứng, dẫn đến cải thiện đáng kể các triệu chứng lâm sàng. Điều này đúng với điều trị bằng laser và RF. Với RF, lưu lượng máu cục bộ trong âm đạo tăng lên, dẫn đến tăng dịch truyền âm đạo và cải thiện độ nhạy. Trong nghiên cứu của Perino và cộng sự, 28 91% bệnh nhân được điều trị bằng laser CO2 tuyên bố rằng họ hài lòng hoặc rất hài lòng với quy trình này, tương ứng với sự cải thiện đáng kể về chất lượng cuộc sống.
Khoảng thời gian của những thay đổi ở âm đạo do ứng dụng laser gây ra đòi hỏi phải làm rõ. Salvatore và cộng sự đã xác nhận rằng tác động lên quá trình tái tạo col-lagen, mà họ đã chứng minh sơ bộ trong các mẫu mô âm đạo, tương tự như những gì đã được quan sát thấy trong cơ thể ở các vùng da khác. Hiện tại, Mitch Goldman, ở San Diego, đang tiến hành một nghiên cứu để hiểu rõ hơn về cách RF cải thiện những thay đổi teo của âm hộ âm hộ. Từ những nghiên cứu này, có vẻ như phương thức điều trị tương đối mới này chủ yếu được áp dụng để cải thiện các triệu chứng niêm mạc âm đạo như ngứa, khô, rát và giao hợp đau ở phụ nữ sau mãn kinh.
Phương thức điều trị này có thể có một số vai trò ở phụ nữ tiền mãn kinh (xem CHƯƠNG 16). Tuy nhiên, điều đó có vẻ khó xảy ra, bởi vì phàn nàn chính của họ là mất cảm giác xúc giác khi giao. Điều này phổ biến nhất là do các cơ sàn chậu bị kéo căng và giờ trở nên lỏng lẻo. Tại thời điểm viết bài này, không có bằng chứng nào cho thấy kết quả thắt chặt cơ âm đạo đáng kể từ điều trị bằng laser CO2 phân đoạn. Điều này hoàn toàn tương tự với những gì xảy ra trên khuôn mặt, nơi tái tạo bề mặt bằng laser CO2 kiểu cũ hoặc erbium tạo ra một làn da săn chắc nhưng không ở đâu gần với những thay đổi mà phẫu thuật căng da mặt có thể tạo ra. RF và laser có tác dụng khác nhau trên các mô. RF được biết là có tác dụng chữa lành các cơ và mô cơ, và nó được sử dụng rộng rãi trong các môn thể thao chuyên nghiệp để giúp các vận động viên chữa lành các mô và mô bị rách hoặc bị tổn thương nhanh hơn. Các báo cáo giai thoại từ những bệnh nhân được điều trị bằng RF đã ghi nhận chức năng cơ phối hợp hiệu quả hơn, bởi vì RF đưa các cơ căng ra gần nhau hơn, cho phép cơ hoạt động như một đơn vị có tổ chức. Bệnh nhân giải thích hành động phối hợp này là sự co cơ mạnh hơn của họ, mặc dù không có kiểm tra sức mạnh và chức năng của cơ được thực hiện.
Một ưu điểm của phương pháp tạo hình âm đạo bằng laser CO2 là tính chất xâm lấn tối thiểu. Chỉ mất 15 phút và thường yêu cầu ba lần điều trị cách nhau hàng tháng. Bệnh nhân có thể trở lại làm việc muộn hơn cùng ngày hoặc ngày hôm sau. Tuy nhiên, bệnh nhân không nên sinh hoạt tình dục tối đa 6 tuần sau mỗi đợt điều trị.
Tôi nghĩ rằng cuối cùng những phụ nữ tiền mãn kinh với đầy đủ niêm mạc âm đạo, cơ sàn chậu lỏng lẻo và tình trạng khô hạn có thể được hưởng lợi tốt từ sự kết hợp của phẫu thuật tạo hình thành sau âm đạo tiêu chuẩn và trẻ hóa âm đạo bằng laser CO2 khoảng 6 tuần sau phẫu thuật tạo hình âm đạo. Ngoài ra, bác sĩ phẫu thuật có thể tiến hành phẫu thuật tạo hình âm đạo, tiếp theo là điều trị RF sau phẫu thuật, vào lần khám hậu phẫu sau 6 tuần và lần thứ hai một tháng sau đó. Điều này cho phép sự phát triển của độ pH bình thường và âm đạo được giữ ẩm bình thường trong cùng một khung thời gian chữa bệnh cần thiết cho chính cuộc phẫu thuật.
Trẻ hóa âm đạo bằng RF
Năm 2010 Millheiser và cộng sự đã báo cáo về nghiên cứu thử nghiệm đầu tiên sử dụng phương pháp điều trị RF không phẫu thuật để cải thiện chủ quan độ se khít âm đạo. Năm 2012, Sekiguchi và cộng sự, 34 tuổi từ Phòng khám Phụ nữ LUNA, ở Nhật Bản, đã báo cáo về loạt thứ hai gồm 30 bệnh nhân được điều trị bằng RF để phục hồi âm đạo. Alinsod đã thực hiện một nghiên cứu thí điểm theo cách tương tự với ThermiVa với 23 bệnh nhân. Ông cũng thực hiện một nghiên cứu chưa được công bố, được IRB chấp thuận bao gồm hơn 60 bệnh nhân và điều đó đã xác nhận kết quả nghiên cứu của Millheiser, Sekiguchi và Alinsod.
Millheiser và Sekiguchi đã báo cáo về những phụ nữ sinh ngả âm đạo và bị mất cảm giác âm đạo. Phương thức RF chỉ được áp dụng cho phần bên trong âm đạo và các mô ở vùng quanh miệng và các phần bên trong của môi âm hộ. Năng lượng RF được chọn để điều trị cho những phụ nữ này, vì nó có lịch sử sử dụng an toàn đáng kể để điều trị không xâm lấn vùng da lỏng lẻo của mặt và cổ và cho các nhịp điệu ở mô mỏng manh của vùng quanh mắt, dựa trên tiền đề của tu sửa nhiệt độ hơn là cắt bỏ. Nó dựa trên khái niệm rằng năng lượng RF được kiểm soát cẩn thận có thể được sử dụng để làm nóng mô sâu hơn, dưới niêm mạc, kết hợp với làm lạnh cryogen đồng thời để ngăn ngừa tổn thương nhiệt bề mặt. Sự hình thành collagen tăng lên sẽ góp phần vào cơ chế săn chắc da theo thời gian, với tái tạo collagen ở da như một quá trình phục hồi sau khi tiếp xúc với năng lượng nhiệt RF.
Millheiser và cộng sự đã sử dụng âm đạo cừu như một hệ thống mô hình động vật và chỉ ra rằng những thay đổi theo thời gian của quá trình tái tạo mô collagen trong âm đạo cừu phản ánh một cơ chế có thể có để giải thích nhận thức của con người về sự gia tăng độ khít của âm đạo trong khoảng thời gian từ 1 đến 6 tháng. sau khi điều trị bằng RF. Họ báo cáo thêm rằng trong khoảng thời gian 6 tháng sau khi điều trị RF, điểm số chức năng tình dục được cải thiện trong mẫu nghiên cứu về phụ nữ và mức độ đau khổ cá nhân của họ giảm đáng kể, với phiên bản Malay của Chỉ số chức năng tình dục nữ cao hơn 15.
Sekiguchi và cộng sự đã nghiên cứu một loạt 30 phụ nữ Nhật Bản trong thời kỳ tiền mãn kinh có những phàn nàn chủ yếu là “âm đạo trống rỗng” và mất cảm giác thể chất / tình dục khi quan hệ qua đường âm đạo. Một phương pháp điều trị RF duy nhất được thực hiện trên mỗi đối tượng như một liệu trình điều trị tại phòng khám mà không cần dùng thuốc an thần hoặc giảm đau trước đó. Tất cả 30 bệnh nhân đều báo cáo sự cải thiện chủ quan về tính toàn vẹn của âm đạo và tăng sự hài lòng trong tình dục.
Vào năm 2015, Alinsod đã báo cáo về một nghiên cứu tiền cứu trên 23 bệnh nhân từ 26 đến 58 tuổi bị hẹp âm hộ được điều trị bằng RF. Sáu trong số 23 đối tượng đã mất để theo dõi trước khi mỗi lần điều trị thứ hai và thứ ba có thể được thực hiện. Họ báo cáo rằng họ rất hài lòng với kết quả và không cần điều trị thêm. Phần còn lại hoàn thành lần điều trị thứ hai và thứ ba. Không bị bỏng, không có mụn nước, hoặc các biến chứng lớn xảy ra trong hoặc sau khi điều trị, bệnh nhân mô tả là dễ chịu và rất thoải mái. Bệnh nhân có thể tiếp tục mọi hoạt động như bình thường, kể cả quan hệ tình dục, ngay sau mỗi lần điều trị. Hơn nữa, tất cả bệnh nhân mắc bất kỳ loại rối loạn cực khoái nào, bao gồm rối loạn cực khoái âm vật, đều báo cáo sự cải thiện đáng kể, ví dụ, đạt được cực khoái mạnh hơn, nhiều và / hoặc nhanh hơn với sự phối hợp co thắt âm đạo trong thời gian quan hệ. Trong một cuộc trao đổi cá nhân, Alinsod đã thông báo với tôi rằng tình trạng không thể lên đỉnh vẫn tồn tại ở một số bệnh nhân, mặc dù họ đã cải thiện độ nhạy cảm. Những người đã từng phẫu thuật tái tạo với bóc tách rộng rãi phía trước không đáp ứng tốt với phương pháp điều trị RF để cải thiện độ nhạy. Alinsod nghĩ rằng điều này có thể là kết quả của việc mổ xẻ rộng rãi phần kho-ang trước có thể làm gián đoạn các khu vực điểm G — một giả thuyết mà tôi đồng ý, đưa ra cấu trúc vi mô phức tạp của điểm G.
RF điều trị lỏng lẻo âm đạo sau khi sinh qua đường âm đạo trong ba loạt ngắn này cho thấy kết quả rất hứa hẹn. Các báo cáo phần lớn mang tính chủ quan và cần phải có sự đo lường kết quả khách quan hơn. Tuy nhiên, những kết quả này dường như đặt RF ở một vị trí tương tự với sự lỏng lẻo ở âm hộ vì nó thích hợp với việc săn chắc da ở mặt và các vùng quanh mắt. Cũng như điều trị trong những lĩnh vực này, kết quả tốt có thể sẽ phụ thuộc vào việc lựa chọn bệnh nhân cẩn thận, và khi nó là phương thức duy nhất được sử dụng, RF sẽ được chứng minh là ứng dụng hạn chế. Dựa trên thông tin hiện có, RF dường như không tạo ra loại thay đổi được tạo ra bởi phẫu thuật chỉnh sửa cơ hoành vùng chậu, bắt buộc đối với những bệnh nhân có cơ vùng chậu bị tổn thương do sinh nở. Tôi nghĩ rằng việc áp dụng RF sau phẫu thuật sửa chữa sẽ phù hợp hơn, mặc dù Alinsod đã chỉ ra rằng việc thu nhỏ các mô bị sa bằng RF có thể ngăn chặn nhu cầu phẫu thuật xâm lấn ở những bệnh nhân được chọn. Do đó, ông đề nghị RF trước khi phẫu thuật.