Vinpocetin
Biên soạn và Hiệu đính
Dược sĩ Xuân Hạo
Danh pháp
Tên chung quốc tế
Tên danh pháp theo IUPAC
ethyl (15S,19S)-15-ethyl-1,11-diazapentacyclo[9.6.2.02,7.08,18.015,19]nonadeca-2,4,6,8(18),16-pentaene-17-carboxylate
Nhóm thuốc
Thuốc tăng cường tuần hoàn não
Mã ATC
N – Thuốc hệ thần kinh
N06 – Thuốc hưng thần
N06B – Thuốc kích thần và hướng trí
N06BX – Thuốc kích thần và hướng trí khác
N06BX18 – Vinpocetine
Phân loại nguy cơ cho phụ nữ có thai
X
Mã UNII
543512OBTC
Mã CAS
42971-09-5
Cấu trúc phân tử
Công thức phân tử
C22H26N2O2
Phân tử lượng
350.5 g/mol
Cấu trúc phân tử
Vinpocetin là một este ethyl tổng hợp của apovincamine
Các tính chất phân tử
Số liên kết hydro cho: 0
Số liên kết hydro nhận: 3
Số liên kết có thể xoay: 4
Diện tích bề mặt tôpô: 34.5Ų
Số lượng nguyên tử nặng: 26
Các tính chất đặc trưng
Điểm sôi: 419.5±45.0 °C ở 760 mmHg
Tỷ trọng riêng: 1.3±0.1 g/cm3
Độ tan trong nước: 35.5 ug/mL
Hằng số phân ly pKa: 7.1
Chu kì bán hủy: 4,83±1,29 giờ
Khả năng liên kết với Protein huyết tương: 66%
Dạng bào chế
Viên nén: 5 mg, 10 mg.
Viên nang: 20 mg.
Độ ổn định và điều kiện bảo quản
Bảo quản trong bao bì kín, ở nhiệt độ < 30 độ C.
Nguồn gốc
Vinpocetine, được chiết xuất từ alkaloid vincamine có mặt trong phần trên mặt đất của cây vinca nhỏ và cây thuộc họ Apocynaceae, đã được công ty hóa chất Gedeon Richter Ltd, Budapest, Hungary, điều chế và thương mại hóa dưới tên gọi “Cavinton” từ năm 1978. Vinpocetine là một dẫn xuất bán tổng hợp của vincamine.
Dược lý và cơ chế hoạt động
Vinpocetine có cơ chế hoạt động phức tạp và có tác động thuận lợi lên chuyển hóa não và tuần hoàn máu. Nó có khả năng trung hòa những tác dụng độc do các phản ứng tế bào do các acid amin kích thích.
Vinpocetine ức chế kênh Na+ và Ca2+ phụ thuộc điện thế, cũng như các thụ thể NMDA và AMPA. Nó cũng tăng cường tác động bảo vệ thần kinh của adenosine.
Vinpocetine giúp cải thiện sự thu nhận và sử dụng oxygen của mô não, cải thiện vận chuyển glucose – nguồn năng lượng chính của não – qua hàng rào máu não, và tăng sự chuyển hóa glucose thành năng lượng một cách hiệu quả.
Vinpocetine ức chế chọn lọc enzyme cGMP-phosphodiesterase (PDE) phụ thuộc Ca2+-calmodulin, tăng hàm lượng cAMP và cGMP của não. Nó cũng tăng nồng độ ATP và tỷ số ATP/AMP, tăng sự luân chuyển của norepinephrin và serotonin trong não, kích thích hệ noradrenergic và có hoạt tính chống oxy hóa, đồng thời bảo vệ não.
Vinpocetine cải thiện vi tuần hoàn não bằng cách ức chế kết tập tiểu cầu, giảm sự tăng độ nhớt máu bệnh lý, tăng sự biến dạng hồng cầu và ức chế thu nhận adenosin của hồng cầu. Nó cũng tăng cung cấp oxygen vào mô não bằng cách giảm ái tính oxygen với hồng cầu.
Vinpocetine tăng lưu lượng máu lên não, giảm sức kháng mạch não mà không ảnh hưởng đến những tham số của tuần hoàn toàn thân như huyết áp, cung lượng tim, nhịp tim và tổng sức kháng ngoại biên. Nó không gây hiện tượng chiếm đoạt máu. Trong quá trình sử dụng, Vinpocetine tăng cung cấp máu cho vùng não bị tổn thương (nhưng chưa bị hoại tử) do thiếu máu tại chỗ ít được tưới máu.
Ứng dụng trong y học
Vinpocetine được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực y học để điều trị rối loạn mạch máu não và rối loạn thoái hóa thần kinh như bệnh Alzheimer và Parkinson, nhiễm độc tai, giảm đau và hoạt động chống viêm, hoạt động bảo vệ tim mạch và gan, bệnh ù tai Meniere, suy giảm thị lực, hoạt động chống oxy hóa và hoạt động động kinh. Ở Hoa Kỳ, Vinpocetine được bán trên thị trường dưới dạng chất bổ sung thể thao, chất tăng cường trí não và chất bổ sung giảm cân.
Vinpocetine ít gây tác dụng phụ và có hoạt tính dược động học và dược lực học tốt. Nó được coi là một chất dinh dưỡng hoặc thuốc hiệu quả nhất cho chứng suy giảm trí nhớ liên quan đến tuổi tác.
Dược động học
Hấp thu
Vinpocetine có tốc độ hấp thu nhanh, và nồng độ cao nhất trong huyết tương đạt được sau khoảng 1 giờ sau khi được uống. Điểm hấp thu chủ yếu là ở phần gần của hệ tiêu hóa.
Phân bố
Vinpocetine gắn kết với protein huyết tương ở mức 66%. Sinh khả dụng tuyệt đối của Vinpocetine khi được uống là 7%. Thể tích phân bố của nó là 246±88,51. Tốc độ thanh thải của Vinpocetine (66,7 lít/giờ) vượt qua tốc độ thanh thải của gan (50 lít/giờ), cho thấy sự chuyển hóa Vinpocetine xảy ra chủ yếu bên ngoài gan.
Chuyển hóa
Chất chuyển hóa chính của Vinpocetine là acid apovincaminic (AVA), chiếm 25-30% ở con người. Sau khi uống, diện tích dưới đường cong của AVA lớn gấp đôi so với việc tiêm tĩnh mạch, cho thấy việc sản xuất AVA xảy ra trong giai đoạn chuyển hóa đầu tiên. Một số chất chuyển hóa khác đã được xác định, bao gồm hydroxyvinpocetine, hydroxyl-AVA, dihydroxy-AVA glycinat, và các hợp chất glucuronid hoặc sulfat của chúng.
Thải trừ
Trong các nghiên cứu với việc sử dụng liều lặp lại 5 mg và 10 mg, nồng độ huyết tương đạt được ở trạng thái cân bằng là 1,2±0,27 ng/ml và 2,1±0,33 ng/ml tương ứng. Thời gian bán thải là 4,83±1,29 giờ. Các nghiên cứu sử dụng hoạt chất phóng xạ đã chỉ ra rằng con đường chính cho quá trình thải trừ Vinpocetine là qua nước tiểu và phân, với tỷ lệ 60/40.
Phương pháp sản xuất
Vinpocetin có thể được tổng hợp từ alkaloid vincamine thu được từ lá Vinca.
Độc tính ở người
Tác dụng phụ của vinpocetine bao gồm đỏ bừng mặt, buồn nôn, chóng mặt, khô miệng, hạ huyết áp và tăng huyết áp thoáng qua, nhức đầu, ợ nóng và giảm huyết áp.
Vinpocetine đã được chứng minh là có liên quan với một trường hợp gây ra mất bạch cầu hạt, trong đó bạch cầu hạt giảm một cách đáng kể. Một số người đã lưu ý rằng việc tiếp tục sử dụng vinpocetine có thể làm giảm chức năng miễn dịch. Uỷ ban E đã cảnh báo rằng việc sử dụng vinpocetine có thể gây ra quá trình chết theo chương trình (chết tế bào) trong thời gian dài, dẫn đến sự giảm chức năng miễn dịch.
Tính an toàn
Không cần điều chỉnh liều của vinpocetine ở bệnh nhân bị suy thận hoặc suy gan do chuyển hóa của nó không tích lũy. Các nghiên cứu cho thấy động học dược phẩm của vinpocetine ở người cao tuổi không khác biệt đáng kể so với người trẻ, và không có tích lũy.
Thuốc không nên được sử dụng ở bệnh nhân có các cuộc khủng hoảng tăng huyết áp nặng, hoặc ở những bệnh nhân cao tuổi hoặc già mắc các hội chứng tim mạch hoặc não cấp tính, rối loạn nhịp tim sau nhồi máu, hoặc rối loạn nhịp tim rõ rệt.
FDA đã cảnh báo vào năm 2019 rằng vinpocetine có thể gây sảy thai hoặc gây hại cho sự phát triển của thai nhi.
Tương tác với thuốc khác
Khi dùng Vinpocetine cùng với α-methyldopa, có thể gây hạ huyết áp ở mức độ khác nhau. Do đó, trong quá trình điều trị cần thường xuyên theo dõi huyết áp động mạch. Hiện chưa có nghiên cứu lâm sàng xác nhận tương tác này, nhưng cần thận trọng khi sử dụng Vinpocetine cùng với các thuốc tác động lên hệ thần kinh trung ương, thuốc chống loạn nhịp tim, thuốc chống co giật, và thuốc chống đông máu.
Lưu ý khi sử dụng Vinpocetin
Khi sử dụng Vinpocetine, cần thận trọng đối với bệnh nhân đang sử dụng thuốc giảm huyết áp, cũng như bệnh nhân có huyết áp thấp hoặc tụt huyết áp tư thế, và bệnh nhân có tổn thương gan.
Vinpocetine có thể gây đau đầu, chóng mặt, do đó cần thận trọng khi sử dụng cho người tham gia vận hành máy móc, lái tàu xe, và người làm việc trên cao.
Một vài nghiên cứu của Vinpocetin trong Y học
Tác dụng bảo vệ thần kinh của vinpocetine, như một chất ức chế phosphodiesterase 1, đối với sự tăng cường lâu dài trong mô hình chuột mắc bệnh Alzheimer
Cơ sở: Vinpocetine (Vin) được biết đến như một loại thuốc ức chế phosphodiesterase 1 (PDE1-I) với tác dụng đa dạng, bao gồm hoạt tính chống oxy hóa và chống viêm.
Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu tác dụng bảo vệ thần kinh và điều trị của Vin thông qua tính dẻo của khớp thần kinh hồi hải mã trên mô hình bệnh Alzheimer (AD) của chuột do tiêm beta-amyloid (Aβ) vào não thất (ICV).
Phương pháp: Sáu mươi con chuột Wistar đực trưởng thành được chia ngẫu nhiên thành sáu nhóm: 1. kiểm soát, 2. giả tạo, 3. Aβ, 4. tiền xử lý (Vin + Aβ): Vin (4 mg/kg, ống thông) trong 30 ngày và sau đó, tạo ra một mô hình AD bằng cách tiêm ICV Aβ(1-42), 5. xử lý (Aβ + Vin): tạo ra một mô hình AD và sau đó nhận Vin trong 30 ngày bằng ống thông, và 7. tiền xử lý + xử lý (Vin + Aβ + Vin): nhận Vin bằng gavage trong 30 ngày trước và 30 ngày sau khi giới thiệu mô hình AD.
Sau các thủ tục này, thông qua phẫu thuật lập thể, các điện cực kích thích được đặt ở đường đục lỗ (PP) và các điện cực ghi được cấy vào hồi răng.
Kết quả: Độ dốc tiềm năng sau synap kích thích (EPSP) và biên độ tăng đột biến dân số (PS) trong nhóm Aβ giảm đi một cách có ý nghĩa so với nhóm đối chứng sau khi tạo ra điện thế dài hạn (LTP).
Kết luận: Vin có thể ngăn chặn đáng kể các hiệu ứng Aβ đối với LTP. Có thể kết luận rằng tiền xử lý và điều trị bằng Vin có thể bảo vệ thần kinh chống lại các hậu quả có hại của Aβ đối với tính dẻo của khớp thần kinh hồi hải mã.
Tài liệu tham khảo
- Drugbank, Vinpocetin, truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2023.
- Pubchem, Vinpocetin, truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2023.
- Shekarian, M., Salehi, I., Raoufi, S., Asadbegi, M., Kourosh-Arami, M., & Komaki, A. (2023). Neuroprotective effects of vinpocetine, as a phosphodiesterase 1 inhibitor, on long-term potentiation in a rat model of Alzheimer’s disease. BMC neuroscience, 24(1), 20.
- Bộ Y Tế (2012), Dược thư quốc gia Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Mỹ
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Hungary
Xuất xứ: Mỹ
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Mỹ
Xuất xứ: Hungary
Xuất xứ: Việt Nam