Hiển thị tất cả 2 kết quả

Tetracain

Danh pháp

Tên chung quốc tế

Tetracaine

Tên danh pháp theo IUPAC

2-(dimethylamino)ethyl 4-(butylamino)benzoate

Nhóm thuốc

Gây tê

Mã ATC

C – Hệ tim mạch

C05 – Thuốc bảo vệ thành mạch

C05A – Thuốc điều trị trĩ tại chỗ

C05AD – Gây tê tại chỗ

C05AD02 – Tetracaine

D – Da liễu

D04 – Thuốc chống ngứa, bao gồm kháng Histamin, gây tê…

D04A – Thuốc chống ngứa, bao gồm kháng Histamin, gây tê…

D04AB – Các thuốc gây tê dùng tại chỗ

D04AB06 – Tetracaine

N – Thuốc hệ thần kinh

N01 – Thuốc gây mê

N01B – Thuốc gây tê tại chỗ

N01BA – Este của Acid Aminobenzoic

N01BA03 – Tetracaine

S – Các giác quan

S01 – Thuốc mắt

S01H – Thuốc gây tê

S01HA – Thuốc gây tê

S01HA03 – Tetracaine

Mã UNII

0619F35CGV

Mã CAS

94-24-6

Cấu trúc phân tử

Công thức phân tử

C15H24N2O2

Phân tử lượng

264.36 g/mol

Cấu trúc phân tử

Tetracaine là một este benzoat trong đó axit 4-N-butylbenzoic và etanol 2-(dimethylamino) đã kết hợp để tạo thành liên kết este.

Cấu trúc phân tử Tetracain
Cấu trúc phân tử Tetracain

Các tính chất phân tử

Số liên kết hydro cho: 1

Số liên kết hydro nhận: 4

Số liên kết có thể xoay: 9

Diện tích bề mặt tôpô: 41.6Ų

Số lượng nguyên tử nặng: 19

Các tính chất đặc trưng

Điểm nóng chảy: 43 °C

Điểm sôi: 389.4±27.0 °C ở 760 mmHg

Tỷ trọng riêng: 1.0±0.1 g/cm3

Độ tan trong nước: 0.555 mg/mL

Hằng số phân ly pKa: 8.5

Dạng bào chế

Dung dịch dùng tại chỗ: 0,25%; 0,5%, 2%.

Dung dịch nhỏ mắt: 0,25%; Tetracain 0.5% 10ml.

Kem: 1%.

Gel: 4%

Thuốc mỡ: 0,5% (đơn thành phần hoặc dạng phối hợp).

Dung dịch tiêm: 1% (có chứa aceton natri bisulfit).

Bột pha tiêm: 20 mg. Viên ngậm: 0,2 mg.

Dạng bào chế Tetracain
Dạng bào chế Tetracain

Độ ổn định và điều kiện bảo quản

Tránh ánh sáng, bảo quản ở 2 – 8 °C, không để đông lạnh.

Dung dịch Tetracaine hydrochloride thủy phân chậm tạo thành acid parabutylaminobenzoic kết tinh. Do vậy, cần kiểm tra các dung dịch thuốc trước khi dùng. Không sử dụng nếu thấy vẩn đục hoặc có tinh thể không tan.

Dung dịch tetracain hydroclorid với các hydroxyd kiềm hoặc muối carbonat sẽ gây kết tủa tetracain base.

Nguồn gốc

Tetracain là gì? Trong những năm đầu của thế kỷ 20, các chất gây tê cục bộ như cocaine đã được biết đến, nhưng cần có các hợp chất an toàn và hiệu quả hơn. Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành để phát triển các chất gây tê cục bộ mới.

Tetracaine được tổng hợp lần đầu tiên vào những năm 1920 bởi Alfred Einhorn và đồng nghiệp – người đã tổng hợp ra novocaine (procaine) trước đó. Einhorn đã dành nhiều năm để tìm kiếm một chất gây tê cục bộ thay thế cho cocaine và đã có nhiều đóng góp quan trọng cho lĩnh vực này.

Tetracaine là một hợp chất có hiệu suất cao và thời gian tác động dài hơn so với nhiều chất gây tê cục bộ khác trong nhóm ester. Nó thường được sử dụng trong thủ thuật y tế cục bộ như gây tê mắt hoặc da.

Vì hiệu quả của nó, tetracaine đã trở thành một phần quan trọng của nhiều cơ sở y tế trên khắp thế giới. Dù vậy, như với tất cả các chất gây tê, việc sử dụng tetracaine cần được giám sát chặt chẽ do có nguy cơ gây ra các phản ứng không mong muốn hoặc quá mức.

Dược lý và cơ chế hoạt động

Tetracain, một dạng ester của acid para-aminobenzoic, sở hữu khả năng gây tê mạnh mẽ, phát huy tác dụng chậm và kéo dài, với độ độc tính cao hơn so với procain.

Nó hoạt động bằng cách ngăn chặn việc hình thành và truyền tải xung động thần kinh dọc theo các sợi dẫn truyền, điều này được thực hiện nhờ khả năng giảm sự thẩm thấu của ion natri qua màng tế bào thần kinh.

Cơ chế này có khả năng phục hồi, giúp ổn định màng tế bào, giảm sự khử cực và làm chậm quá trình lan truyền của điện thế hoạt động, cuối cùng dẫn đến việc ức chế sự dẫn truyền xung động thần kinh.

Trong trường hợp tetracain được hấp thu ở mức độ cao qua niêm mạc, nó có thể kích thích hoặc ức chế hệ thần kinh trung ương. Với hệ tim mạch, tác dụng của nó có thể làm giảm khả năng dẫn truyền và kích thích cơ tim, đồng thời mở rộng các mạch máu ngoại vi nhiều hơn so với các thuốc gây tê dạng amid.

Ứng dụng trong y học

Tetracaine là một trong những chất gây tê cục bộ phổ biến nhất được sử dụng trong y học hiện đại. Thuộc nhóm ester, tetracaine đã trở thành một công cụ quan trọng trong nhiều quy trình y tế, từ việc tiêm trước khi phẫu thuật đến việc gây tê mắt trước khi thực hiện thủ thuật. Điều này không chỉ giúp giảm thiểu đau đớn cho bệnh nhân, mà còn giúp các bác sĩ thực hiện các thủ thuật chính xác hơn.

Một trong những ứng dụng phổ biến nhất của tetracaine là trong nghành nhãn khoa. Khi một bác sĩ nhãn khoa cần thực hiện một thủ thuật trên mắt, việc đầu tiên cần làm là làm cho mắt bệnh nhân không còn cảm giác. Tetracain nhỏ mắt giúp làm giảm cảm giác và đau trong vùng mắt, cho phép bác sĩ thực hiện thủ thuật mà không gây ra sự khó chịu cho bệnh nhân.

Tetracaine cũng được sử dụng rộng rãi trong các tiêm cục bộ, thường là kết hợp với các chất khác như adrenaline để kéo dài hiệu ứng gây tê và giảm máu chảy. Trong các thủ thuật như khâu vết thương hoặc loại bỏ mô bề mặt, việc sử dụng tetracaine giúp giảm đau đớn và lo lắng cho bệnh nhân.

Mặc dù lidocain thường được ưa chuộng hơn trong nha khoa, tetracaine cũng có thể được sử dụng trong một số tình huống. Việc gây tê cục bộ trong nha khoa giúp bệnh nhân tránh cảm giác đau khi nha sĩ thực hiện thủ thuật như nhổ răng hay điều trị tủy răng.

Trong một số trường hợp, tetracaine có thể được sử dụng cho gây tê tuỷ sống, khi nó được tiêm vào dịch màng nhện của cột sống. Điều này gây ra sự mất cảm giác từ eo trở xuống, phù hợp cho các thủ thuật như phẫu thuật ở phần dưới cơ thể hoặc sinh đẻ.

Tóm lại, Tetracaine là một chất gây tê cục bộ quan trọng trong y học hiện đại. Dù có một số hạn chế và tiềm ẩn rủi ro, nhưng khi được sử dụng đúng cách, nó có thể làm giảm đau đớn, tăng cường chất lượng chăm sóc sức khỏe và giúp các thủ thuật y tế trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên, như mọi sự can thiệp y tế, việc sử dụng tetracaine cần được thực hiện dưới sự giám sát chặt chẽ của các chuyên viên y tế đào tạo đầy đủ.

Dược động học

Hấp thu và phân bố

Tetracain dễ dàng thẩm thấu từ niêm mạc vào hệ tuần hoàn. Vì thế, nó không nên được áp dụng lên da có vết thương hoặc tại nơi có tổn thương mạch máu. Tốc độ thẩm thấu của thuốc phụ thuộc vào hệ thống mạch máu, lượng máu tại điểm tiếp xúc, nồng độ thuốc, và thời gian tiếp xúc.

Tetracain hấp thu từ niêm mạc họng hoặc đường hô hấp rất nhanh, do đó, không nên sử dụng nó khi nội soi phế quản hoặc bàng quang; lidocain sẽ là lựa chọn an toàn hơn. Thậm chí việc kết hợp thuốc co mạch cũng không thể giảm hoặc làm chậm quá trình hấp thu tetracain nhằm ngăn chặn các tác dụng toàn thân.

Khi bôi gel 4% tetracain lên da không bị tổn thương, sinh khả dụng là khoảng 15% và nửa đời trung bình của quá trình hấp thu và thải trừ là khoảng 75 phút.

Dùng dung dịch 0,5% cho mắt, hiệu quả gây tê nhanh chóng, chỉ trong khoảng 25 giây và có thể kéo dài 15 phút hoặc hơn.

Trên niêm mạc, hiệu quả xuất hiện sau 5-10 phút và kéo dài khoảng 30 phút.

Đối với việc gây tê tủy sống, hiệu quả xuất hiện chậm, khoảng 15 phút, và kéo dài từ 1,5 đến 3 giờ. Hiệu quả này tiếp tục cho đến khi tetracain được hấp thu vào tuần hoàn máu, bởi vì có rất ít esterase trong dịch não tủy.

Chuyển hóa

Tetracain bị thủy phân thành acid para-aminobenzoic bởi pseudocholinesterase trong huyết tương.

Thải trừ

Sản phẩm chuyển hóa chủ yếu được thải qua thận.

Độc tính ở người

Tetracain, khi sử dụng vượt mức hoặc hấp thu quá nhanh vào hệ tuần hoàn, có thể tạo ra nồng độ thuốc cao trong huyết tương. Điều này nếu không được can thiệp đúng cách và kịp thời có thể dẫn đến ngừng tim và tử vong. Hơn nữa, tetracain cũng có thể gây ra phản ứng dị ứng.

So với các loại thuốc gây tê khác, tetracain có độc tính và khả năng gây dị ứng cao hơn khi tiếp xúc. Việc sử dụng thuốc để gây tê tủy sống thường đi kèm với nhiều tác dụng phụ hơn so với việc nhỏ hoặc bôi thuốc trực tiếp.

Tetracain có một mức độ độc tính toàn thân khá cao. Khi dùng với liều lượng cao ở điểm cụ thể, thuốc có thể bị hấp thu, tạo ra các tác dụng toàn thân và dẫn đến tình trạng ngộ độc.

Các dấu hiệu chính của việc dùng quá liều bao gồm: suy giảm tuần hoàn như ra mồ hôi, hạ huyết áp, tái nhợt, rối loạn nhịp tim, và trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến ngừng tim. Với hệ thần kinh trung ương, các triệu chứng có thể bao gồm: mất thị lực, hoang mang, co giật, chóng mặt, mệt mỏi, cảm nhận nhiệt thất thường, tê, ù tai, run rẩy, mất ý thức hoặc cảm giác hoảng sợ.

Ban đầu, thuốc có thể gây ra kích thích, nhưng điều này có thể chuyển biến nhanh chóng hoặc không xuất hiện, dẫn đến biểu hiện suy giảm như mất ý thức và ngừng thở.

Tính an toàn

Hiện chưa có dữ liệu đầy đủ về tác động của tetracain đối với phụ nữ mang thai. Dù vậy, khi sử dụng cho bà bầu, việc áp dụng thuốc nên được thực hiện một cách cẩn trọng và dưới sự giám sát chặt chẽ của bác sĩ.

Về việc thuốc có bài tiết qua sữa mẹ hay không, thông tin cũng chưa được xác định rõ ràng. Do đó, người mẹ đang cho con bú nên cân nhắc kỹ và sử dụng tetracain một cách thận trọng.

Tương tác với thuốc khác

Chất chuyển hóa chính của tetracain là acid aminobenzoic, có khả năng gây ra tương tác đối kháng với acid aminosalicylic và các sulfonamid. Vì vậy, tetracain không nên được sử dụng cho bệnh nhân đang điều trị với các thuốc trên.

Ngoài ra, các chất ức chế cholinesterase có thể làm giảm hiệu quả chuyển hóa của tetracain, làm tăng nguy cơ phát sinh tác dụng phụ và ngộ độc toàn thân.

Lưu ý khi sử dụng Tetracaine

Tetracain sở hữu một độc tính cao và có khả năng thẩm thấu nhanh từ niêm mạc, có thể gây ra phản ứng phụ nghiêm trọng mà không có bất kỳ dấu hiệu cảnh báo nào. Trong một số trường hợp, việc sử dụng thuốc đã dẫn đến tử vong. Vì thế, khi sử dụng, cần chuẩn bị sẵn sàng các biện pháp cấp cứu.

Khi sử dụng cho người cao tuổi, trẻ em, người bị suy nhược hoặc có tiền sử về động kinh, tim mạch, hô hấp hoặc bệnh nhân gặp vấn đề về cơ, cần phải thận trọng. Đối với bệnh nhân có vấn đề liên quan đến màng não, sốc do tim, giảm lượng máu hoặc rối loạn đông máu, việc sử dụng Tetracain trong gây tê tủy sống là không khuyến khích. Đồng thời, tránh tiêm thuốc vào vùng viêm, bị nhiễm khuẩn hoặc vào mạch máu do nhầm lẫn.

Vì thuốc có thể thấm qua niêm mạc nhanh chóng, tránh bôi lên các vùng viêm, chấn thương hoặc gần mạch máu lớn. Trong quá trình gây tê vùng miệng hoặc họng, có thể gây khó nuốt, làm tăng nguy cơ hít thức ăn hoặc chất nôn vào phổi. Do đó, sau các thủ thuật như soi thanh quản hoặc khí quản, bệnh nhân nên tránh ăn uống ít nhất trong 3-4 giờ.

Tetracain không nên được sử dụng khi tiến hành nội soi phế quản hoặc bàng quang; lidocain sẽ là lựa chọn an toàn hơn. Hơn nữa, việc sử dụng thuốc gây tê trong thời gian dài có thể gây tổn thương giác mạc. Bệnh nhân cần tránh chà sát hoặc tiếp xúc trực tiếp với mắt trong thời gian gây tê và cần bảo vệ mắt khỏi bụi và nhiễm trùng. Khuyến nghị không áp dụng thuốc trên diện tích da lớn hoặc trong thời gian dài.

Một vài nghiên cứu của Tetracaine trong Y học

Thuốc tetracaine tại chỗ với băng kiểm soát cơn đau kính áp tròng mềm sau phẫu thuật cắt giác mạc khúc xạ

Topical tetracaine with bandage soft contact lens pain control after photorefractive keratectomy
Topical tetracaine with bandage soft contact lens pain control after photorefractive keratectomy

Mục đích: Nhược điểm chính của phẫu thuật cắt giác mạc bằng khúc xạ ánh sáng (PRK) là đau và khó chịu trong ba ngày đầu hậu phẫu. Chúng tôi đã cố gắng đánh giá hiệu quả và độ an toàn đối với giác mạc của một lượng hạn chế tetracaine bôi ngoài da được cung cấp cho bệnh nhân để sử dụng khi cần thiết nhằm kiểm soát cơn đau nghiêm trọng.

Phương pháp: Sáu mươi chín mắt của 49 bệnh nhân đã trải qua PRK trong khoảng thời gian từ ngày 21 tháng 6 năm 1996 đến ngày 15 tháng 6 năm 1998 bởi một bác sĩ phẫu thuật duy nhất được đưa vào triển vọng.

Khoảng 10 giọt tetracaine 0,5% không bảo quản được bán trên thị trường đã được cung cấp cho bệnh nhân để sử dụng khi cần thiết để kiểm soát cơn đau dữ dội. Một ống kính tiếp xúc mềm băng đã được áp dụng.

Bệnh nhân được khám vào lúc 1 và 3 ngày sau phẫu thuật, tại thời điểm đó sự tái biểu mô giác mạc được đánh giá và số lượng giọt tetracaine đã sử dụng được ghi nhận. Không có thuốc giảm đau toàn thân hoặc thuốc chống viêm không steroid tại chỗ được kê đơn.

Kết quả: Tất cả các mắt đều lành trong vòng 3 ngày. Số giọt tetracaine trung bình được sử dụng là 2,3 giọt trong 3 ngày, mặc dù ở 33 mắt (48%) bệnh nhân không sử dụng bất kỳ loại tetracaine nào. Không có mối tương quan giữa việc cố gắng hiệu chỉnh diop và số lượng giọt được sử dụng. Không có sự khác biệt đáng kể về số lượng thuốc nhỏ được sử dụng cho mắt thứ hai của bệnh nhân được điều trị cả hai mắt.

Kết luận: Hạn chế sử dụng thuốc gây tê tại chỗ là phương pháp giảm đau hiệu quả và an toàn sau PRK. Việc sử dụng tetracaine trong phác đồ này không kéo dài thời gian tái biểu mô. Chỉ cung cấp một lượng tetracaine hạn chế cho bệnh nhân sẽ ngăn ngừa lạm dụng và gây độc cho giác mạc trong khi kiểm soát cơn đau dữ dội.

Tài liệu tham khảo

  1. Brilakis, H. S., & Deutsch, T. A. (2000). Topical tetracaine with bandage soft contact lens pain control after photorefractive keratectomy. Journal of refractive surgery (Thorofare, N.J. : 1995), 16(4), 444–447. https://doi.org/10.3928/1081-597X-20000701-07
  2. Drugbank, Tetracaine, truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2023.
  3. Pubchem, Tetracaine, truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2023.
  4. Bộ Y Tế (2012), Dược thư quốc gia Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội

Trị viêm & loét miệng

Tyrotab

Được xếp hạng 5.00 5 sao
(1 đánh giá) 40.000 đ
Dạng bào chế: Viên nén ngậmĐóng gói: hộp 10 vỉ x 8 viên

Thương hiệu: Pharmedic

Xuất xứ: Việt Nam

Giảm sung huyết, gây tê, kháng viêm trong Nhãn khoa

Tetracain 0,5% F.T.PHARMA

Được xếp hạng 5.00 5 sao
(1 đánh giá) 29.000 đ
Dạng bào chế: dung dịch nhỏ mắtĐóng gói: Hộp 1 chai 10 ml

Thương hiệu: Công ty cổ phần dược phẩm 3/2 - FT Pharma

Xuất xứ: Việt Nam