Không tìm thấy sản phẩm nào khớp với lựa chọn của bạn.

Penbutolol

Danh pháp

Tên chung quốc tế

Penbutolol

Tên danh pháp theo IUPAC

(2S)-1-(tert-butylamino)-3-(2-cyclopentylphenoxy)propan-2-ol

Nhóm thuốc

Thuốc chẹn beta-adrenergic, không chọn lọc

Mã ATC

C — Thuốc trên hệ tim mạch

C07 — Trung tâm chẹn beta

C07A — Trung tâm chẹn beta

C07AA — Tác nhân chặn beta, không chọn lọc

C07AA23 — Penbutolol

Mã UNII

78W62V43DY

Mã CAS

38363-40-5

Cấu trúc phân tử

Công thức phân tử

C18H29NO2

Phân tử lượng

291.4 g/mol

Cấu trúc phân tử

Cấu trúc phân tử
Cấu trúc phân tử

Các tính chất phân tử

Số liên kết hydro cho: 2

Số liên kết hydro nhận: 3

Số liên kết có thể xoay: 7

Diện tích bề mặt tôpô: 41,5 Ų

Số lượng nguyên tử nặng: 21

Các tính chất đặc trưng

Điểm sôi: 438.2oC

Độ hòa tan trong nước: 2.12e-02g/L

LogP: 4.15

Cảm quan

Không có thông tin

Dạng bào chế

Dạng bào chế
Dạng bào chế

Viên nén hàm lượng 20mg

Độ ổn định và điều kiện bảo quản của Penbutolol

Cần bảo quản các viên nén Penbutolol trong điều kiện khô ráo, tránh ẩm ướt và < 25oC

Nguồn gốc

Penbutolol được bán trên thị trường với tên thương hiệu Levatol, Levatolol, Lobeta, Paginol, Hostabloc, Betapressin

Penbutolol đã được FDA Hoa Kỳ chấp nhận năm 1987. Tu nhiên, Penbutolol đã bị rút khỏi thị trường Hoa Kỳ vào tháng 1/2015.

Dược lý và cơ chế hoạt động

Penbutolol là 1 tác nhận ngăn chặn beta không chọn lọc bởi khả năng liên kết với cả hai thụ thể adrenergic beta-1 và beta-2. Nó thể hiện các đặc tính giống như giao cảm cho phép nó hoạt động như một chất chủ vận một phần tại các thụ thể beta-adrenergic.

Ngăn chặn thụ thể beta-adrenergic làm giảm nhịp tim và cung lượng tim, dẫn đến giảm huyết áp động mạch. Thuốc chẹn beta cũng làm giảm nồng độ renin, cuối cùng dẫn đến giảm tái hấp thu nước của thận và do đó, giảm thể tích máu và huyết áp.

Penbutolol có khả năng hoạt động trên thụ thể adrenergic beta-1 ở tim và thận. Khi thụ thể beta-1 được kích hoạt bởi catecholamine, chúng kích thích protein G kích hoạt adenylyl cyclase để chuyển đổi adenosine triphosphate (ATP) thành adenosine monophosphate tuần hoàn (cAMP). CPP tăng cuối cùng làm thay đổi chuyển động ion canxi trong cơ tim và tăng nhịp tim. Penbutolol ngăn chặn quá trình này và làm giảm nhịp tim, giúp giảm huyết áp.

Khả năng của penbutolol hoạt động như một chất chủ vận một phần chứng minh được lợi ích trong việc ngăn ngừa nhịp tim chậm do giảm nhịp tim quá mức. Liên kết của Penbutolol với thụ thể adrenergic beta-1 cũng ảnh hưởng đến chức năng thận.

Khi cơ thể ở trạng thái sinh lý bình thường, enzyme renin tham gia quá trình biến đổi angiotensinogen thành angiotensin I, sau đó chuyển đổi thành angiotensin II. Angiotensin II có tác dụng kích thích tuyến thượng thận tiết ra aldosterone, giúp điều chỉnh cân bằng nước và điện giải trong cơ thể. Kết quả là, angiotensin II tăng sự bài tiết nước và giảm thể tích và áp lực máu.

Tương tự như propranolol và pindolol, nó là chất đối kháng của thụ thể serotonin 5-HT1A và 5-HT1B. Khám phá này của một số nhóm nghiên cứu trong những năm 1980 đã tạo ra sự phấn khích trong số những người nghiên cứu hệ thống serotonin vì các chất đối kháng thụ thể như vậy rất hiếm vào thời điểm đó.

Ứng dụng trong y học của Penbutolol

Penbutolol được sử dụng để điều trị huyết áp cao từ nhẹ đến trung bình . Giống như các thuốc chẹn beta khác , đây không phải là phương pháp điều trị đầu tay cho chỉ định này. Tuy nhiên, thuốc này có thể sử dụng đơn trị liệu hoặc phối hợp với các thuốc khác như thuốc lợi tiểu thiazide.

Dược động học

Hấp thu

Hơn 90% penbutolol được hấp thu vào cơ thể.

Phân bố

Khoảng 80-98% penbutolol liên kết với protein trong huyết tương. Ngoài ra, penbutolol cũng có sự liên kết với Alpha-1-acid glycoprotein 1.

Chuyển hóa

Penbutolol trải qua quá trình chuyển hóa ở gan, trong đó nó được hydroxyl hóa và glucuronid hóa tạo thành các chất chuyển hóa glucuronid và 4-hydroxy bán hoạt động.

Thải trừ

Các chất chuyển hóa chủ yếu được thải qua nước tiểu.

Thời gian bán thải trung bình trong huyết tương là khoảng 5 giờ, trong dạng liên hợp khoảng 20 giờ ở người khỏe mạnh, 25 giờ ở người cao tuổi khỏe mạnh và 100 giờ ở bệnh nhân có chức năng thận bị suy giảm. Khoảng 90% chất chuyển hóa được tiết ra qua nước tiểu.

Độc tính của Penbutolol

Các tác dụng phụ của Penbutolol thường xảy ra với tần suất rất thấp, các tác dụng này được báo cáo là : chóng mặt và buồn nôn.

Thông tin về quá liều vẫn chưa được báo cáo

Tương tác của Penbutolol với thuốc khác

Tương tác của Penbutolol với các thuốc khác

Lidocaine: Penbutolol có thể làm tăng khả năng phân phối của lidocain trong cơ thể của những người bình thường. Điều này có thể dẫn đến nhu cầu liều tải lidocain cao hơn.

Cimetidine không ảnh hưởng đến quá trình thải của penbutolol. Chất chuyển hóa chính của penbutolol là glucuronid và đã được chứng minh rằng cimetidine không ức chế quá trình glucuronid hóa.

Tác dụng tương tác trong việc hạ huyết áp, giảm nhịp tim và gây loạn nhịp tim đã được báo cáo ở một số bệnh nhân sử dụng thuốc chẹn beta-adrenergic khi kết hợp với thuốc chống canxi uống theo phác đồ điều trị.

Digoxin: Cả glycosid digitalis và thuốc chẹn beta đều có tác dụng làm chậm dẫn truyền nhĩ thất và giảm nhịp tim. Sử dụng cùng lúc có thể tăng nguy cơ nhịp tim chậm.

Gây tê: Cần thận trọng khi sử dụng các chất gây tê có thể làm suy nhược cơ tim, như ether, cyclopropane và trichloroethylene, và cần thận trọng khi sử dụng liều thấp nhất có thể của penbutolol. Các biểu hiện của tăng trương phế vị quá mức (ví dụ như nhịp tim chậm sâu, hạ huyết áp) có thể được điều chỉnh bằng cách sử dụng atropine 1-3 mg tiêm tĩnh mạch chia thành nhiều lần.

Nguy cơ phản ứng dị ứng: Trong quá trình sử dụng thuốc chẹn beta, những bệnh nhân có tiền sử phản ứng dị ứng nghiêm trọng với nhiều chất gây dị ứng khác nhau có thể có phản ứng nhiều hơn khi tiếp xúc lặp lại, bất kể là tình cờ, chẩn đoán hay điều trị. Những bệnh nhân này có thể không phản ứng với liều epinephrine thông thường được sử dụng để điều trị phản ứng dị ứng.

Lưu ý khi dùng Penbutolol

Lưu ý và thận trọng chung

Suy tim

Cần sử dụng Penbutolol cẩn thận cho những trường hợp có tiền sử suy tim đã được bù tốt, đang được điều trị bằng thuốc giãn mạch, digitalis hay các thuốc lợi tiểu. Cả digitalis và penbutolol đều có khả năng làm chậm dẫn truyền thông qua AV. Thuốc chẹn beta-adrenergic không ức chế tác dụng co bóp của digitalis lên cơ tim. Nếu suy tim vẫn tiếp tục, cần ngừng sử dụng penbutolol.

Bệnh nhân không có tiền sử suy tim: Việc sử dụng lâu dài chất chẹn beta có thể gây suy tim trong một thời gian, đặc biệt trong một số trường hợp.

Đợt cấp của bệnh tim bị suy máu cục bộ sau khi ngừng thuốc đột ngột

Phản ứng quá mẫn với catecholamine đã được quan sát ở những bệnh nhân ngừng điều trị bằng chất chẹn beta; cơn đau thắt ngực kịch phát và, trong một số trường hợp, sẽ xuất hiện nhồi máu cơ tim sau khi ngừng điều trị đột ngột. Khi ngừng sử dụng penbutolol, đặc biệt ở những bệnh nhân mắc bệnh tim bị suy máu cục bộ, cần giảm liều dần trong khoảng thời gian từ 1 đến 2 tuần và theo dõi bệnh nhân một cách cẩn thận.

Nếu cơn đau thắt ngực trở nên rõ rệt hơn hoặc sự suy mạch vành cấp tính phát triển, cần phục hồi việc sử dụng thuốc ngay lập tức, ít nhất là tạm thời và thực hiện các biện pháp kiểm soát cơn đau thắt ngực không ổn định. Bệnh nhân cần được cảnh báo không nên gián đoạn hoặc ngừng điều trị mà không có sự hướng dẫn của bác sĩ. Vì bệnh mạch vành là một bệnh thường gặp và có thể không được nhận ra, ngừng thuốc đột ngột có thể không an toàn, ngay cả đối với những bệnh nhân đang điều trị tăng huyết áp.

Đại phẫu:

Không nên ngừng sử dụng thuốc chặn beta-adrenergic trước khi phẫu thuật lớn nếu chúng đã được sử dụng lâu dài. Tuy nhiên, giảm khả năng của tim để đáp ứng với kích thích phản xạ adrenergic có thể làm tăng nguy cơ gây mê toàn thân và các thủ tục phẫu thuật.

Bệnh tiểu đường và hạ đường huyết:

Phong tỏa thụ thể beta-adrenergic có thể ngăn ngừa các dấu hiệu và triệu chứng của hạ đường huyết cấp tính, chẳng hạn như nhịp tim nhanh và thay đổi huyết áp. Điều này đặc biệt quan trọng đối với bệnh nhân tiểu đường không ổn định.

Ngăn chặn thụ thể beta cũng làm giảm bài tiết insulin để đáp ứng với lượng đường trong máu tăng cao; Do đó, liều lượng thuốc hạ đường huyết có thể cần điều chỉnh. Phong tỏa beta-adrenergic cũng có thể làm giảm phản ứng chống điều hòa đối với hạ đường huyết; Trong những trường hợp như vậy, sự phục hồi tự phát từ hạ đường huyết có thể bị trì hoãn trong quá trình điều trị bằng các thuốc chẹn beta.

Nhiễm độc giáp:

Phong tỏa beta-adrenergic có thể che dấu một số dấu hiệu lâm sàng (ví dụ: nhịp tim nhanh) của cường giáp. Để tránh nguy cơ gây ra cơn bão tuyến giáp, bệnh nhân nghi ngờ nhiễm độc giáp cần được quản lý cẩn thận, đặc biệt khi dùng các loại thuốc chẹn beta-adrenergic. Ngừng đột ngột sử dụng các thuốc này có thể làm tăng hoạt động của tuyến giáp và gây ra cơn bão tuyến giáp, một tình trạng mà tuyến giáp tiết ra lượng hormone tăng đột ngột và gây ra các triệu chứng nghiêm trọng.

Lưu ý đối với phụ nữ mang thai

Cần cân nhắc việc sử dụng thuốc trong thời kỳ mang thai chỉ khi lợi ích vượt trội hơn nguy cơ tiềm năng cho thai nhi.

Hiện chưa có đủ nghiên cứu và kiểm soát về việc sử dụng thuốc trong thai kỳ.

Lưu ý đối với phụ nữ cho con bú

Hiện chưa có đủ nghiên cứu để đánh giá rủi ro cho trẻ sơ sinh khi sử dụng thuốc trong thời kỳ cho con bú.

Trước khi sử dụng thuốc trong thời kỳ cho con bú, cần cân nhắc lợi ích tiềm năng so với các rủi ro có thể xảy ra.

Lưu ý khi lái xe và vận hành máy móc

Hiện chưa có báo cáo hoặc thông tin cụ thể liên quan đến việc sử dụng thuốc và tác động đến việc lái xe hoặc vận hành máy móc.

Một vài nghiên cứu về Penbutolol trong Y học

Penbutolol hoặc hydrochlorothiazide mỗi ngày một lần trong tăng huyết áp. Một nghiên cứu có kiểm soát với các phép đo tại nhà

Penbutolol or hydrochlorothiazide once daily during hypertension. A controlled study with home measurements
Penbutolol or hydrochlorothiazide once daily during hypertension. A controlled study with home measurements

1 Tác dụng hạ huyết áp của liều duy nhất hàng ngày với 80 mg penbutolol được so sánh với 100 mg hydrochlorothiazide và giả dược trong một thử nghiệm mù đôi có kiểm soát chéo với các phép đo hàng ngày tại nhà ở mười bệnh nhân tăng huyết áp.

2 Penbutolol, 80 mg mỗi ngày một lần, làm giảm đáng kể huyết áp khi nằm và đứng.

3 Tác dụng hạ huyết áp này mạnh hơn hydrochlorothiazide 100 mg, đặc biệt là vào buổi tối.

4 Tác dụng hạ huyết áp duy trì trong 24 giờ thể hiện qua chỉ số huyết áp buổi tối (14 giờ sau liều) và buổi sáng (24 giờ sau liều).

5 Không có tác dụng phụ chủ quan hoặc thể chất liên quan nào được ghi nhận. Không có thay đổi đáng kể cũng như sự thay đổi đáng chú ý của từng cá nhân trong dữ liệu sinh hóa trong quá trình điều trị bằng penbutolol. Tuy nhiên, trong quá trình điều trị bằng hydrochlorothiazide, những thay đổi điện giải dự kiến đã được quan sát (hạ kali máu không có triệu chứng và tăng axit uric máu).

6 Nồng độ huyết thanh của penbutolol cho thấy không có sự tích tụ sau một tháng điều trị.

7 Ngừng penbutolol đột ngột sau 1 tháng điều trị dẫn đến huyết áp cơ bản chậm trở lại trong khoảng thời gian 2 tuần mà không hồi phục.

Tài liệu tham khảo

  1. Drugbank, Penbutolol , truy cập ngày 02/06/2023.
  2. Pubchem, Penbutolol, truy cập ngày 02/06/2023.
  3. De Plaen, J. F., Vander Elst, E., & Van Strihou, Y. D. C. (1981). Penbutolol or hydrochlorothiazide once a day in hypertension. A controlled study with home measurements. British Journal of Clinical Pharmacology, 12(2), 215-221.
Không tìm thấy sản phẩm nào khớp với lựa chọn của bạn.