Hiển thị tất cả 2 kết quả

Mepivacain

Danh pháp

Tên chung quốc tế

Mepivacaine

Tên danh pháp theo IUPAC

N-(2,6-dimethylphenyl)-1-methylpiperidine-2-carboxamide

Nhóm thuốc

Thuốc gây tê

Mã ATC

N — Hệ thần kinh

N01 – Thuốc Gây Mê

N01B — Thuốc Gây Mê

N01BB — Amit

N01BB03 — Mepivacaine

Mã UNII

B6E06QE59J

Mã CAS

96-88-8

Xếp hạng phân loại đối với phụ nữ có thai

AU TGA loại A

US FDA loại C

Cấu trúc phân tử

Công thức phân tử

C15H22N2O

Phân tử lượng

246.35 g/mol

Cấu trúc phân tử

Mepivacaine là một piperidinecarboxamide trong đó axit N-methylpipecolic và 2,6-dimethylaniline đã kết hợp để tạo thành liên kết amit.

Mepivacaine được sử dụng như một loại thuốc gây tê cục bộ loại amide tương tự như Bupivacain, Lidocain, Articaine hay Etidocain.

Mepivacaine có hai nhóm chức chính là nhóm amide và nhóm este.

Mepivacaine cũng có hai đồng phân quang học là R(-)-mepivacaine và S(+)-mepivacaine.

Cấu trúc phân tử Mepivacain
Cấu trúc phân tử Mepivacain

Các tính chất phân tử

Số liên kết hydro cho: 1

Số liên kết hydro nhận: 2

Số liên kết có thể xoay: 2

Diện tích bề mặt tôpô: 32,3 Ų

Số lượng nguyên tử nặng: 18

Các tính chất đặc trưng

Điểm nóng chảy: 150,5 °C

Điểm sôi: 383.1±42.0 °C

Độ tan trong nước: tan tốt

LogP: 1.95

Hằng số phân ly: pKa= 7.7

Khả năng liên kết protein: 75%

Thời gian bán hủy: Từ 1.9 đến 3.2 giờ ở người lớn và từ 8.7 đến 9 giờ ở trẻ sơ sinh.

Cảm quan

Mepivacaine thường được sản xuất dưới dạng bột tinh thể trắng hoặc gần trắng.

Mepivacaine không có mùi đặc trưng hoặc mùi thơm.

Mepivacaine cũng không có vị đặc biệt hoặc có hơi đắng.

Mepivacaine hydrocloride có khả năng hoà tan tốt trong nước và cũng có khả năng hòa tan trong nhiều dung môi hữu cơ khác như rượu, acetone và chloroform.

Điều này là do mepivacaine hydrocloride là dạng muối hydrocloride, nên nó có khả năng tương tác tốt với các phân tử nước và các dung môi có tính chất tương tự.

Dạng bào chế

Dạng thuốc tiêm: 1%, 1,5%, 2%, 3%.

Dạng thuốc tiêm phối hợp mepivacaine hydrocloride 2% và corbadrin (1:20000).

Dạng bào chế Mepivacain
Dạng bào chế Mepivacain

Độ ổn định và điều kiện bảo quản của Mepivacaine

Để duy trì tính chất và hiệu quả của mepivacaine, việc bảo quản phải tuân theo nguyên tắc độ ổn định.

Nhiệt độ bảo quản thích hợp cho mepivacaine là trong khoảng 15-25°C (59-77°F). Nên tránh lưu trữ mepivacaine ở nhiệt độ cao hoặc nhiệt độ thấp hơn điều kiện nhiệt độ phòng.

Mepivacaine cần phải được bảo quản xa ánh sáng trực tiếp và ánh nắng mặt trời. Ánh sáng có thể gây ra sự phân hủy của các phân tử trong mepivacaine.

Mepivacaine cần phải được bảo quản trong môi trường khô ráo. Độ ẩm có thể làm thay đổi tính chất của mepivacaine và gây hại cho sự ổn định của nó. Do đó, nên tránh bảo quản mepivacaine trong môi trường có độ ẩm cao.

Nguồn gốc

Mepivacaine là một dẫn xuất của amide được sử dụng rộng rãi như một loại thuốc gây tê cục bộ.

Dẫn xuất này được phát triển từ việc nghiên cứu và tổng hợp các hợp chất gây tê khác trong thế kỷ 20.

Từ năm 1940-1950: Trước khi mepivacaine được tạo ra, những loại thuốc gây tê cục bộ như procaine và lidocaine đã được sử dụng rộng rãi trong thực tế y học và nha khoa. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng có thể cần phải phát triển các loại thuốc mới có khả năng gây tê mạnh mẽ hơn và ít tác động phụ hơn.

Năm 1960: Trong giai đoạn này, nỗ lực nghiên cứu về các hợp chất gây tê amide đã đưa đến sự phát triển mepivacaine.

Nhóm nhà hóa học và nhà nghiên cứu dược phẩm đã tiến hành các thí nghiệm tổng hợp hóa học để tạo ra dẫn xuất mới có khả năng gây tê cục bộ hiệu quả trong đó có Mepivacaine.Từ đó, một chất gây tê cục bộ hiệu quả là Mepivacaine được sử dụng phổ biến đến bây giờ.

Dược lý và cơ chế hoạt động

Mepivacaine ngăn chặn việc xuất hiện và truyền tải các tín hiệu điện của các thần kinh.

Ức chế dòng ion

Mepivacaine là một chất tương tự của các ion natri (Na+) và cân bằng tương tự về điện thế. Khi được tiêm vào vùng cần tê, mepivacaine tạo ra môi trường có điện thế âm, ức chế khả năng các kênh ion natri mở ra để cho ion natri đi vào tế bào thần kinh. Điều này gây ra sự ức chế tạm thời về khả năng truyền tín hiệu dọc theo các dây thần kinh.

Ảnh hưởng đến thần kinh

Mepivacaine tác động lên các thụ động của thần kinh, đặc biệt là các kênh natri không chọn lọc. Điều này làm cho thần kinh bị tạm thời ức chế và không thể truyền tín hiệu một cách hiệu quả.

Tác động đến tế bào thần kinh

Mepivacaine cũng ảnh hưởng đến các tế bào thần kinh và các cơ quan xung quanh.

Mepivacaine có thể ức chế hoạt động của các tế bào thần kinh và tạo ra tê cục bộ tại vùng tiêm.

Ứng dụng trong y học của Mepivacaine

Gây tê cục bộ bằng phương pháp tiêm vào vùng da, mô mềm hoặc gân. Mepivacaine có thể dùng để gây tê cho các vết thương, cắt da, khâu da, lấy mẫu mô hoặc xử lý các bệnh lý da.

Gây tê tủy sống bằng phương pháp tiêm vào vùng xương sống. Mepivacaine có thể dùng để gây tê cho các phẫu thuật ở vùng thắt lưng, hông, chân hoặc bụng.

Gây tê nha khoa bằng phương pháp tiêm vào vùng răng hoặc nướu. Mepivacaine có thể dùng để gây tê cho nhổ răng, điều trị sâu răng, lấy cao răng hoặc cấy ghép nha khoa.

Dược động học

Hấp thu

Mepivacaine là một loại thuốc gây tê. Nó có hiệu quả hơn lidocain như làm giãn mạch ít hơn, có hiệu quả nhanh hơn và thời gian tác dụng kéo dài hơn.

Khi được sử dụng để gây tê bên ngoài màng cứng, tác dụng của dung dịch Mepivacaine 2% sẽ bắt đầu trong khoảng từ 7 đến 15 phút và kéo dài trong khoảng từ 115 đến 150 phút.

Khi được sử dụng để gây tê trong khoang cùng, dung dịch Mepivacaine 1-2% sẽ có thời gian tác dụng từ 105 đến 170 phút.

Trong quá trình gây tê trong nha khoa, Mepivacaine sẽ bắt đầu có tác dụng từ khoảng 0,5 đến 2 phút ở hàm trên và từ 1 đến 4 phút ở hàm dưới.

Một lượng 0,7-1 ml dung dịch Mepivacaine hydrocloride 3% có thể gây tê tủy răng trong khoảng thời gian từ 10 đến 17 phút và gây tê mô mềm trong khoảng từ 60 đến 100 phút.

Phân bố

Về phân bố trong cơ thể, khoảng 78% mepivacaine được gắn kết với protein trong huyết tương.

Chuyển hoá

Mepivacaine chủ yếu được chuyển hóa trong gan thông qua quá trình khử N-methyl, hydroxyl hóa nhân thơm và sau đó kết hợp với acid glucuronic.

Thải trừ

Mepivacaine được bài tiết ra qua nước tiểu dưới dạng các chất chuyển hóa và chỉ có một lượng nhỏ (khoảng 5-10%) thuốc được bài tiết ra dưới dạng không thay đổi.

Thời gian bán hủy của mepivacaine trong huyết tương là khoảng 2-3 giờ ở người lớn và khoảng 9 giờ ở trẻ sơ sinh. Mepivacaine cũng có thể truyền từ mẹ sang thai nhi.

Phương pháp sản xuất Mepivacaine

Quá trình sản xuất Mepivacaine bắt đầu với hai nguyên liệu chính là 2,6-dimethylaniline và bromoacetyl bromide.

Sau quá trình tổng hợp, Mepivacaine có thể được bào chế thành hai dạng khác nhau.

Dạng đầu tiên là dạng base, dạng này thường là dạng không ổn định và ít được sử dụng trong ứng dụng thực tế.

Dạng thứ hai của Mepivacaine là dạng hydrochloride (HCl). Trong quá trình bào chế, Mepivacaine base có thể được hoá lỏng bằng việc tạo muối với axit hydrochloric, tạo thành Mepivacaine hydrochloride.

Dạng này là dạng ổn định và phổ biến được sử dụng trong các sản phẩm y tế và nha khoa.

Quá trình sản xuất Mepivacaine là một quá trình hóa học kỹ thuật cao sử dụng các nguyên liệu chính là 2,6-dimethylaniline và bromoacetyl bromide. Kết quả là thu được Mepivacaine trong dạng base hoặc dạng hydrochloride.

Độc tính của Mepivacaine

Tác dụng phụ

Các tác dụng phụ thông thường của Mepivacaine bao gồm loạn nhịp tim, chóng mặt, tăng huyết áp, hạ huyết áp, buồn nôn, nôn mửa và gây mê.

Các tác dụng phụ ít gặp bao gồm nhịp tim chậm, ức chế cơ tim, trụy tim mạch và phù.

Các tác dụng phụ hiếm gặp bao gồm viêm màng nhện, ngừng tim, chứng song thị, rối loạn thần kinh và suy hô hấp.

Một số tác dụng phụ không xác định tần suất gồm:

Nhiễm toan, phù mạch (bao gồm phù thanh quản), ngất, giảm cung lượng tim, block tim, loạn nhịp thất và có thể ngừng tim.

Kích động hoặc trầm cảm, co giật, co thắt đồng tử, tăng nhiệt độ cơ thể, tê liệt ý thức, gây mê dai dẳng, dị cảm, suy nhược, tê liệt tứ chi và đau đầu, bí tiểu, tiểu tiện hoặc đại tiện không tự chủ và suy giảm ham muốn tình dục.

Nổi mày đay, ngứa, toát mồ hôi, ban đỏ, tê đầu lưỡi, cảm giác nhói như kim châm và nóng rát tại vị trí tiêm.

Trong một số trường hợp, Mepivacaine cũng có thể gây chuyển dạ chậm.

Quá liều

Bệnh nhân có thể cảm thấy mất cân bằng, mất hứng thú và khó tập trung khi dùng quá liều Mepivacaine.

Một triệu chứng nghiêm trọng khác là co thắt phế quản, khi đó phế quản co lại và gây khó khăn trong việc hít thở. Có thể gây ra cảm giác khó thở và nguy hiểm đến tính mạng.

Một tác dụng phụ quan trọng của quá liều đó là tình trạng buồn ngủ cực độ. Bệnh nhân có thể cảm thấy mệt mỏi và đau đầu, và khó tỉnh táo để duy trì sự tỉnh táo và tập trung.

Quá liều có thể gây ra cơn co giật, trong đó cơ thể có những chuyển động không kiểm soát và cường độ cao.

Quá liều cũng có thể ảnh hưởng đến hệ thống hô hấp và tim mạch.

Tương tác của Mepivacaine với thuốc khác

Khi sử dụng thuốc tê Mepivacaine cùng lúc với thuốc chống nhược cơ, có thể xảy ra hiện tượng đối kháng giữa hai loại thuốc, dẫn đến giảm tác dụng của thuốc chống nhược cơ. Khả năng ức chế cơ xương bởi thuốc chống nhược cơ có thể bị ảnh hưởng và không đạt được mức độ mong muốn.

Ngoài ra, việc sử dụng thuốc tê Mepivacaine đồng thời với thuốc điều trị tăng huyết áp phong bế hạch cũng có thể gây tăng nguy cơ giảm áp huyết nặng hoặc tim chậm.

Thuốc tê Mepivacaine có khả năng tương tác với thuốc điều trị tăng huyết áp phong bế hạch, làm thay đổi tác dụng của thuốc tăng huyết áp hoặc gây ra hiện tượng tim chậm.

Việc sử dụng thuốc tê Mepivacaine cùng với thuốc phong bế thần kinh – cơ cần được theo dõi chặt chẽ và điều chỉnh liều lượng thuốc một cách cẩn thận để tránh các tác dụng phụ không mong muốn.

Dùng thuốc tê Mepivacaine cùng với thuốc giảm đau thuộc nhóm thuốc gây nghiện có thể gây ra sự tương tác. Sự kết hợp này có thể làm giảm tần số hô hấp và gây khó khăn trong việc thông khí phế nang.

Lưu ý khi dùng Mepivacaine

Lưu ý và thận trọng chung

Việc tiêm mepivacaine vào mạch máu không được khuyến cáo vì có thể gây co giật do độc tính toàn thân và dẫn đến ngừng tim.

Sau mỗi lần tiêm thuốc tê, cần theo dõi tình trạng tim mạch, hô hấp và thị giác của người bệnh để phát hiện các tác dụng độc hại có thể xảy ra trên hệ thần kinh trung ương hoặc hệ tim mạch.

Nếu người bệnh đang thiếu oxy, có tăng kali huyết hoặc đang mắc bệnh nhiễm toan, phải giảm liều thuốc gây tê.

Gây tê tủy sống có thể có tác dụng kéo dài hoặc vĩnh viễn.

Sau khi tiêm thuốc gây tê trong quá trình điều trị nha khoa, cần tránh ăn, nhai kẹo cao su hoặc uống đồ nóng cho đến khi cảm giác trở lại hoàn toàn, vì có nguy cơ cắn vào lưỡi, môi hoặc bên trong má do mất cảm giác.

Lưu ý đối với người đang mang thai

Việc sử dụng các loại thuốc gây tê có thể gây nguy hiểm đối với thai nhi do khả năng khuếch tán qua vùng tử cung. Vì vậy, không nên sử dụng mepivacaine cho phụ nữ mang thai, vì có khả năng gây tác dụng độc hại cho thai nhi.

Lưu ý đối với người đang cho con bú

Mepivacaine có khả năng gây tác dụng độc hại cho trẻ qua sữa mẹ.

Do đó, để đảm bảo an toàn cho trẻ, người dùng mepivacaine nên tìm cách thay thế hoặc tạm ngừng việc cho con bú trong thời gian sử dụng thuốc.

Lưu ý đối với người vận hành máy móc hay lái xe

Mepivacaine có thể gây ảnh hưởng đến khả năng phản ứng khi lái xe hoặc vận hành máy móc. Nên cần thận trọng khi sử dụng.

Một vài nghiên cứu về Mepivacaine trong Y học

Dược động học của các chất đối kháng của bupivacain và mepivacain sau khi gây tê ngoài màng cứng cho chủng tộc Racemate

Pharmacokinetics of the enantiomers of bupivacaine and mepivacaine after epidural administration of the racemates
Pharmacokinetics of the enantiomers of bupivacaine and mepivacaine after epidural administration of the racemates

Mô tả

Chúng tôi đã nghiên cứu dược động học của các chất đồng phân đối hình của bupivacain và mepivacain sau khi tiêm ngoài màng cứng loại racemate của mỗi loại thuốc cho sáu bệnh nhân phẫu thuật. Sau khi gây tê ngoài màng cứng bằng bupivacain/HCl (115 mg) hoặc mepivacaine/HCl (460 mg), mẫu máu được thu thập trong 24 giờ. Các phần không liên kết được xác định bằng cách sử dụng siêu lọc đối với bupivacain và thẩm tách cân bằng đối với mepivacain. Nồng độ trong huyết tương, dịch siêu lọc và dịch thẩm tách được xác định bằng cách sử dụng sắc ký lỏng hiệu năng cao chọn lọc lập thể. Nồng độ đỉnh trong huyết tương của R(+)-bupivacain (389 +/- 93 ng/mL) và R(-)-mepivacaine (1350 +/- 430 ng/mL) nhỏ hơn so với S(-)-bupivacain (449). +/- 109 ng/mL, P < 0,0001) và S(+)-mepivacain (1740 +/- 490 ng/mL, P < 0,002), tương ứng. Tuy nhiên, nồng độ đỉnh không liên kết của R(+)-bupivacain (20 +/- 11 ng/mL) lớn hơn nồng độ đỉnh của S(-)-bupivacain (15 +/- 9 ng/mL, P < 0,005); nồng độ đỉnh không liên kết của R(-)-mepivacain (485 +/- 158 ng/mL) và S(+)-mepivacain (460 +/- 139 ng/mL) không khác nhau. Những quan sát này phản ánh sự khác biệt trong cách bố trí hệ thống (phân phối và loại bỏ) của các chất đối kháng, bởi vì sự hấp thu toàn thân không có tính chất đối kháng với một trong hai loại thuốc. Nghiên cứu này ủng hộ quan điểm cho rằng nên sử dụng các đồng phân đối quang đơn lẻ hơn là các đồng phân racemic, đặc biệt đối với bupivacain. Những quan sát này phản ánh sự khác biệt trong cách bố trí hệ thống (phân phối và loại bỏ) của các chất đối kháng, bởi vì sự hấp thu toàn thân không có tính chất đối kháng với một trong hai loại thuốc. Nghiên cứu này ủng hộ quan điểm cho rằng nên sử dụng các đồng phân đối quang đơn lẻ hơn là các đồng phân racemic, đặc biệt đối với bupivacain. Những quan sát này phản ánh sự khác biệt trong cách bố trí hệ thống (phân phối và loại bỏ) của các chất đối kháng, bởi vì sự hấp thu toàn thân không có tính chất đối kháng với một trong hai loại thuốc. Nghiên cứu này ủng hộ quan điểm cho rằng nên sử dụng các đồng phân đối quang đơn lẻ hơn là các đồng phân racemic, đặc biệt đối với bupivacain.

Ý nghĩa: Việc đo nồng độ trong huyết tương của các chất đồng phân đối hình của bupivacain và mepivacain sau khi tiêm ngoài màng cứng các chủng racemate đã chứng minh rằng sự hấp thu toàn thân, chứ không phải sự hấp thu toàn thân, của các thuốc này là có tính chọn lọc đối quang và ủng hộ quan điểm rằng việc sử dụng các đồng phân đối quang đơn lẻ, chứ không phải là những người cùng chủng tộc thì được ưu tiên hơn.

Tài liệu tham khảo

  1. Pubchem, Mepivacaine, truy cập ngày 24/08/2023.
  2. Drugbank, Mepivacaine, truy cập ngày 24/08/2023.
  3. Drugs.com, Mepivacaine, truy cập ngày 24/08/2023.
  4. Chemspider, Mepivacaine , truy cập ngày 24/08/2023.
  5. Groen, K., Mantel, M., Zeijlmans, P. W., Zeppenfeldt, B., Olieman, W., Stienstra, R., … & Burm, A. G. (1998). Pharmacokinetics of the enantiomers of bupivacaine and mepivacaine after epidural administration of the racemates. Anesthesia & Analgesia, 86(2), 361-366.

Gây mê-gây tê

Isocaine 3%

Được xếp hạng 5.00 5 sao
(1 đánh giá) 510.000 đ
Dạng bào chế: Dung dịch gây tê nha khoaĐóng gói: Hộp 50 ống x 1,8ml

Thương hiệu: Công ty TNHH Nam Dược

Xuất xứ: Canada

Gây mê-gây tê

Scandonest 3% Plain

Được xếp hạng 5.00 5 sao
(1 đánh giá) 0 đ
Dạng bào chế: Dung dịch tiêm dùng trong nha khoaĐóng gói: Hộp 5 vỉ x 10 ống x 1,8ml

Thương hiệu: Septodont

Xuất xứ: Pháp