Hydroxyzine Dichlorhydrate
Danh pháp
Tên chung quốc tế
Tên danh pháp theo IUPAC
2-[2-[4-[(4-chlorophenyl)-phenylmethyl]piperazin-1-yl]ethoxy]ethanol;dihydrochloride
Nhóm thuốc
Kháng histamin, chống nôn, chống ngứa, làm dịu
Mã ATC
N – Thuốc hệ thần kinh
N05 – Thuốc an thần
N05B – Thuốc giảm lo âu
N05BB – Các dẫn chất của Diphenylmethan
N05BB01 – Hydroxyzine
Mã UNII
76755771U3
Mã CAS
2192-20-3
Cấu trúc phân tử
Công thức phân tử
C21H29Cl3N2O2
Phân tử lượng
447.8 g/mol
Cấu trúc phân tử
Hydroxyzine dichlorhydrate là dạng muối hydrochloride của hydroxyzine
Các tính chất phân tử
Số liên kết hydro cho: 3
Số liên kết hydro nhận: 4
Số liên kết có thể xoay: 8
Diện tích bề mặt tôpô: 35.9Ų
Số lượng nguyên tử nặng: 28
Dạng bào chế
Viên nang Hydroxyzine 25 mg, 50 mg, 100 mg.
Hỗn dịch: 25 mg/5 ml.
Sirô: 10 mg/5 ml.
Viên nén Hydroxyzine 10mg, 25 mg, 50 mg, 100 mg.
Thuốc tiêm: 25 mg/ml, 50 mg/ml.
Độ ổn định và điều kiện bảo quản
Thuốc tiêm hydroxyzin tương kỵ khi trộn với aminophylin, amobarbital, doxorubicin, cloramphenicol natri succinat, dimenhydrinat, heparin, penicilin G, pentobarbital, phenobarbital, phenytoin, ranitidin, sulfisoxazol, vitamin B kết hợp với vitamin C.
Bảo quản trong bao bì kín, tránh ánh sáng, ở nhiệt độ 15 – 30 độ C, các dung dịch tiêm, uống, siro không để đông băng.
Nguồn gốc
Hydroxyzine hydrochloride là một loại thuốc được sử dụng chủ yếu để điều trị rối loạn lo âu và các vấn đề về ngứa trong y học. Nó là một dạng muối của hydroxyzine, là thuốc thuộc nhóm chất đối kháng histamine thế hệ đầu tiên và có tác dụng chống lo âu.
Hydroxyzine ban đầu được phát hiện và phát triển bởi công ty dược phẩm Pháp là Rhône-Poulenc (nay là Sanofi). Năm 1956, công ty này giới thiệu Hydroxyzine hydrochloride trên thị trường với tên thương hiệu Atarax. Thuốc này được đưa vào sử dụng trong y học và đã trở thành một lựa chọn phổ biến trong điều trị rối loạn lo âu và ngứa.
Hydroxyzine hydrochloride có thể có nhiều tên thương mại khác nhau ở các quốc gia và khu vực khác nhau, nhưng tại Mỹ và một số quốc gia châu Âu, Atarax vẫn là một trong những tên thương mại phổ biến của loại thuốc này.
Dược lý và cơ chế hoạt động
Hydroxyzine là thuốc gì? Hydroxyzin là một chất đối kháng histamin cạnh tranh trên thụ thể H1, đồng thời có tác dụng ức chế hệ thần kinh trung ương (TKTW), kháng cholinergic (kháng acetylcholin), chống co thắt, và gây tê tại chỗ. Thuốc cũng có tác dụng làm dịu và chống nôn. Tác dụng làm dịu và an thần của hydroxyzin được cho là do làm giảm hoạt động của hệ thống TKTW dưới vỏ não, mà không có tác dụng ức chế vỏ não.
Mặc dù cơ chế tác dụng chống nôn và chống say tàu xe của hydroxyzin chưa rõ ràng, nhưng ít nhất một phần là do tác dụng kháng cholinergic trung ương và tác dụng ức chế TKTW. Tuy nhiên, hiệu quả dùng hydroxyzin trong thời gian dài (ví dụ trên 4 tháng) làm thuốc giải lo âu vẫn chưa được xác định. Đa số các nhà lâm sàng cho rằng các benzodiazepin hiệu quả hơn trong điều trị chứng lo âu.
Tương tự như các thuốc tác động lên TKTW, hydroxyzin cũng có tác dụng giảm đau thông qua tác dụng an thần. Ngoài ra, thuốc còn có tác dụng giãn cơ xương. Hydroxyzin có khả năng làm giảm nhẹ tiết dịch tiêu hoá và tác dụng chống co thắt, do khả năng đối kháng với cơ chế gây co thắt của các chất như acetylcholin, histamin và serotonin.
Ứng dụng trong y học
Hydroxyzine được sử dụng để điều trị một số vấn đề sức khỏe, bao gồm ngứa, lo lắng và buồn nôn do say tàu xe.
Một đánh giá có hệ thống đã kết luận rằng hydroxyzine có hiệu quả tốt hơn giả dược trong việc điều trị chứng rối loạn lo âu tổng quát. Tuy nhiên, không có đủ dữ liệu để so sánh thuốc này với các loại thuốc benzodiazepin và buspirone.
Hydroxyzine cũng được sử dụng để điều trị các tình trạng dị ứng, chẳng hạn như mề đay mãn tính, bệnh da dị ứng hoặc tiếp xúc và ngứa do histamin gây ra. Các nghiên cứu gần đây đã xác nhận tác dụng này và không phát hiện tác dụng phụ đáng kể đối với gan, máu, hệ thần kinh hoặc đường tiết niệu.
Hydroxyzine có thể được sử dụng như một loại thuốc an thần không chứa barbiturat và để điều trị các rối loạn thần kinh, chẳng hạn như chứng rối loạn tâm thần và các dạng trạng thái lo lắng hoặc căng thẳng khác.
Liều hydroxyzine hydrochloride thông thường dùng để giúp ngủ nằm trong khoảng từ 25 đến 100 mg. Tuy giúp ngủ, nhưng tương tự các loại thuốc hỗ trợ giấc ngủ kháng histamin khác, hydroxyzine thường chỉ được sử dụng trong thời gian ngắn hoặc “khi cần thiết” vì tác dụng thần kinh trung ương của nó có thể phát triển chỉ sau vài ngày. Tuy nhiên, một đánh giá hệ thống lớn và phân tích tổng hợp mạng về các loại thuốc điều trị chứng mất ngủ công bố vào năm 2022 cho thấy rất ít bằng chứng về hiệu quả của hydroxyzine trong việc điều trị chứng mất ngủ.
Hydroxyzine đã được sử dụng thử nghiệm trong điều trị COVID-19. Mặc dù các thuốc kháng histamine khác cũng đã được sử dụng để giảm triệu chứng, hydroxyzine được cho là có tác dụng kháng vi-rút trực tiếp ở mức độ nhất định.
Gabasync, một phương pháp điều trị bao gồm sự kết hợp của hydroxyzine với hai loại thuốc khác (gabapentin và flumazenil), cùng với liệu pháp, được khuyến khích trong điều trị nghiện methamphetamine, tuy nhiên, hiệu quả của nó trong điều trị nghiện methamphetamine là không hiệu quả. Mặc dù đã có FDA chấp thuận sử dụng riêng lẻ cho các loại thuốc này, việc sử dụng ngoài nhãn hiệu để điều trị nghiện chưa được kiểm chứng.
Dược động học
Hấp thu
Hydroxyzine được hấp thu nhanh qua đường tiêu hóa khi uống. Tác dụng của thuốc xuất hiện sau 15-30 phút khi uống và nhanh hơn khi tiêm, kéo dài từ 4 đến 6 giờ sau khi dùng một liều đơn. Hydroxyzine có khả năng ức chế phản ứng viêm (nổi mày đay, phản ứng ban đỏ) và ngứa trong vòng tới 4 ngày sau khi thử phản ứng tiêm trong da với các dị nguyên và histamin.
Phân bố
Sau khi dùng hydroxyzine, thuốc phân bố rộng rãi đến hầu hết các mô và dịch trong cơ thể và đạt nồng độ cao nhất ở gan, phổi, lách, thận và mô mỡ. Hiện chưa rõ liệu thuốc có phân bố vào sữa hay nhau thai hay không.
Chuyển hóa
Quá trình chuyển hóa chính xác của thuốc vẫn chưa được hiểu rõ, nhưng hydroxyzine dường như chuyển hóa hoàn toàn và chủ yếu diễn ra ở gan. Chất chuyển hóa acid carboxylic của hydroxyzine là cetirizin, một kháng histamin có tác dụng kéo dài.
Thải trừ
Hydroxyzine và các chất chuyển hóa được thải qua phân thông qua mật. Nửa đời thải trừ của thuốc là khoảng 20 giờ ở người lớn, 29 giờ ở người cao tuổi và 37 giờ ở người suy gan.
Phương pháp sản xuất
Hydroxyzine được tổng hợp bằng cách alkyl hóa 1-(4-chlorobenzhydryl)piperazin với 2-(2-chloroethoxy)ethanol như phương trình sau:
Độc tính ở người
Quá liều hydroxyzine có thể gây co giật, u ám và hạ huyết áp. Không có liệu pháp đặc hiệu cho quá liều các thuốc kháng histamin. Có thể loại hydroxyzine khỏi dạ dày ngay lập tức bằng cách gây nôn hoặc rửa dạ dày. Nếu người bệnh bất tỉnh, co giật hoặc mất phản xạ nôn, có thể tiến hành rửa dạ dày nếu đã đặt ống nội khí quản có bóng bơm phồng để ngăn chặn việc hít các dịch chứa trong dạ dày. Nếu huyết áp giảm, có thể truyền dịch và sử dụng noradrenalin hoặc metaraminol (không sử dụng adrenalin).
Tuy thẩm phân máu hoặc màng bụng có thể không hiệu quả để loại bỏ hydroxyzine, nhưng nếu có sự phối hợp với các thuốc khác (như barbiturat) thì có thể xem xét thẩm phân.
Tính an toàn
Hydroxyzine đã được phát hiện gây quái thai ở chuột nhắt, chuột cống và thỏ, khi sử dụng liều lượng lớn hơn nhiều so với liều điều trị cho người. Chưa có đủ dữ liệu an toàn cho người mang thai, do đó, không nên sử dụng hydroxyzine trong thai kỳ. Thuốc cũng không nên dùng cho người đang cho con bú.
Tương tác với thuốc khác
Hydroxyzine có thể tương tác cộng hưởng hoặc tăng cường tác dụng của các thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương khác như các opiat, các thuốc giảm đau, các barbiturat hoặc các thuốc an thần khác, các thuốc gây tê mê hoặc rượu.
Khi dùng hydroxyzine cùng với các thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương khác, cần thận trọng để tránh làm an thần quá mức và nên giảm liều các thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương, có thể giảm đến 50%.
Khi dùng hydroxyzine cùng với các thuốc có tác dụng kháng acetylcholin khác, có thể tăng thêm tác dụng kháng acetylcholin.
Hydroxyzine có thể ức chế và đảo ngược tác dụng co mạch của epinephrin (adrenalin). Nếu cần dùng một thuốc co mạch cho người bệnh đang dùng hydroxyzine, cần sử dụng noradrenalin hoặc metaraminol, không nên sử dụng epinephrin.
Tác dụng của hydroxyzine có thể được tăng cường bởi droperidol, methotrimeprazin và pramlintid, trong khi có thể bị giảm bởi amphetamin và các chất ức chế acetylcholinesterase.
Lưu ý khi sử dụng Hydroxyzine dichlorhydrate
Không nên tiêm dưới da, tiêm động mạch hoặc tĩnh mạch vì có thể gây ra huyết khối hoặc hoại thư ngón chân, tay. Hơn nữa, thoát mạch có thể gây áp xe vô khuẩn và cứng mô rõ rệt. Cần thận trọng khi sử dụng với người bệnh glôcôm góc hẹp, phì đại tuyến tiền liệt, tắc nghẽn cổ bàng quang, hen và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
Tác dụng kháng cholinergic của hydroxyzine không được dung nạp tốt ở người cao tuổi. Dùng hydroxyzine chống ngứa trong một thời gian ngắn, nhưng không nên sử dụng như là một thuốc làm dịu ở người cao tuổi.
Nếu sử dụng cho người suy gan, thận, cần giảm liều.
Nên dùng hydroxyzine đường uống thay cho tiêm bắp càng sớm càng tốt và nên dùng liều thấp nhất có tác dụng.
Khi tiêm bắp, có thể xảy ra đau, kích ứng tại vị trí tiêm, áp xe, phù nề và hoại tử mô.
Nên tiêm hydroxyzine sâu vào phần tư ngoài trên cơ mông hoặc mặt bên – giữa đùi. Đặc biệt là phải tiêm thận trọng ở vùng cơ delta và chỉ tiêm khi cơ phát triển tốt, để tránh tổn thương dây thần kinh quay. Không nên tiêm vào vùng dưới và vùng 1/3 – giữa cánh tay. Đối với trẻ em, nên tiêm hydroxyzine vào vùng giữa – bên cơ đùi; chỉ tiêm khi cần (ví dụ trẻ bị bỏng) vào rìa ngoài của phần tư trên ngoài cơ mông, để giảm thiểu nguy cơ gây tổn thương dây thần kinh tọa.
Một vài nghiên cứu của Hydroxyzine dichlorhydrate trong Y học
Hydroxyzine dùng cho rối loạn lo âu tổng quát
Bối cảnh: Rối loạn lo âu tổng quát (GAD) là một rối loạn tâm thần mãn tính lâu dài phổ biến, đặc biệt thường gặp ở cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu. Có một số lựa chọn điều trị, cả không dùng thuốc (tức là liệu pháp nhận thức hành vi) và dùng thuốc. Trong số các can thiệp dược lý, thuốc chống trầm cảm, buspirone và benzodiazepin (BDZ) đã được nghiên cứu trong GAD. Hydroxyzine là một loại thuốc kháng histamine đã được sử dụng trong điều trị chứng lo âu.
Mục tiêu:
- Để xác định hiệu quả của hydroxyzine so với giả dược hoặc bất kỳ hoạt chất nào khác trong việc làm giảm các triệu chứng cấp tính của GAD.
- Để xem xét khả năng chấp nhận điều trị bằng hydroxyzine so với giả dược hoặc bất kỳ hoạt chất nào khác.
- Nghiên cứu tác dụng phụ của hydroxyzine so với các hoạt chất khác.
Chiến lược tìm kiếm: Sổ đăng ký thử nghiệm có kiểm soát của Nhóm Cochrane (CCDANCTR-Studies và CCDANCTR-References) đã được tìm kiếm vào ngày 1 tháng 3 năm 2010. Nhóm tác giả đã tiến hành tìm kiếm bổ sung trên MEDLINE, CINAHL và PsycINFO và kiểm tra danh sách tham khảo của các nghiên cứu được đưa vào, đánh giá hệ thống trước đây và sách giáo khoa chính về rối loạn lo âu. Giao tiếp cá nhân với các công ty dược phẩm và các chuyên gia trong lĩnh vực này cũng đã được thực hiện.
Tiêu chí lựa chọn: Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng phân bổ bệnh nhân mắc GAD với hydroxyzine so với giả dược và/hoặc bất kỳ thuốc giải lo âu nào khác.
Thu thập và phân tích dữ liệu: Hai tác giả trích xuất dữ liệu độc lập. Thông tin được trích xuất bao gồm các đặc điểm nghiên cứu, đặc điểm người tham gia, chi tiết can thiệp và đo lường kết quả về mặt hiệu quả (chẳng hạn như số bệnh nhân đáp ứng với điều trị hoặc thuyên giảm), khả năng chấp nhận (số bệnh nhân không hoàn thành nghiên cứu) và khả năng dung nạp (bên hồ sơ tác dụng).
Kết quả chính: Việc tìm kiếm mang lại 39 nghiên cứu. Chúng tôi đã đưa năm nghiên cứu vào tổng quan với tổng số 884 người tham gia. Chúng tôi đã loại trừ 31 nghiên cứu và chỉ định 3 nghiên cứu đang chờ đánh giá.
Dữ liệu từ các nghiên cứu bao gồm cung cấp một số bằng chứng cho thấy hydroxyzine hiệu quả hơn giả dược đối với GAD (tỷ lệ chênh lệch (OR) 0,30, KTC 95% 0,15 đến 0,58) và nó cũng được chấp nhận/chịu đựng được (OR 1,00, KTC 95% 0,63 đến 1,58) (HOẶC 1,49, KTC 95% 0,92 đến 2,40). So với các thuốc giải lo âu khác (benzodiazepin và buspirone), hydroxyzine tương đương về hiệu quả, khả năng chấp nhận và khả năng dung nạp (hydroxyzine so với chloridiazepoxide: OR 0,75, KTC 95% 0,35 đến 1,62; hiệu quả của hydroxyzine so với buspirone OR 0,76, KTC 95% 0,40 đến 1,42 ).
Về mặt tác dụng phụ, hydroxyzine có liên quan đến tỷ lệ buồn ngủ/buồn ngủ cao hơn so với các thuốc so sánh có hoạt tính (OR 1,74, KTC 95% 0,86 đến 3,53). Tuy nhiên, có nguy cơ sai lệch cao trong các nghiên cứu được đưa vào.
Kết luận của tác giả: Các nghiên cứu bao gồm không báo cáo về tất cả các kết quả đã được xác định trước trong giao thức cho tổng quan này. Mặc dù hiệu quả hơn giả dược, do nguy cơ sai lệch cao của các nghiên cứu được đưa vào, số lượng nghiên cứu nhỏ và cỡ mẫu tổng thể nhỏ, nên không thể khuyến nghị hydroxyzine như một phương pháp điều trị đầu tay đáng tin cậy trong GAD.
Tài liệu tham khảo
- Drugbank, Hydroxyzine dichlorhydrate, truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2023.
- Guaiana, G., Barbui, C., & Cipriani, A. (2010). Hydroxyzine for generalised anxiety disorder. The Cochrane database of systematic reviews, (12), CD006815. https://doi.org/10.1002/14651858.CD006815.pub2
- Pubchem, Hydroxyzine dichlorhydrate, truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2023.
- Bộ Y Tế (2012), Dược thư quốc gia Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội
Xuất xứ: Bỉ