Finasteride

Hiển thị tất cả 2 kết quả

Finasteride

Biên soạn và Hiệu đính

Dược sĩ Phan Hữu Xuân Hạo – Khoa Dược, Trường Y Dược – Đại học Duy Tân.

Danh pháp

Tên chung quốc tế

Finasteride

Tên danh pháp theo IUPAC

(1S,3aS,3bS,5aR,9aR,9bS,11aS)-N-tert-butyl-9a,11a-dimethyl-7-oxo-1,2,3,3a,3b,4,5,5a,6,9b,10,11-dodecahydroindeno[5,4-f]quinoline-1-carboxamide

Nhóm thuốc

Thuốc ức chế alpha-5-testosterone reductase

Mã ATC

D – Da liễu

D11 – Các thuốc khác dùng trong da liễu

D11A – Các thuốc khác dùng trong da liễu

D11AX – Thuốc trị bệnh ngoài da khác

D11AX10 – Finasteride

G – Hệ sinh dục tiết niệu và các Hormon sinh dục

G04 – Thuốc đường tiết niệu

G04C – Thuốc sử dụng trong phì đại lành tính tuyến tiền liệt

G04CB – Thuốc ức chế Testosterone-5-alpha Reductase

G04CB01 – Finasteride

Mã UNII

57GNO57U7G

Mã CAS

98319-26-7

Cấu trúc phân tử

Công thức phân tử

C23H36N2O2

Phân tử lượng

372.5 g/mol

Cấu trúc phân tử

Finasteride là một aza-steroid, có cấu trúc 17β-(N-tert-butylcarbamoyl)-4-aza-5α-androst-1-en-3-one.

Cấu trúc phân tử Finasteride
Cấu trúc phân tử Finasteride

Các tính chất phân tử

Số liên kết hydro cho: 2

Số liên kết hydro nhận: 2

Số liên kết có thể xoay: 2

Diện tích bề mặt tôpô: 58.2 Ų

Số lượng nguyên tử nặng: 27

Các tính chất đặc trưng

Điểm nóng chảy: 252 – 254°C

Điểm sôi: 576.6°C

Tỷ trọng riêng: 1.1 ± 0.1 g/cm3

Phổ hồng ngoại: Đạt cực đại tại 1690cm-1

Độ tan trong nước: 0.00198 mg/mL

Hằng số phân ly pKa: 0.33

Chu kì bán hủy: 3 – 16 giờ

Khả năng liên kết với Protein huyết tương: Khoảng 90%

Cảm quan

Finasteride có dạng bột kết tinh màu trắng hoặc gần như trắng, ít tan trong nước và tan nhiều trong các dung môi hữu cơ như chloroform, DMSO, ethanol, methanol…

Dạng bào chế

Viên nén: 1 mg; 5 mg.

Dạng bào chế của Finasteride
Dạng bào chế của Finasteride

Độ ổn định và điều kiện bảo quản

Viên nén finasteride nên được bảo quản trong bao bì gốc của nhà sản xuất, để ở nhiệt độ phòng và tránh ánh sáng trực tiếp.

Nguồn gốc

Vào năm 1942, James Hamilton quan sát thấy rằng việc thiến trước tuổi dậy thì giúp ngăn chặn sự phát triển về sau của chứng hói đầu ở nam giới trưởng thành. Đến năm 1974, Julianne Imperato-McGinley của trường Cao đẳng Y tế Cornell ở New York tham dự một hội nghị về dị tật bẩm sinh và báo cáo về một nhóm trẻ em khác giới ở Caribê, những người được cho là mơ hồ về giới tính khi mới sinh.

Ban đầu, những đứa trẻ này được lớn lên như con gái, nhưng sau đó phát triển cơ quan sinh dục nam bên ngoài kèm theo các đặc điểm nam tính khác sau khi bắt đầu dậy thì. Mặc dù được nuôi dạy như con gái cho đến tuổi dậy thì, những đứa trẻ này nói chung là dị tính và được cộng đồng địa phương gọi là “Guevedoces”, nghĩa là “dương vật lúc 12 tuổi” theo tiếng Tây Ban Nha.

Nhóm nghiên cứu của cô đã phát hiện những đứa trẻ này đều có chung một đột biến gen, gây ra sự thiếu hụt enzyme 5α-reductase và hormone nam dihydrotestosterone (DHT), được cho là nguyên nhân gây ra những bất thường trong phát triển giới tính nam. Khi trưởng thành, những cá thể này có bộ phận tuyến tiền liệt nhỏ hơn nhưng kém phát triển, và cũng được quan sát là không có tỷ lệ bị hói đầu.

Vào năm 1975, trưởng bộ phận nghiên cứu cơ bản của Merck, P. Roy Vagelos đã nhìn thấy các bản sao của bài thuyết trình của Imperato-McGinley và bị hấp dẫn bởi quan điểm cho rằng, mức độ DHT giảm dẫn đến sự phát triển của các tuyến tiền liệt nhỏ hơn. Sau đó, ông đã tìm cách tạo ra một loại thuốc có thể bắt chước tình trạng của những đứa trẻ này để điều trị cho những người đàn ông lớn tuổi bị u xơ tuyến tiền liệt.

Finasteride lần đầu tiên được phát triển bởi Merck với tên mã MK-906. Một nhóm được dẫn đầu do nhà hóa học Gary Rasmusson và nhà sinh vật học Jerry Brooks đã phát triển các chất ức chế 5α-reductase tiềm năng dựa trên các chất ức chế trạng thái chuyển tiếp, sử dụng một quy trình lặp đi lặp lại của thiết kế phân tử và thử nghiệm rồi thiết kế lại.

Đến năm 1992, finasteride (5mg) đã được FDA phê duyệt để điều trị BPH (tăng sản lành tính tuyến tiền liệt), được Merck bán trên thị trường với tên thương hiệu là Proscar. Rasmusson và Brooks cũng đã được trao giải thưởng “Nhà phát minh của năm” của IPO vào năm 1993.

Năm 1997, Merck tiếp tục thành công trong việc nhận được sự chấp thuận của FDA cho chỉ định thứ hai của finasteride (1mg) để điều trị chứng rụng tóc ở nam giới và được bán dưới tên thương hiệu là Propecia. Finasteride là chất ức chế 5α-reductase đầu tiên được giới thiệu và tiếp theo là dutasteride vào năm 2001.

Dược lý và cơ chế hoạt động

Finasteride hoạt động như một chất ức chế cạnh tranh và đặc hiệu đối với isoenzyme 5α-reductase loại II, một enzyme steroid nội bào liên kết nhân chủ yếu nằm trong tế bào mô đệm tuyến tiền liệt. 5α-reductase có chức năng chuyển đổi androgen testosterone thành 5α-dihydrotestosterone (DHT), một chất chuyển hóa tích cực hơn. Theo đó, người ta cho rằng 5α-reductase loại I và 5α-reductase loại II chịu trách nhiệm sản xuất một phần ba và hai phần ba lượng DHT lưu hành, tương ứng.

DHT được coi là androgen đóng vai trò chính trong sự phát triển và mở rộng của tuyến tiền liệt. Đây là chất trung gian nội tiết tố cho sự tăng sản khi tích tụ trong tuyến tiền liệt. DHT thể hiện ái lực với các thụ thể androgen trong tuyến tiền liệt cao hơn so với testosterone và thông qua việc tác động lên các thụ thể này, DHT điều chỉnh các gen chịu trách nhiệm tăng sinh tế bào.

Cơ chế hoạt động của finasteride dựa trên sự ức chế ưu tiên đối với 5α-reductase loại II (gấp 100 lần so với loại I) thông qua việc hình thành một phức hợp bền vững với enzyme in vitro và in vivo. Sự ức chế này ngăn chặn sự chuyển đổi ngoại vi của testosterone thành DHT, dẫn đến làm giảm đáng kể nồng độ DHT trong huyết thanh và mô, đồng thời tăng nồng độ testosterone trong huyết thanh từ tối thiểu đến trung bình, và tăng đáng kể nồng độ testosterone ở tuyến tiền liệt.

Cơ chế hoạt động của Finasteride
Cơ chế hoạt động của Finasteride

Vì DHT là androgen chính chịu trách nhiệm cho việc kích thích sự phát triển của tuyến tiền liệt nên nồng độ DHT giảm sẽ dẫn đến giảm thể tích tuyến tiền liệt (khoảng 20 – 30% sau 6 – 24 tháng điều trị). Người ta cho rằng, nồng độ DHT tăng có thể dẫn đến sự phiên mã mạnh mẽ của prostaglandin D2, thúc đẩy sự gia tăng của các tế bào ung thư ở tuyến tiền liệt.

Ở nam giới bị rụng tóc nội tiết tố androgen, cơ chế hoạt động của finasteride vẫn chưa được xác định đầy đủ, nhưng thuốc đã cho thấy khả năng làm giảm nồng độ DHT ở da đầu xuống mức được tìm thấy ở da đầu có lông, đồng thời giảm DHT trong huyết thanh, tăng tóc mọc lại và làm chậm rụng tóc.

Có rất nhiều nghiên cứu đã được thực hiện chứng minh tính hiệu quả của finasteride trong điều trị rụng tóc androgen ở nam giới. Liều finasteride 1 mg làm giảm 70% nồng độ DTH trong huyết thanh, 40%-60% nồng độ DHT tại da đầu. Việc giảm lượng DHT này đã được chứng minh là ngăn chặn tiến trình rụng tóc ở 86% nam giới dùng thuốc trong các thử nghiệm lâm sàng, 65% những người tham gia thử nghiệm đánh giá tóc mọc đáng kể.

Một nghiên cứu khác tại nhật bản ghi nhận hiệu quả và độ an toàn của finasteride trong điều trị rụng tóc androgen. Trong số những người đàn ông này, 11,1% cho thấy sự mọc tóc tốt, 36,5% tăng trưởng vừa và 39,5% có mọc lại ít.

Hiệu quả của Finasteride sau 3-6 tháng sử dụng
Hiệu quả của Finasteride sau 3-6 tháng sử dụng

Finasteride có hiệu quả nhất đối với rụng tóc ở vùng đỉnh đầu nhưng có thể làm giảm rụng tóc ở tất cả các vùng khác trên da đầu.Hiệp hội rụng tóc Hoa kỳ khuyến cáo finasteride là thuốc uống được lựa chọn hàng đầu trong điều trị rụng tóc androgen ở nam giới.

Một nghiên cứu khác cho thấy rằng, finasteride có thể làm giảm tình trạng xuất huyết có nguồn gốc từ tuyến tiền liệt thông qua ức chế yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF) trong tuyến tiền liệt, dẫn đến teo và chết tế bào theo chương trình. Điều này có thể mang lại lợi ích cho những bệnh nhân chảy máu tuyến tiền liệt vô căn, chảy máu trong quá trình chống đông hoặc chảy máu sau khi đo thiết bị.

Ứng dụng trong y học

Phì đại tuyến tiền liệt

Các bác sĩ đôi khi kê đơn finasteride để điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt (BPH), hay còn gọi là phì đại tuyến tiền liệt. Theo đó, finasteride có thể cải thiện các triệu chứng liên quan đến BPH như khó tiểu, thức dậy vào ban đêm để đi tiểu, do dự khi bắt đầu và kết thúc việc đi tiểu, hoặc giảm lưu lượng nước tiểu. Tuy nhiên, finasteride giúp giảm triệu chứng ít hơn so với thuốc chẹn alpha-1 như tamsulosin và giảm triệu chứng chậm hơn khi khởi phát (có thể mất 6 tháng hoặc hơn khi điều trị với finasteride để xác định kết quả).

Mặt khác, các lợi ích về triệu chứng chủ yếu được quan sát thấy ở những người có thể tích tuyến tiền liệt lớn hơn 40cm3. Trong các nghiên cứu dài hạn, finasteride không phải là thuốc ức chế alpha-1 nhưng làm giảm nguy cơ bí tiểu cấp tính (-57% sau 4 tuổi) và nhu cầu phẫu thuật (-54% sau 4 tuổi). Nếu ngừng sử dụng thuốc, bất kỳ lợi ích điều trị nào cũng sẽ bị đảo ngược trong vòng 6 – 8 tháng.

Ung thư tuyến tiền liệt

Ở nam giới trên 55 tuổi, finasteride có khả năng làm giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt cấp độ thấp nhưng có thể làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt cấp độ cao và không ảnh hưởng đến khả năng sống sót tổng thể.

Một đánh giá năm 2010 cho thấy, sử dụng chất ức chế 5α-reductase làm giảm 25% nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. Hơn nữa, một nghiên cứu tiếp theo về các tuyên bố của Medicare từ những người tham gia trong Thử nghiệm Phòng ngừa Ung thư Tuyến tiền liệt kéo dài 10 năm cho thấy sự giảm ung thư tuyến tiền liệt được duy trì ngay cả khi đã ngừng điều trị.

Tuy nhiên, các chất ức chế 5α-reductase đã được phát hiện là có khả năng làm tăng nguy cơ phát triển một số dạng ung thư tuyến tiền liệt khác hiếm gặp nhưng nguy hiểm (27%), mặc dù không phải tất cả các nghiên cứu đều quan sát thấy điều này. Ngoài ra, không có tác động nào của chất ức chế 5-α-reductase đối với sự sống còn ở những người bị ung thư tuyến tiền liệt.

Rụng tóc

Finasteride cũng được sử dụng để điều trị chứng hói đầu ở nam giới (chứng rụng tóc nội tiết tố androgen), một tình trạng thường gặp ở 80% nam giới da trắng. Tính đến năm 2017, finasteride và minoxidil là hai loại thuốc duy nhất được FDA chấp thuận để sử dụng điều trị chứng rụng tóc ở nam giới tại Hoa Kỳ. Việc điều trị bằng finasteride làm chậm quá trình rụng tóc và cải thiện khoảng 30% tỷ lệ rụng tóc sau 6 tháng điều trị, hơn nữa hiệu quả vẫn tồn tại miễn là dùng thuốc.

Bằng cách làm giảm mức DHT ở da đầu, finasteride có thể duy trì hoặc làm tăng số lượng sợi tóc cuối trong giai đoạn anagen thông qua ức chế và đôi khi đảo ngược sự thu nhỏ của nang tóc. Finasteride có hiệu quả nhất trên vùng đỉnh đầu nhưng có thể làm giảm rụng tóc ở tất cả các vùng trên da đầu. Tuy nhiên, hiệu quả giảm rụng tóc da dầu của finasteride thấp hơn so với dutasteride. Ngoài ra, finasteride cũng đã được thử nghiệm đối với chứng rụng tóc ở phụ nữ, nhưng kết quả không tốt hơn giả dược.

FDA chỉ chấp thuận sử dụng finasteride để điều trị rụng tóc kiểu hói ở nam giới, không chấp thuận cho sử dụng trong điều trị rụng tóc do androgen ở nữ giới do lo ngại về tác dụng không mong muốn. Tuy nhiên, các bác sỹ có thể cân nhắc sử dụng trên bệnh nhân nữ. Thường ở phụ nữ đã mãn kinh.

Rậm lông

Finasteride đã được chứng minh là có hiệu quả trong điều trị chứng rậm lông ở phụ nữ. Kết quả từ một nghiên cứu trên 89 phụ nữ mắc chứng rậm lông do hội chứng viêm màng túi dai dẳng đã cho thấy, finasteride giúp làm giảm 93% chứng rậm lông trên khuôn mặt và 73% chứng rậm lông trên cơ thể sau 2 năm điều trị. Các nghiên cứu khác sử dụng finasteride để điều trị cho hội chứng này cũng cho thấy hiệu quả rõ ràng.

Liệu pháp hormone chuyển giới

Đôi khi, finasteride được sử dụng trong liệu pháp thay thế hormone cho phụ nữ chuyển giới do tác dụng kháng nội tiết tố androgen, kết hợp với một dạng estrogen. Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu lâm sàng được thực hiện về việc sử dụng finasteride cho mục đích này và bằng chứng về tính an toàn hoặc hiệu quả còn hạn chế. Do đó, cần thận trọng khi kê đơn finasteride cho phụ nữ chuyển giới vì thuốc có thể liên quan đến các tác dụng phụ như trầm cảm, lo lắng và có ý định tự tử. Các triệu chứng này đặc biệt phổ biến ở cộng đồng chuyển giới và những người khác có nguy cơ cao.

Dược động học

Hấp thu

Finasteride được hấp thu tốt sau khi uống và giai đoạn tích lũy chậm hơn sau nhiều lần dùng thuốc. Ở các đối tượng nam giới khỏe mạnh, sinh khả dụng trung bình qua đường uống là 65% đối với liều 1mg và 63% đối với liều 5mg. Các giá trị này dao động từ 26 – 170% đối với liều lượng 1mg và từ 34 – 108% đối với liều lượng 5mg, tương ứng.

Finasteride được báo cáo rằng lượng thức ăn không ảnh hưởng đến sinh khả dụng đường uống của thuốc. Nồng độ đỉnh trong huyết tương (Cmax) trung bình là 37 ng/mL (khoảng 27 – 49 ng/mL), đạt được sau 1 – 2 giờ. AUC (0 – 24 giờ) là 53 ngxhr/mL (khoảng 20 – 154 ngxhr/mL). Ngoài ra, nồng độ thuốc trong huyết tương và AUC được báo cáo là cao hơn ở bệnh nhân nam từ 70 tuổi trở lên.

Phân bố

Khoảng 90% lượng finasteride liên kết với protein huyết tương với thể tích phân bố là 76L ở trạng thái ổn định, dao động từ 44 – 96L. Finasteride đã được chứng minh là có thể vượt qua hàng rào máu não nhưng dường như không phân bố ưu tiên vào dịch não tủy. Ngoài ra, người ta không biết liệu thuốc có được bài tiết qua sữa mẹ hay không nhưng một lượng nhỏ finasteride đã được phát hiện trong tinh dịch của các đối tượng nhận thuốc.

Chuyển hóa

Finasteride trải qua quá trình chuyển hóa rộng rãi ở gan, chủ yếu thông qua trung gian của enzyme cytochrome P450 3A4 (CYP3A4) để tạo thành các chất chuyển hóa monohydroxyl hóa và monocarboxylic acid chuỗi bên t-butyl. Các chất chuyển hóa có ít hơn 20% hoạt tính dược lý của hợp chất gốc.

Thải trừ

Ở người khỏe mạnh, khoảng 32 – 46% tổng liều uống của finasteride được bài tiết qua nước tiểu dưới dạng chất chuyển hóa, trong khi khoảng 51 – 64% được bài tiết qua phân. Ở những bệnh nhân suy thận, mức độ thải trừ của finasteride trong nước tiểu dự kiến sẽ giảm nhưng sự bài tiết qua phân lại tăng lên.

Ở người trẻ khỏe mạnh, thời gian bán thải trung bình của thuốc trong huyết tương là 6 giờ, dao động từ 3 – 16 giờ. Độ thanh thải trung bình trong huyết tương ở những đối tượng này là 165 mL/phút với khoảng dao động từ 70 – 279 mL/phút. Ở bệnh nhân trên 70 tuổi, thời gian bán thải kéo dài đến 8 giờ.

Độc tính ở người

Quá liều

Không có báo cáo về các tác dụng phụ đáng kể trong các thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân nam dùng liều uống finasteride duy nhất lên đến 400 mg và nhiều liều finasteride lên đến 80 mg/ngày trong ba tháng. Vì không có trường hợp quá liều hoặc độc tính đáng kể về mặt lâm sàng nên không có khuyến cáo cụ thể trong trường hợp quá liều.

Các tác dụng phụ đáng kể

Các tác dụng phụ sinh sản thường gặp khi sử dụng finasteride bao gồm rối loạn cương dương, rối loạn chức năng phóng tinh và mất ham muốn tình dục. Tuy nhiên, các tác dụng phụ này có xu hướng biến mất sau khi ngừng sử dụng thuốc hoặc mãn tính. Trong đó, chỉ có tác dụng phụ nhân quả xảy ra ở hệ thống sinh sản nam giới do finasteride gây ra là giảm lượng xuất tinh vì tác dụng chủ yếu của DHT trên tuyến tiền liệt.

Đối tượng đặc biệt

Finasteride có thể được sử dụng an toàn cho bệnh nhân cao tuổi hoặc những người bị suy thận mà không có khuyến cáo hiệu chỉnh liều cụ thể. Đặc biệt, finasteride chỉ được chỉ định cho bệnh nhân nam và người ta khuyến cáo nên tránh tiếp xúc đối với phụ nữ mang thai nam vì có thể dẫn đến sự phát triển bất thường của cơ quan sinh dục ngoài ở thai nhi nam.

Tính an toàn

Trong một nghiên cứu trên chuột kéo dài trong vòng 24 tháng, không có dấu hiệu nào về khả năng gây khối u của finasteride.

Trong một nghiên cứu kéo dài 19 tháng về khả năng gây ung thư ở chuột CD-1, liều lượng cao của finasteride ở mức 1824 lần mức phơi nhiễm ở người (250 mg/kg/ ngày), gây ra sự gia tăng tỷ lệ u tuyến tế bào Leydig tinh hoàn và tăng mức LH huyết thanh.

Các thử nghiệm gây đột biến in vitro không tìm thấy bằng chứng về khả năng gây đột biến. Tuy nhiên, trong một thử nghiệm sai lệch nhiễm sắc thể in vitro sử dụng các tế bào buồng trứng của chuột đồng Trung Quốc, đã có sự gia tăng nhẹ về sai lệch nhiễm sắc thể với liều lượng finasteride rất cao.

Tương tác với thuốc khác

Không có tương tác thuốc quan trọng nào về lâm sàng được xác định.

Lưu ý khi sử dụng Finasteride

Cần theo dõi cẩn thận bệnh nhân có thể tích nước tiểu tồn dư lớn và/hoặc lưu lượng nước tiểu giảm nặng để tìm bệnh lý tắc nghẽn đường niệu.

Cần thực hiện khám trực tràng digital, cũng như các đánh giá khác để tìm ung thư tuyến tiền liệt ở những bệnh nhân BPH trước khi bắt đầu điều trị với finasteride 5mg và định kỳ sau đó.

Finasteride 5mg làm giảm nồng độ PSA trong huyết thanh vào khoảng 50% ở bệnh nhân bị BPH ngay cả khi có ung thư tuyến tiền liệt. Việc làm giảm nồng độ PSA trong huyết thanh ở bệnh nhân BPH cần được cân nhắc khi đánh giá dữ liệu PSA và không loại trừ sự có mặt của ung thư tuyến tiền liệt.

Bất cứ sự gia tăng nồng độ PSA nào kéo dài trên bệnh nhân được điều trị với finasteride cũng cần được đánh giá cẩn thận bao gồm cả đánh giá việc không tuân thủ điều trị.

Phần trăm PSA tự do (tỷ số PSA tự do trên tổng PSA) giảm không đáng kể đối với viên nén finasteride 5mg và duy trì không đổi. Khi sử dụng phần trăm PSA tự do như là một hỗ trợ cho việc phát hiện ung thư tuyến tiền liệt thì không cần thiết phải điều chỉnh.

Một vài nghiên cứu của Finasteride trong Y học

Đánh giá bằng hình ảnh toàn cầu về nam giới từ 18 đến 60 tuổi bị rụng tóc kiểu nam giới đang điều trị bằng thuốc Finasteride 1 mg hoặc giả dược

Cơ sở: Finasteride (1 mg) đã được chứng minh là làm tăng sự phát triển tóc ở đỉnh đầu ở nam giới từ 18 đến 60 tuổi bị rụng tóc kiểu nam và tăng sự phát triển của tóc trước trán ở các đối tượng từ 18 đến 41 tuổi.

Global photographic assessment of men aged 18 to 60 years with male pattern hair loss receiving finasteride 1 mg or placebo
Global photographic assessment of men aged 18 to 60 years with male pattern hair loss receiving finasteride 1 mg or placebo

Mục tiêu: Một phân tích hiệu quả thứ cấp được thực hiện để xác định tác động của Finasteride (1 mg) đối với sự phát triển của tóc trên da đầu ở 4 vùng da đầu riêng biệt bị ảnh hưởng bởi chứng rụng tóc kiểu nam giới.

Phương pháp: Nghiên cứu mù đôi, đa trung tâm đã chọn ngẫu nhiên những bệnh nhân bị rụng tóc ở đỉnh đầu (nam giới từ 18-41 tuổi và 41-60 tuổi) để dùng Finasteride (1 mg/ngày) hoặc giả dược. Hiệu quả được đánh giá bằng cách xem xét các hình ảnh lâm sàng tiêu chuẩn (đánh giá hình ảnh toàn cầu) về đỉnh, vùng da đầu trước/giữa, tóc trán và tóc thái dương trong 24 tháng so với ban đầu.

Kết quả: Khi được 24 tháng, điều trị bằng Finasteride cho kết quả tăng trưởng tóc (P ≤ 0,05) có ý nghĩa thống kê so với giả dược ở tất cả các vùng da đầu. Cũng có sự giảm đáng kể về rụng tóc ở những người trẻ tuổi được điều trị bằng Finasteride ở tất cả các vùng, nhưng chỉ ở các vùng da đỉnh đầu và da đầu trước/giữa ở những người lớn tuổi.

Tỷ lệ trải nghiệm bất lợi về tình dục liên quan đến thuốc cao hơn một chút được báo cáo ở nhóm Finasteride so với nhóm giả dược, không phân biệt tuổi tác.

Hạn chế: Những nghiên cứu này thu nhận những người đàn ông bị rụng tóc kiểu đỉnh, do đó những phát hiện có thể không ngoại suy cho những người đàn ông bị rụng tóc chủ yếu ở vùng trước/giữa, trán hoặc thái dương.

Kết luận: Dựa trên đánh giá chụp ảnh toàn cầu, Finasteride (1 mg) có thể làm tăng sự phát triển của tóc ở tất cả các vùng da đầu bị ảnh hưởng bởi chứng rụng tóc ở nam giới.

Tài liệu tham khảo

  1. 1. Drugbank, Finasteride, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2022.
  2. 2. Olsen, E. A., Whiting, D. A., Savin, R., Rodgers, A., Johnson-Levonas, A. O., Round, E., Rotonda, J., Kaufman, K. D., & Male Pattern Hair Loss Study Group (2012). Global photographic assessment of men aged 18 to 60 years with male pattern hair loss receiving finasteride 1 mg or placebo. Journal of the American Academy of Dermatology, 67(3), 379–386. https://doi.org/10.1016/j.jaad.2011.10.027
  3. 3. Pubchem, Finasteride, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2022.
  4. 4. Bộ Y Tế (2012), Dược thư quốc gia Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội
  5. Tasleem Arif*,2017, Dutasteride in Androgenetic Alopecia: An UpdateCurrent Clinical Pharmacology, volume 12 , Issue 1.
  6. Sato A, Takeda A. Evaluation of efficacy and safety of finasteride 1 mg in 3177 Japanese men with androgenetic alopecia. J Dermatol. 2012 Jan. 39(1):27-32.

Rối loạn bàng quang và tuyến tiền liệt

Finarid 5

Được xếp hạng 5.00 5 sao
204.000 đ
Sản phẩm này có nhiều biến thể. Các tùy chọn có thể được chọn trên trang sản phẩm
Dạng bào chế: Viên nén bao phimĐóng gói: Hộp 3 vỉ, 10 vỉ x 10 viên

Xuất xứ: Việt Nam

Hệ tiết niệu - sinh dục

Finiod Tab

Được xếp hạng 5.00 5 sao
1.035.000 đ
Dạng bào chế: Viên nénĐóng gói: Hộp 3 vỉ x 10 viên

Xuất xứ: Hàn Quốc