Nghệ (Uất Kim/Khương Hoàng)
Danh pháp
Tên khoa học
Curcuma sahuynhensis
Tính từ định danh sahuynhensis có nguồn gốc từ địa danh Sa Huỳnh, quê hương của tác giả thứ hai (Lý Ngọc Sâm), nơi loài này được thu thập lần đầu tiên
Vào năm 2015. cây được mô tả khoa học lần đầu tiên bởi Jana Leong-Škorničková và Lý Ngọc Sâm.
Mẫu định danh: Lý Ngọc Sâm, Phan Thế Cường, Lý-486; thu thập ngày 4 tháng 9 năm 2010 tại cao độ 183 m thuộc núi Đồng Đế, núi Đồng Vân, thôn Đồng Vân, xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ (nay là phường Phổ Thạnh, thị xã Đức Phổ), tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam
Tên tiếng Việt
Nghệ sa huỳnh, rau nghệ
Phân loại khoa học
Họ: Zingiberaceae (gừng).
Mô tả cây
Cây thảo thân rễ nhỏ, cao đến 0,8 m. Thân rễ hình trứng đến hình trứng hẹp, 1,5-4,0 × 0,5-1,0 cm, đôi khi với nhánh mỏng hướng xuống dưới, vỏ màu nâu nhạt, ruột màu trắng kem đến vàng nhạt, hơi thơm, củ rễ hình thoi, 2-6 × 0,8-1,8 cm, vỏ màu nâu nhạt, ruột màu trắng, vùi sâu xuống đất (cách thân rễ chính 8–15 cm).
Ca chồi lá có 1-2 lá vào lúc ra hoa, đến 10 lá trên cây trưởng thành sau thời kỳ ra hoa; thân giả dài 10-15(-20) cm, màu xanh lục, gồm các lá bắc bẹ và các bẹ lá; lá bắc bẹ 3-5, màu xanh lục, nhẵn nhụi hoặc thưa lông tơ, chuyển thành khô và dạng giấy theo tuổi; bẹ lá xanh lục, nhẵn nhụi; lưỡi bẹ dài đến 5 mm, 2 thùy, như thủy tinh, màu trắng ánh lục, trong mờ, nhẵn nhụi, mép thưa lông;
Cuống lá dài 2-20(-24) cm (cuống của lá thứ nhất ngắn nhất, của lá trong cùng dài nhất), có rãnh, màu xanh lục, nhẵn nhụi; phiến lá hơi không đều, hình trứng đến hình elip, 20-38 × 9-16(-18) cm (đo ở cây trưởng thành trong giai đoạn cuối của thời kỳ ra hoa), uốn nếp, mặt gần trục màu xanh lục tươi, mặt xa trục màu xanh lục nhạt, nhẵn nhụi nhưng thưa lông tơ dọc theo gân giữa và gần mép ở phần đỉnh của phiến lá; gân giữa màu xanh lục, nhẵn nhụi mặt trên, rất thưa lông tơ ở mặt dưới (lông chỉ hạn hẹp ở các bên của gân giữa); Gốc tù đến thuôn tròn, hơi lệch; đỉnh thon nhỏ dần thành nhọn thon, có lông tơ.
Cụm hoa bên, mọc cùng lúc với 1-2 lá đầu tiên; cuống dài 6–16 cm, đường kính đến 8 mm, màu xanh lục nhạt ở các phần lộ sáng, bọc trong 3-5 bẹ không lá, màu lục nhạt, nhẵn nhụi (chuyển thành khô và dạng giấy theo tuổi); cành hoa bông thóc dài đến 6–15 cm, đường kính 5–9 cm ở đoạn giữa, không có mào rõ rệt, gồm 10-23 lá bắc; lá bắc 3,0-5,5 × 1,5-4,0 cm, hình trứng rộng đến hẹp đến hình thoi (rộng hơn ở đáy, hẹp hơn ở đỉnh), màu ánh trắng đến xanh lục nhạt tại gốc với nhiều mức độ khác nhau của ánh hồng san hô hoặc đỏ, cả hai mặt nhẵn nhụi, hợp sinh ở 1/3-1/4 phần dưới, đỉnh nhọn đến nhọn hẹp, uốn ngược; xim hoa bọ cạp xoắn ốc với 3-5 hoa tại gốc cụm hoa, 1-2 hoa ở đỉnh; lá bắc con hình dùi, dài 1–5 mm, màu trắng nửa trong mờ, nhẵn nhụi, thường tiêu giảm hoàn toàn.
Hoa dài 3,5-5,5 cm, thò ra từ lá bắc; đài hoa dài 14–19 mm, 3 răng, có vết rạch một bên, 5–8 mm, nhẵn nhụi, nửa trong mờ, màu trắng hoặc ánh hồng; ống hoa dài 1,8-2,8 cm, hình trụ hẹp tại gốc trong khoảng 1,3-1,8 cm phía trên bầu nhụy, hình phễu tại đỉnh, bên ngoài màu trắng hoặc ánh hồng, có lông tơ (ít hơn ở phần đáy), bên trong màu trắng, chuyển thành vàng nhạt về phía phần đỉnh, rậm lông ở phần đỉnh, thưa lông về phần đáy, với rãnh lỏng lẻo ở mặt lưng giữ vòi nhụy; thùy tràng lưng 15-22 × 6–11 mm, hình trứng tam giác, lõm, màu trắng hoặc vàng nhạt với nhiều mức độ khác nhau của ánh hồng hoặc đỏ, nhẵn nhụi, đỉnh có mấu nhọn ~1 mm, thưa lông tơ; thùy tràng bên 15-20 × 6–9 mm, hình tam giác, đỉnh nhọn rộng đến tù, hơi lõm, màu trắng hoặc vàng nhạt với nhiều mức độ khác nhau của ánh hồng hoặc đỏ, nhẵn nhụi;
Cánh môi 15-23 × 12–18 mm, hơi hình trứng ngược, với vết khía dài 2–7 mm, gốc màu trắng kem, màu vàng nóng ở đỉnh với dải màu da cam-vàng tươi chạy qua tâm; nhị lép bên 15-22 × 10–14 mm, hình trứng không đều đến hình trứng ngược đếnh hình phỏng thoi, màu vàng nóng, nhạt hơn về phía gốc, phủ một lớp lông tuyến ngắn ở mặt gần trục.
Nhị dài 11–12 mm; chỉ nhị dài 4–5 mm, màu trắng kem đến vàng nhạt, rộng 3–4 mm ở gốc, 2,0-2,5 mm ở đỉnh (điểm gắn với mô liên kết), rậm lông tơ (lông tuyến); bao phấn hình chữ L (góc khoảng 110°-120°), có cựa; mô liên kết màu vàng nhạt đến vàng-cam nhạt, rậm lông tơ (lông tuyến), cựa bao phấn dài 3,5-5,0 mm, mập, song song với các đầu nhọn hơi rẽ ra, màu trắng kem đến vàng nhạt, mào bao phấn dài 0,3-1,0 mm (hầu như không đáng kể ở một số cây), đỉnh có khía răng cưa, màu vàng nhạt; bao phấn dài 6–7 mm, nứt dọc theo toàn bộ chiều dài; phấn hoa màu trắng.
Tuyến trên bầu 2, màu vàng kem, dài 4–6 mm, đường kính 0,6 mm, đỉnh tù.
Vòi nhụy màu trắng, nhẵn nhụi; đầu nhụy hình đầu, rộng 1 mm, màu trắng kem; lỗ nhỏ có lông rung ngắn hướng về phía trước.
Bầu nhụy 3-5 × 2–4 mm, 3 ngăn, màu trắng kem, thường nhẵn nhụi (hiếm khi thưa lông ở phần đỉnh).
Quả nang hình cầu 3 ngăn (với các ngăn phồng rõ nét ở quả chín), đường kính 11–15 mm, màu trắng, nhẵn nhụi; hạt hình trứng ngược không đều, 4-5 × 2–3 mm, màu nâu nhạt, bóng, bao trong áo hạt màu trắng mờ, xé rách.
Nhìn chung, Nghệ Sa huỳnh Curcuma sahuynhensis Škorničk. & N.S.Lý có đặc điểm hình thái giống với Nghệ hoa vàng (Curcuma xanthella Škorničk. & H.D. Trần), một loài mới phát hiện và mô tả năm 2013 ở Bình Thuận và Lâm Đồng, nhưng khác với loài Curcuma xanthella bởi có hình dạng và kích thước cụm hoa trên mặt đất lớn hơn (6 – 15 × 5 – 9 cm), mang 10 – 23 lá bắc với phần đầu lá bắc hiện rõ sắp xếp trên trục phát hoa kéo dài, kích thước hoa nhỏ hơn (dài 3,5 – 4,5 cm), cựa bao phấn to và ngắn hơn (4 mm), mào bao phấn dài hơn (6 – 7 mm), và vòi nhụy lép ngắn hơn (5 – 6 mm).
Sinh thái
Ra hoa tháng 8-10, tạo quả tháng 9-11. Kiểu ra hoa này tương ứng với thời điểm đầu mùa mưa ở miền Trung đến miền Bắc Việt Nam
Phân bố
Loài này có tại tỉnh Quảng Ngãi, miền trung Việt Nam.
Môi trường sống là rừng vùng đất thấp ven biển, trên đất sỏi đá bạc màu ở những bãi đất trống, các thảm cây bụi cũng như rừng trồng keo (Acacia); ở cao độ 100-1.100 m.
Bộ phận dùng
Hoa và chồi lá non
Thu hái, chế biến
Cây thường được thu hoạch làm một loại rau ăn ở địa phương.
Các cụm hoa và chồi lá non được mua bán ở chợ địa phương khi vào mùa và được dùng để làm rau luộc hoặc nấu canh
Người dân Sa huỳnh thu hái và chế biến Nghệ sa huỳnh thành món ăn,, thường là thường là món luộc hoặc xào.
Thành phần hóa học
Chưa được nghiên cứu
Tác dụng dược lý
Chưa được nghiên cứu.
Tính vị, tác dụng
Chưa được nghiên cứu
Công dụng và liều dùng
Chưa được nghiên cứu
Một số bài thuốc
Chưa được nghiên cứu
Những lưu ý khi sử dụng vị thuốc
Chưa được nghiên cứu
Tài liệu tham khảo
1. LEONG-ŠKORNIČKOVÁ, J. A. N. A., Lý, N. S., & Nguyễn, Q. B. (2015). Curcuma arida and C. sahuynhensis, two new species from subgenus Ecomata (Zingiberaceae) from Vietnam. Phytotaxa, 192(3), 181-189
2. Curcuma sahuynhensis trong Plants of the World Online. Truy cập ngày 04 tháng 5 năm 2022.
3 Tran H. D. & Leong-Škorničková J. (2019). “Curcuma sahuynhensis”. The IUCN Red List of Threatened Species. 2019. Truy cập ngày 04 tháng 5 năm 2022.
Xuất xứ: Mỹ
Xuất xứ: Israel
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Đài Loan
Xuất xứ: Canada
Xuất xứ: Canada
Xuất xứ: Hoa Kỳ
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Nhật Bản
Thuốc bổ xương khớp
Circulation Of Blood Strengthen Bones & Muscles (Hồi Sinh Tái Tạo Hoàn)
Xuất xứ: Malaysia
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Anh
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Pháp
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Anh Quốc