Húng Chanh (Tần Dày Lá)
Danh pháp
Tên khoa học
Plectranthus amboinicus (Lour.) Spreng (Họ Bạc hà – Lamiaceae)
Coleus aromaticus Benth. in Wall
Coleus crassifolius Benth.
Coleus amboinicus (Lour.)
Tên khác
Rau tần lá dày, rau thơm lông, dương tử tô
Nguồn gốc
Chi Coleus Lour bao gồm khoảng 200 loài, chúng phân bố rộng rãi ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên châu Á, châu Phi và một số hòn đảo trong Thái Bình Dương. Tại Việt Nam, chúng ta có 3 loài thuộc chi này.
Húng chanh, một loại cây, có nguồn gốc từ khu vực Đông Ấn Độ và quần đảo Moluques. Sau đó, nó đã trở thành cây phổ biến được trồng ở nhiều nước như Malaysia, Philippines, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam và Trung Quốc.
Ở Việt Nam, húng chanh đã tồn tại từ lâu đời và thường được trồng bởi cư dân địa phương. Tuy nhiên, nó chưa trở thành một cây trồng chính thống trong sản xuất nông nghiệp.
Húng chanh thích ánh sáng và độ ẩm, và đôi khi có thể chịu được thời kỳ hạn hán. Thậm chí, trên đất cát ở vùng ven biển miền Trung, trong mùa khô, cây vẫn có thể sinh trưởng và phát triển mạnh mẽ mà không cần tưới nước thường xuyên. Tuy nhiên, ở các tỉnh phía bắc, thường có sự rụng lá vào mùa đông và hiếm khi cây đạt giai đoạn hoa. Một điểm đáng chú ý là húng chanh cũng có khả năng tái sinh vô tính và khá mạnh mẽ trong điều kiện phù hợp.
Đặc điểm thực vật
Húng chanh, một loài cây thảo có đặc điểm độc đáo, thường sống lâu năm và có chiều cao dao động từ 20 đến 50 cm. Thân cây có thể mọc thẳng hoặc uốn cong và gần gốc cây, nó có khả năng chuyển đổi thành phần gỗ ở phần gốc.
Lá của húng chanh mọc đối diện nhau, có độ dày và sự mọng nước đáng kể. Chúng có hình dạng trứng rộng, với gốc có hình nêm và đầu lá có thể nhọn hoặc tù. Chiều dài của lá dao động từ 3 đến 6 cm, còn chiều rộng thì từ 2 đến 5 cm, và mép lá thường có những khía răng tròn.
Cụm hoa của cây mọc ở đỉnh thân và đầu cành, tạo thành một bông hoa dày đặc, với các vòng hoa được sắp xếp rất sít nhau. Các bông hoa nhỏ có màu tím hồng đặc trưng. Đài hoa có hình dạng chuông ngắn và được bao phủ bởi lông, có 5 răng, với răng ở phía trên có hình dạng trứng rộng hơn so với răng ở phía dưới và răng ở phía bên.
Tràng hoa có dạng ống hình phễu, bên ngoài có lớp lông, trong nhẵn và được chia thành môi dưới dài bằng ống tràng và môi trên ngắn, có 3 thùy. Thùy ở phía trên thường rộng hơn, trong khi hai thùy bên có hình dạng giống mũi mác. Cây có 4 nhị thò ra ngoài tràng.
Quả của húng chanh nhỏ, hình cầu và có màu nâu. Toàn bộ cây được phủ bởi một lớp lông rất nhỏ và có một mùi thơm đặc trưng giống như mùi của chanh. Cây thường bắt đầu nở hoa và cho quả vào khoảng tháng 3 đến tháng 5.
Thu hái – Chế biến
Cách chế biến cây húng chanh: Trong quá trình thu hái húng chanh, thường chỉ có lá bánh tẻ và lá phía ngọn được thu hoạch, để đảm bảo rằng cây có thể tiếp tục sinh trưởng. Lá này thường được sử dụng trong tình trạng tươi.
Thành phần hóa học
Lá của cây húng chanh chứa một loại tinh dầu quan trọng, trong đó thành phần chính có thể thay đổi tùy theo nguồn gốc và điều kiện môi trường. Theo nghiên cứu của Malik M. Shafiq và đồng nghiệp, carvacrol chiếm 40,40% của tinh dầu húng chanh, trong khi nghiên cứu của Bos R và nhóm nghiên cứu (năm 1983) ghi nhận một tỷ lệ là 60.12%, và Pino J và đồng nghiệp (năm 1995) cho thấy tỷ lệ carvacrol là 64%. Tuy nhiên, cũng có các tác giả khác cho rằng thành phần chính trong tinh dầu là Thymol, với tỷ lệ 41,30%.
Ngoài ra, lá húng chanh mọc tại Phnom Penh (Campuchia) chứa khoảng 0,03% tinh dầu, trong đó carvacrol chiếm 61.45%, y-Terpinen là 9.91%, và a-terpinen chiếm 8.03%. Trong khi đó, lá húng chanh ở Hà Nội chứa từ 0,002 đến 0,003% tinh dầu, trong đó có carvacrol (39.5%), y-terpinen (19.0%), và a-terpinen (16.8%). Điều này thể hiện sự biến đổi trong thành phần hóa học của cây tùy theo vùng địa lý mà nó mọc.
Tác dụng dược lý
Tác dụng của cây húng chanh: Tinh dầu húng chanh đã được kiểm tra bằng phương pháp khuếch tán trong môi trường đặc biệt và pha loãng để xác định mức độ ức chế tối thiểu. Tinh dầu này thể hiện khả năng ức chế mạnh mẽ đối với nhiều loại vi khuẩn, với mức độ ức chế tối thiểu tương ứng như sau:
- Trực khuẩn mycoides (1:1000)
- Trực khuẩn subtilis (1:1000)
- Trực khuẩn lao (giảm độc) (1:1000)
- Trực khuẩn lỵ Flexner (1:1000)
- Tụ cầu khuẩn vàng (1:1000)
- Trực khuẩn lỵ Shiga (1:500)
- Liên cầu khuẩn tan máu (1:500)
- Trực khuẩn thương hàn (1:500)
- Phế cầu khuẩn (1:500)
- Nấm Candida albicans (1:500)
Ngoài ra, tinh dầu húng chanh cũng có khả năng tiêu diệt amip Entamoeba moskovskii nuôi cấy trong môi trường lỏng, với nồng độ ức chế tối thiểu là 1:1280.
Hơn nữa, tinh dầu húng chanh cũng có khả năng ức chế trực khuẩn coli, liên cầu khuẩn, trực khuẩn bạch hầu và trực khuẩn ho gà.
Cao nước húng chanh (được kiểm tra bằng phương pháp khuếch tán trên môi trường đặc biệt) cũng có tác dụng ức chế sự phát triển của phế cầu khuẩn và tụ cầu khuẩn vàng. Điều này cho thấy tác dụng kháng khuẩn của húng chanh không chỉ phụ thuộc vào tinh dầu mà còn có thể do các thành phần khác có trong cao nước như flavon, acid hữu cơ, tanin, vì lượng tinh dầu trong cao nước có mức độ thấp.
Húng chanh cũng có tác dụng ức chế hoạt động co thắt cơ trơn ruột cô lập của histamin và acetylcholin.
Tinh dầu húng chanh đã được thử nghiệm bằng phương pháp khuếch tán trong môi trường đặc biệt và đã thể hiện khả năng ức chế sự phát triển của các chủng phẩy khuẩn tả Inaba và Ogawa.
Tính vị – Quy kinh
Vị the cay, hơi chua, mùi thơm, tính ấm và 2 kinh can và phế
Công năng – Chủ trị
Lá húng chanh có vị the cay và hơi chua, mang mùi thơm đặc trưng, tính ấm, và thuộc vào hai kinh can và phế trong hệ thống dược lý cổ truyền. Đặc điểm này làm cho lá húng chanh có nhiều tác dụng quý báu trong việc hỗ trợ sức đề kháng, giúp trừ đờm, giải cảm, phát hãn, thoái nhiệt, và tiêu độc cho cơ thể.
Lá húng chanh trị ho cho người lớn thường được sử dụng trong việc điều trị các bệnh như cảm cúm, ho, hen, viêm họng, ho ra máu, sốt cao, và cả trường hợp sốt không ra mồ hôi được, nôn ra máu, hoặc chảy máu cam.
Phương pháp sử dụng thường bao gồm sử dụng lá tươi với liều lượng khoảng 10 – 16g mỗi ngày, dưới dạng thuốc sắc, xông hoặc giã nát để lấy nước uống. Trong phương pháp xông, lá húng chanh thường kết hợp với nhiều loại lá khác có tinh dầu như sả, hương nhu, hoắc hương, và nhiều loại khác. Ngoài ra, lá tươi húng chanh cũng có thể được giã nát và đắp lên vết thương để chữa trị rết và cắn của bọ cạp.
Ở Ấn Độ, lá húng chanh thường được sử dụng để điều trị các bệnh về tiết niệu. Nước ép từ lá húng chanh khi trộn với đường tạo thành một loại thuốc gây trung tiện mạnh. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong một số tình huống, húng chanh có thể có tác dụng độc hại. Nước sắc từ lá húng chanh cũng được sử dụng để chữa trị các bệnh ho và hen mãn tính.
Bảo quản
Phơi khô dược liệu húng chanh dưới ánh nắng mặt trời hoặc trong lò sấy ở nhiệt độ 40-50 độ C cho đến khi lá héo và khô ráo. Đóng gói dược liệu húng chanh vào túi nilon kín hoặc hộp thủy tinh có nắp đậy chặt. Có thể thêm một ít gạo vào để hút ẩm và ngăn mốc. Bảo quản dược liệu Húng chanh ở nơi khô ráo, thoáng mát, tránh ánh sáng trực tiếp và nhiệt độ cao.
Một số bài thuốc
Cây húng chanh trị ho, viêm họng, khản tiếng:
- Cách 1: Lá húng chanh tươi được nhai và ngậm cùng với muối, sau đó nuốt nước dần dần.
- Cách 2: Lấy 20g lá tươi, giã nhỏ và thêm nước để tạo thành nước gạn, uống nước này thành hai lần trong ngày.
- Đối với trẻ nhỏ, lá tươi được rửa sạch, giã nhỏ và kết hợp với một ít đường, sau đó đem hấp cơm và cho trẻ uống thành 2 – 3 lần trong ngày.
Cách sử dụng lá húng chanh chữa ho gà:
- Kết hợp các thành phần sau: Húng chanh 10g, mạch môn 12g, vỏ rễ dâu 12g, bách bộ 10g, rau sam 10g.
- Chế thành nước sắc và uống hàng ngày, duy trì trong khoảng 15 – 30 ngày. Hoặc có thể chế thành siro, uống 3 lần mỗi ngày, mỗi lần một thìa canh.
- Liều lượng cho trẻ em giảm xuống 1/2 so với người lớn.
Chữa cảm mạo do lạnh:
- Kết hợp các thành phần bao gồm húng chanh 10g, bách bộ 12g, tía tô 12g, xạ can 10g, gừng 8g, trần bì 8g, và bạch chỉ 6g.
- Sắc uống nước sắc này hàng ngày và duy trì tiếp tục trong 5 ngày liên tiếp.
Tài liệu tham khảo
- Đỗ Huy Bích (2006), Húng chanh, Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tập 1, trang 1009.
- Đỗ Tất Lợi (2006), Húng chanh, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội, trang 708.
- Phạm Hoàng Hộ (1999), Húng chanh, Cây cỏ Việt Nam, NXB Trẻ, Hà Nội, tập 2, trang 854.
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Tiêu chuẩn cơ sở
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam