Các yếu tố gây nhiễu ảnh hưởng đến chất lượng xét nghiệm

Xuất bản: UTC +7

Cập nhật lần cuối: UTC +7

Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Nhà thuốc Ngọc Anh – Một vài khía cạnh của quy trình xét nghiệm nằm ngoài khả năng kiểm soát của phòng xét nghiệm. Đây có thể là các khác biệt do biến thiên sinh học, lỗi hệ thống hoặc các yếu tố gây nhiễu ảnh hưởng đến chất lượng xét nghiệm.

Đảm bảo chất lượng xét nghiệm là một lĩnh vực đang rất được quan tâm trong thực hành hóa sinh lâm sàng. Yêu cầu và thách thức đặt ra cho tất cả các phòng xét nghiệm là việc thiết lập một hệ thống quản lý chất lượng bền vững, đảm bảo kết quả xét nghiệm chính xác, tin cậy và kịp thời. Tuy nhiên có rất nhiều yếu tố có thể dẫn đến kết quả xét nghiệm không chính xác, đó gọi là các lỗi trong xét nghiệm. Như các bài viết đã đề cập trước đó, có 3 giai đoạn xét nghiệm bao gồm: giai đoạn trước, trong và sau xét nghiệm. Chỉ có khoảng 13.3% tổng số lỗi là thuộc giai đoạn xét nghiệm (analytical phase), và nguyên nhân thường là do các yếu tố gây nhiễu hoặc các phương pháp phân tích có độ nhạy thấp.

Một vài khía cạnh của quy trình xét nghiệm nằm ngoài khả năng kiểm soát của phòng xét nghiệm. Đây có thể là các khác biệt do biến thiên sinh học, lỗi hệ thống hoặc các yếu tố gây nhiễu.

Kroll và Elin đã định nghĩa yếu tố gây nhiễu là “ảnh hưởng của các chất có mặt trong mẫu làm thay đổi giá trị kết quả”.

Yếu tố gây nhiễu do tan huyết

Tan huyết (hay tan máu) được định nghĩa là hiện tượng giải phóng các thành phần từ hồng cầu và các tế bào máu khác vào trong dịch ngoại bào và có thể gây ra do nhiều cơ chế khác nhau.

Tan huyết thường xảy ra trong ống nghiệm do nguyên nhân quá trình lấy mẫu không đúng. Thậm chí, nhiều trường hợp tan huyết không phát hiện được bằng mắt thường nhưng thực tế các thành phần trong tế bào cũng đã được giải phóng vào trong huyết thanh/huyết tương.

Hậu quả của mẫu bị tan huyết:

Một vài thành phần tế bào có nồng độ trong tế bào cao gấp khoảng 10 lần so với nồng độ ngoài tế bào. Khi tan huyết xảy ra làm tăng nồng độ của những chất này (ví dụ nồng độ K+, và hoạt độ các enzyme như LDH, AST, ALT).

Tan huyết còn ảnh hưởng đến độ hấp thụ quang của các xét nghiệm khác. Hemoglobin hấp thụ ánh sáng rất mạnh ở vùng bước sóng 415nm. Ảnh hưởng của tan huyết trên nhiều xét nghiệm trên lâm sàng được nghiên cứu kỹ lưỡng. Việc tăng hay giảm kết quả của các xét nghiệm do tan huyết còn phụ thuộc vào phương pháp và nồng độ các chất phân tích.

Thành phần của các tế bào máu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến phép đo các chất phân tích. Adenylat kinase giải phóng từ hồng cầu có thể làm tăng hoạt độ CK và CK-MB. Hemoglobin ức chế phản ứng Diazo trong định lượng Bilirubin. Protease giải phóng từ tế bào máu làm giảm hoạt động của các yếu tố đông máu và sự hình thành các sản phẩm fibrin có thể tăng lên.

Hemoglobin có thể phản ứng với một hoặc nhiều thành phần của thuốc thử, sự ảnh hưởng khác nhau giữa các thuốc thử khác nhau.

Nhiều xét nghiệm có thể bị ảnh hưởng bởi chính thành phần ở trong mẫu. Một vài thành phần gây nhiễu có thể phát hiện được nhờ xuất hiện các màu sắc bất thường trong mẫu (tan máu, huyết thanh vàng và đục) nhưng các yếu tố khác (như các loại thuốc) là yêu cầu các thông tin chi tiết hơn hoặc phân tích trực tiếp. Các yếu tố ảnh hưởng trong phương pháp phân tích có thể gây ra sai kết quả.

Thái độ xử trí của phòng xét nghiệm:

Từ chối những mẫu bệnh phẩm bị tan huyết do ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm.

Cách khắc phục:

– Phát hiện mẫu bệnh phẩm tan huyết, điều dưỡng cần lấy lại mẫu bệnh phẩm đạt tiêu chuẩn.

– Xem xét, đào tạo lại quy trình lấy mẫu máu và xử lý mẫu để tránh xảy ra tình trạng mẫu bị tan huyết.

Yếu tố gây nhiễu do huyết thanh vàng

Nồng độ bilirubin tăng là nguồn gốc của các yếu tố gây nhiễu ngoại bào. Hiện tượng này có thể gặp ở trong các trường hợp như các bệnh lý gan cấp và mãn, xơ gan mật, nghiện rượu hoặc là các đáp ứng sinh lý với nhiều thuốc, dược chất.

Ảnh hưởng tới độ hấp thụ quang

Bilirubin hấp thụ mạnh ở bước sóng 340-500nm và độ hấp thụ nền cao có thể dẫn tới kết quả độ hấp thụ vượt quá đường tuyến tính các phương pháp đo quang khác.

Bilirubin có thể hoạt động như một cơ chất có tính khử và dễ dàng bị oxy hóa thành biliverdin và bilipurpurin bằng việc giảm độ hấp thụ. Các xét nghiệm sử dụng oxidase hoặc peroxidase để tạo ra H2O2, có thể bị giảm kết quả do bilirubin phản ứng với H2O2 tạo thành trong hệ thống xét nghiệm. Sự giảm của H2O2 tương quan với nồng độ bilirubin. Tình trạng này ảnh hưởng tới kết quả các xét nghiệm glucose, cholesterol, triglycerid và acid uric. Trong xét nghiệm albumin cần gắn chất màu, bilirubin có thể cạnh tanh gắn vào chất màu và làm giảm nồng độ albumin.

Thái độ xử trí của phòng xét nghiệm

Hiện nay đa số các phòng xét nghiệm không từ chối các mẫu huyết tương có nồng độ bilirubin cao, nhưng có thể cảnh báo cho bác sỹ lâm sàng về tình trạng này có thể gây ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm.

Thái độ xử trí của Bác sĩ lâm sàng

Cần xem xét cảnh báo của phòng xét nghiệm hoặc xem xét kết quả nồng độ Bilirubin để xác định những kết quả xét nghiệm có thể bị ảnh hưởng. Từ đó bác sỹ có thái độ phiên giải kết quả xét nghiệm phù hợp hơn.

Yếu tố gây nhiễu do huyết tương đục

Huyết tương đục (HTĐ) là hiện tượng có thể quan sát bằng mắt thường. Nguyên nhân thường gặp nhất gây ra huyết tương đục là do tăng Triglycerid. Các mẫu huyết tương đục không thể tránh do tăng nồng độ lipid thường gặp trong các tình trạng bệnh lý nguyên phát hay thứ phát như: đái tháo đường, sử dụng rượu, suy thận mạn, viêm tụy cấp….

Huyết tương đục gây nhiễu kết quả xét nghiệm có đặc điểm khác với tình trạng tan máu và huyết thanh vàng. HTĐ phân tán ánh sáng và hấp thụ ánh sáng truyền qua hỗn hợp phản ứng. Trong HTĐ có 1 số thành phần lipid có thể phân tán ánh sáng tạo ra tình trạng huyết tương sánh như sữa hoặc đục. Mức độ phân tán ánh sáng phụ thuộc vào số lượng, kích thước và tỷ lệ của các hạt lipid. Ở độ đục cao, các xét nghiệm đều bị ảnh hưởng.

Chất hòa tan trong lipid có thể không phản ứng được với thuốc thử trong tình trạng huyết tương đục. Tương tự, điện di và sắc ký cũng có thể bị ảnh hưởng do sự có mặt của các loại lipoprotein trong chất nền.

Thái độ xử trí của phòng xét nghiệm

Hiện nay đa số các phòng xét nghiệm không từ chối các mẫu huyết tương có nồng độ lipid cao hoặc huyết tương đục. Tuy nhiên kết quả xét nghiệm được đính kèm cảnh báo cho bác sỹ lâm sàng về tình trạng này có thể gây ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm.

Thái độ xử trí của Bác sĩ lâm sàng

Cần xem xét cảnh báo của phòng xét nghiệm hoặc xem xét kết quả nồng độ Triglycerid hoặc mức độ đục của mẫu để xác định những kết quả xét nghiệm có thể bị ảnh hưởng. Từ đó bác sĩ lâm sàng có thái độ phiên giải kết quả xét nghiệm phù hợp hơn.

Cách xác định các yếu tố gây nhiễu của mẫu

Hiện nay, ở các phòng xét nghiệm, có một số cách thức để xác định độ đục của mẫu như xác định bằng mắt thường và sử dụng nồng độ Triglycerid. Với cách thức sử dụng mắt để phân biệt, thường sử dụng ở những phòng xét nghiệm có số lượng mẫu nhỏ. Lipid máu tăng có thể phát hiện bằng mắt thường khi nồng độ Triglycerid trên 3.4 mmol/L. Tuy nhiên, rất khó phân biệt bằng mắt thường những mẫu máu toàn phần và thực sự đây là công việc vất vả nếu số lượng mẫu lớn.

Một số phòng xét nghiệm sử dụng nồng độ Triglycerid được định lượng để đánh giá mức độ đục do lipid. Tuy nhiên cách thức này cũng gặp phải một số vấn đề.Tỷ lệ Triglycerid rất thay đổi giữa các loại lipoprotein, từ 50% ở VLDL đến 85-90% ở Chylomicron. Do đó, mức độ đục không tỷ lệ thuận với nồng độ Triglycerid. Ngoài ra, có một số trường hợp khi định lượng Triglycerid có thể có tăng Triglycerid giả tạo do việc tích tụ glycerol trong và ngoài tế bào. Speeckaert MM và cs đã báo cáo trường hợp bệnh nhân có nồng độ Triglycerid cao (11.3 mmol/L) nhưng có chỉ số L rất thấp.

Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Với các yếu tố nhiễu do tan huyết hoặc huyết tương vàng, đa phần các phòng xét nghiệm quan sát bằng mắt thường để cảnh báo hoặc từ chối mẫu bệnh phẩm.

Hiện nay, có xét nghiệm chỉ số huyết thanh (Serum Index – SI) thực hiện trên hệ thống tự động có thể cho kết quả nhanh và chính xác ba thông số: chỉ số L, chỉ số I và chỉ số H. Nguyên lý: dựa trên việc tính toán độ hấp thụ cuả các mẫu được pha loãng ở các cặp đôi bước sóng khác nhau để cung cấp một cách bán định lượng nồng độ lipid máu, tan máu và bilirubin trong huyết thanh hoặc huyết tương. Áp dụng chỉ số SI trong đánh giá chất lượng mẫu giúp phòng xét nghiệm có thể đánh giá chất lượng mẫu một cách khách quan, chính xác, nhanh chóng, giá thành rẻ. Từ đó giúp giảm thời gian trả kết quả và đưa ra cảnh báo lâm sàng đối với những trường hợp kết quả L, I, H ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm.

Tài liệu tham khảo

Factors influencing pharmacist performance: A review of the peer-reviewed literature, ScienceDirect, truy cập ngày 2/11/2021.

Xem thêm: SUY TUYẾN GIÁP BẨM SINH TIÊN PHÁT (Sporadic congenital hypothyroidism)

Trả lời (Quy định duyệt bình luận)

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

The maximum upload file size: 1 MB. Bạn chỉ được tải lên hình ảnh định dạng: .jpg, .png, .gif Drop file here