Nâng thái dương bằng chất làm đầy: Kỹ thuật tiêm và các biến chứng

Xuất bản: UTC +7

Cập nhật lần cuối: UTC +7

Nâng thái dương bằng chất làm đầy: Kỹ thuật tiêm và các biến chứng

Tác giả: Kyle K. Seo

nhathuocngocanh.com – Bài viết Nâng thái dương bằng chất làm đầy: Kỹ thuật tiêm và các biến chứng được trích trong chương 4 trong sách Căng Da Mặt Với Chất Làm Đầy.

Mức độ khó: A

Hiệu quả: A

Biến chứng: B

Tóm tắt 1: Tiêm chất làm đầy HA trực tiếp lên màng xương sâu đến cơ thái dương bằng kim nhọn 21 – G với kỹ thuật tiêm bolus mà không cần rút kim.

Tóm tắt 2: Cần chú ý vùng thái dương nhiều mạch máu để tránh bị bầm tím, tắc mạch. Chọc hút trước khi tiêm là điều kiện tiên quyết khi tiêm bằng kim.

Tóm tắt 3: Để đạt được hình dạng khuôn mặt trái xoan lý tưởng bằng cách làm tròn các gò má cao, chất làm đầy HA nên được tiêm vào phần bên của hõm thái dương. Để giảm bớt sự nổi bật của bờ ổ mắt, nên nâng ở các vùng giữa và vùng trên của hõm thái dương.

Thái dương bị lõm có thể là do bẩm sinh hoặc do mất thể tích vùng thái dương khi lão hóa hoặc giảm cân. Thái dương lõm làm nổi rõ gò má và cung mày liền kề, khiến đường nét khuôn mặt thô cứng và khiến khuôn mặt nghiêm nghị, khắc khổ và già nua. Về vấn đề này, nâng thái dương không chỉ giúp làm khuôn mặt trái xoan hơn bằng cách che bớt sự nổi bật của gò má bên mà còn giúp tạo ra một diện mạo mềm mại hơn, thư thái hơn bằng cách làm phẳng phần nhô ra bờ ổ mắt (Hình 1.4 và Hình 4.9 ).

Cân nhắc về giải phẫu nâng thái dương

Hõm thái dương là vị trí mà phía trên là đường thái dương trên, phía dưới là cung gò má, ở giữa cung mày và vùng chuyển tiếp lên trán của gò má, và ở phía ngoài là đỉnh thái dương hoặc đường chân tóc xuống tóc mai. Các lớp mô mềm của vùng thái dương từ ngoài vào trong bao gồm da – lớp dưới da – lớp cơ thái dương nông – lớp nông của lớp đệm mỡ cân cơ thái dương sâu – lớp sâu của lớp cơ thái dương sâu-lớp mở rộng của cơ đệm mỡ vùng thái dương- xương thái dương [1]. Vùng thái dương có nhiều mạch máu, do đó phải hết sức cảnh giác để tránh bị bầm tím nhiều do chấn thương mạch hoặc tắc mạch do tiêm chất làm đầy nội mạch. Các mạch có nguy cơ bao gồm các mạch sentinel nằm ở bên bờ ổ mắt, tĩnh mạch và động mạch thái dương nông,tĩnh mạch thái dương giữa, và tĩnh mạch và động mạch thái dương sâu (Hình 4.10).

Tĩnh mạch sentinel nằm ở bên mắt và lông mày, có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Do đó, cần quan sát cẩn thận trong quá trình tiêm để tránh làm vỡ tĩnh mạch này vì nó có thể dẫn đến bầm tím nghiêm trọng. Động mạch thái dương nông chạy giữa cân thái dương nông và sâu và chia thành nhánh trán và nhánh đỉnh nằm lần lượt ở phía trên 37mm và phía trong 18mm so với gờ loa tai [7]. Nhánh trán của động mạch thái dương nông chếch xiên hướng lên trên vào trong về phía một điểm nằm cao hơn lông mày 2cm trên đường thẳng đứng khóe mắt ngoài (Hình 4.11). Mạch thái dương giữa là một nhánh của mạch thái dương nông nằm sâu đến cân thái dương sâu và chạy phía trước tai về phía bờ ổ mắt, ở trên khoảng 2cm hoặc một đốt ngón tay và song song với bờ trên của cung gò má (Hình 4.12). Sự phân nhánh động mạch thái dương sâu từ động mạch hàm trên tạo ra nhiều nhánh nhỏ nằm trong cơ thái dương, đi lên về phía bề mặt cơ (Hình 4.10).

Hình 4.9 (a, c, e, g) Trước và (b, d, f, h) sau khi nâng thái dương. Hình 4.9 (a, c, e, g) Trước và (b, d, f, h) sau khi nâng thái dương.

Tóm lại, về lâm sàng, các mạch liên quan cần tránh trong quá trình nâng thái dương là tĩnh mạch sentinel khi lấp đầy vùng giữa của hõm thái dương, tĩnh mạch thái dương trong khi điều trị vùng dưới, động mạch thái dương sâu khi điều trị vùng sâu hơn, và động mạch thái dương nông khi lấp đầy vùng trên của thái dương. Trong khi tĩnh mạch sentinel có thể dễ dàng quan sát bằng mắt thường, các mạch khác là cấu trúc sâu không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Đảm bảo thực hiện tiêm chất làm đầy HA vào màng xương một cách chậm rãi để tránh vô tình đâm vào các mạch này. Việc chọc hút trước mỗi lần tiêm phải được thực hiện như một lẽ đương nhiên để giảm thiểu nguy cơ tiêm chất làm đầy nội mạch (Hình 3.6).

Hình 4.10 Sự phân bố động mạch trong thái dương. Hình 4.10 Sự phân bố động mạch trong thái dương. Hình. 4.11 Động mạch thái dương nông. Hình. 4.11 Động mạch thái dương nông. Hình. 4.12 Tĩnh mạch thái dương trong. Hình. 4.12 Tĩnh mạch thái dương trong.

Đánh giá trước điều trị nâng thái dương

Trước tiên, cần phải đánh giá vị trí thâm hụt thể tích và mức độ nghiêm trọng trong hõm thái dương. Ngoài ra, phải thiết lập mục tiêu thẩm mỹ chủ quan của bệnh nhân đối với việc điều trị trong quá trình tư vấn vì vị trí và thể tích tiêm thực tế khác nhau tùy thuộc vào chỉ định tương ứng. Xác nhận với bệnh nhân xem họ muốn khuôn mặt trái xoan bằng cách cân bằng gò má cao, hay là muốn tạo ấn tượng nhẹ nhàng hơn bằng cách làm đường chuyển tiếp sang bờ ổ mắt mềm mại hơn. Đặc biệt, phải xem xét sự khác biệt về sắc tộc trong các tiêu chuẩn thẩm mỹ khuôn mặt. Ví dụ, thái dương đầy được coi là một đặc điểm phúc hậu và hiền lành của phụ nữ Trung Quốc vì theo nhân tướng học truyền thống Trung Quốc, nó được cho là tướng vượng phu. Theo đó, khi điều trị cho một bệnh nhân nữ Trung Quốc, nên làm đầy toàn bộ hoặc nâng cao toàn bộ hõm thái dương. Mặt khác, thái dương hơi lõm một chút được coi là một đặc điểm mong muốn ở người da trắng, vì nó làm nổi bật và hoàn thiện đường cong Ogee được coi là yếu tố hấp dẫn trên khuôn mặt ở người da trắng (Hình 4.13). Đồng thời, hõm thái dương ở nam giới cần làm đầy ít hơn ở nữ giới vì đường nét khuôn mặt hơi góc cạnh là một đặc điểm nam tính giúp khuôn mặt thêm phần mạnh mẽ và lôi cuốn.

Hình 4.13 Đường cong Ogee Hình 4.13 Đường cong Ogee

Kỹ thuật tiêm chất làm đầy nâng thái dương

Như đã lưu ý trước đó, vùng tiêm đích trong hõm thái dương khác nhau tùy theo chỉ định cụ thể. Để tạo hình trái xoan cho khuôn mặt bằng cách làm nổi bật của gò má bên, chất làm đầy HA được đặt vào phần bên của hõm thái dương. Để làm mềm mại bờ ổ mắt, nâng ở các vùng giữa và trên của hõm thái dương. Hõm thái dương giữa và hõm thái dương trên cũng là khu vực đích khi tiến hành nâng thái dương kết hợp với nâng trán để có được sự chuyển tiếp mượt mà giữa các cấu trúc liên quan.

Đáng chú ý, vùng thái dương là vùng mà tôi thích sử dụng kim khi thực hiện nâng thể tích bằng chất làm đầy HA. Điều này là do ống thông có đầu cùn không có khả năng xuyên qua lớp màng dày của cân thái dương nông và sâu bên dưới. Mặt khác, việc tiêm sâu ngay vào màng xương bằng kim nhọn cho phép điều chỉnh nhanh chóng và dễ dàng sự thiếu hụt thể tích mà không để lại bất kỳ bất thường nào trên bề mặt. Vì lý do này, ngay cả những người mới cũng có thể thực hiện quy trình này chỉ cần tuân theo một số biện pháp phòng ngừa nhất định. Các biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn bao gồm lựa chọn các điểm vào kim cẩn thận để tránh bị bầm tím, chọc hút trước mỗi lần tiêm và ấn mạnh vùng điều trị trong 3 phút sau thủ tục để ngăn ngừa tỷ lệ hình thành máu tụ. Sử dụng kim dài 21-G để tiêm vào thái dương. Vị trí và hướng đi vào và tiến của kim khác nhau tùy thuộc vào chỉ định liên quan.

Cụ thể, để tạo sự chuyển tiếp sang bờ ổ mắt mượt mà hơn, kim phải được đưa sâu vào một điểm phía sau vùng chuyển tiếp lên trán của gò má 1 cm và cao hơn cung gò má 1 cm, và tiến dần lên trên vào trong đến các phần giữa và trên của hõm thái dương (Hình 4.14a).

Để đạt được hình dạng khuôn mặt hình trái xoan bằng cách cân bằng gò má cao, kim được đưa sâu qua điểm vào ở phía sau vùng chuyển tiếp lên trán của gò má 3 cm và phía trên cung gò má 1 cm và tiến dần lên trên sang bên để lấp đầy sự thiếu hụt ở vùng bên của hõm thái dương (Hình 4.14b). Vị trí để nâng bổ sung là bên trên cung gò má, một điểm vào ở phía sau vùng chuyển tiếp lên trán của gò má 2,5 cm và phía trên cung gò má 1 cm để thực hiện tiêm sâu ra sau (Hình 4.14c).

Kim phải được cắm theo phương tiếp tuyến với da ở góc 30- 45° với một góc xiên hướng xuống cho đến khi nó chạm đến xương. Khi đầu kim chạm vào xương, chọc hút trước khi tiêm 1 mL chất làm đầy HA ngay trên xương mà không cần rút kim (Hình 4.14d). Không giống như kỹ thuật phân luồng ngược thường được sử dụng trong các phương pháp điều trị nâng bằng chất làm đầy HA với chất làm đầy được lắng đọng trong khi rút kim ra, ở đây, tiêm bo-lus một lượng đầy đủ 1 mL vào điểm thâm hụt thể tích đáng kể nhất. Lượng chất làm đầy HA sẽ tự khuếch tán đồng đều đến các vùng lân cận với tính chất như nước nhờ sự bao bọc chặt chẽ hoặc lực cản do các cấu trúc bên dưới của cơ thái dương hoặc cân thái dương sâu. Trong trường hợp 1 mL không đủ để đạt được kết quả dự kiến, có thể tiêm thêm vào hoặc xung quanh vị trí tiêm. Bất kỳ cục u hoặc vết sưng nhỏ nào do chất làm đầy HA được tiêm vào đều có thể dễ dàng được xoa bóp và hòa trộn.

Về thể tích tiêm, 1–2 mL chất làm đầy HA thường được phân bổ cho mỗi vị trí, tùy thuộc vào chỉ định. Mặc dù thường tiêm 1–4 mL cho mỗi bên, nhưng thể tích có thể lên tới 5–6 mL cho mỗi bên ở những bệnh nhân bị lõm thái dương nặng.

Bảng 4.2 Tóm tắt kỹ thuật tiêm nâng thái dương

Mục Nội dung
Kim và ống thông Kim 21-G (Chọc hút là điều kiện tiên quyết trước khi tiêm).
Lựa chọn chất làm đầy HA Một pha hoặc hai pha với sức nâng tốt.
Lượng chất làm đầy HA 1 – 4 mL mỗi bên.
Độ sâu tiêm Mức độ trên màng xương hoặc cơ sâu.
Vị trí điểm vào kim
  • Phần giữa: phía sau phần chuyển tiếp lên trán của xương gò má 1 cm và bên trên cung gò má 1 cm.
  • Phần bên: phía sau phần chuyển tiếp lên trán của xương gò má 3 cm và bên trên cung gò má 1 cm. Điểm vào bổ sung cho phần bên: phía sau phần chuyển tiếp lên trán của xương gò má2,5 cm và bên trên cung gò má 1 cm nếu cần.
Khu vực mục tiêu
  • Phần giữa của hõm thái dương để làm mượt đường viền bờ ổ mắt.
  • Phần bên cho khuôn mặt trái xoan.
Gây mê Thuốc gây mê tại chỗ.

Hình 4.14 Kỹ thuật tiêm để nâng vùng thái dương. (a) Vùng giữa của hõm thái dương. (b) Vùng bên của hõm thái dương. (c) Vùng bên phía dưới của hõm thái dương. (d) Vị trí thích hợp của chất làm đầy HA để nâng vùng thái dương qua hình ảnh siêu âm. Hình 4.14 Kỹ thuật tiêm để nâng vùng thái dương. (a) Vùng giữa của hõm thái dương. (b) Vùng bên của hõm thái dương. (c) Vùng bên phía dưới của hõm thái dương. (d) Vị trí thích hợp của chất làm đầy HA để nâng vùng thái dương qua hình ảnh siêu âm.

Biến chứng

Bầm tím

Chấn thương mạch máu trong quá trình nâng vùng thái dương có thể dẫn đến bầm tím nhiều. Do đó, cần hết sức thận trọng để tránh tĩnh mạch sentinel có thể quan sát được bằng mắt thường và chạy gần bờ ổ mắt. Liên quan đến các mạch nằm sâu hơn không thể nhìn thấy bằng mắt bao gồm động mạch và tĩnh mạch thái dương nông và tĩnh mạch thái dương trong, cần phải phỏng đoán về đường đi của chúng. Tuy nhiên, lưu ý rằng các biến thể riêng lẻ tồn tại trong quá trình hoạt động của các mạch máu này và các cấu trúc sâu như động mạch thái dương có thể dễ bị tổn thương trong quá trình tiêm sâu vào màng xương. Do đó, cần phải ấn vùng điều trị ít nhất 3 phút sau khi điều trị để ngăn chặn bất kỳ sự hình thành máu tụ bất ngờ nào. Nếu không làm như vậy có thể dẫn đến hõm thái dương bị phồng tức thời hoặc các cục dưới gò má vào ngày hôm sau do khối máu tụ chảy xuống dưới thông qua phần mở rộng thái dương của túi mỡ má (Hình 4.15). Tuy nhiên, không nên quá lo lắng vì máu tụ thường tự khỏi trong khoảng 1-2 tuần.

Hình 4.15 Sưng tấy ở má phải 2 ngày sau khi nâng thái dương bằng chất làm đầy HA. (a) Trước (b) 2 ngày sau khi tiêm (c) Siêu âm má phải cho thấy rõ sự hiện diện của khối máu tụ, khối giảm âm dưới lớp mỡ dưới da. (d) Siêu âm má bình thường (trái). Hình 4.15 Sưng tấy ở má phải 2 ngày sau khi nâng thái dương bằng chất làm đầy HA. (a) Trước (b) 2 ngày sau khi tiêm (c) Siêu âm má phải cho thấy rõ sự hiện diện của khối máu tụ, khối giảm âm dưới lớp mỡ dưới da. (d) Siêu âm má bình thường (trái).

Tắc mạch

Do phạm vi mạch máu rộng, vùng thái dương dễ bị thuyên tắc mạch máu sau khi điều trị bằng chất làm đầy HA hoặc Sculp-tra [8]. Về vấn đề này, phương pháp ưa thích của tôi là tiêm chất làm đầy HA trực tiếp trên màng xương để tránh nguy cơ tổn thương mạch máu nghiêm trọng ngoại trừ nguy cơ động mạch và tĩnh mạch thái dương sâu có thể bị tổn thương. Tuy nhiên, trong mỗi trường hợp, việc kim đâm vào mạch rất dễ dàng phát hiện. Kim đâm vào động mạch thái dương sâu có thể được xác định ngay lập tức bằng máu trào ngược tức thời lên ống tiêm do áp lực của động mạch (Hình 3.6). Trong khi đó, kim đâm vào tĩnh mạch có thể được phát hiện bằng cách chọc hút trước khi tiêm. Nếu máu trào ngược khi chọc hút cần phải rút kim ra và kiểm soát chảy máu với áp lực mạnh trong 5 phút trước khi tiếp tục quy trình.

Đau đầu

Nhức đầu có thể xảy ra trong 1-2 ngày sau khi điều trị. Khi cơn đau dai dẳng kéo dài hơn 1-2 tuần, tốt nhất nên loại bỏ chất làm đầy HA bằng hyaluronidase. Trong thực tế hành nghề của tôi, tôi chỉ gặp hai trường hợp đau đầu dai dẳng sau khi nâng thái dương trong số hàng trăm trường hợp được thực hiện. Thực tế là các triệu chứng được giải quyết một cách tự nhiên khi loại bỏ chất làm đầy HA cho thấy nguyên nhân do tiêm chất làm đầy HA.

Đường viền không đều

Cách tiếp cận ưa thích của tôi là tiêm sâu đến cơ để tránh nguy cơ đường viền không đều khi các cấu trúc căng bên trên chịu tác động của chất làm đầy HA. Ngược lại, tiêm nông vào lớp mỡ dưới da hoặc bên dưới cân thái dương nông có thể làm xuất hiện cục u, chúng phải được loại bỏ bằng hyaluronidase.

Lời khuyên: Sử dụng kim và mức độ tiêm thích hợp để nâng vùng thái dương

Tôi thường thích sử dụng ống thông khi thực hiện các phương pháp điều trị bằng chất làm đầy HA để giảm thiểu nguy cơ bầm tím và tắc mạch, nhưng nâng cơ thái dương là một ngoại lệ. Trong trường hợp chất làm đầy HA được đặt nông vào lớp mỡ dưới da, lớp da mỏng phía trên thái dương dễ dẫn đến hiện tượng nhìn thấy sản phẩm, tức là xuất hiện các cục u và đường viền không đều, dễ sờ thấy sản phẩm khi vật liệu có xu hướng nén xuống khi dùng tay ấn xuống. Vì vậy, một số bác sĩ đề xuất rằng khu vực đích của chất làm đầy HA là không gian giữa cân thái dương nông và cân thái dương sâu, chất làm đầy HA có thể được phân bố đồng đều hơn trong khi với thể tích ít hơn so với vị trí đặt sâu vào cơ. Trong cách tiếp cận này, người ta khuyên bạn nên kéo và nâng lớp da bên trên ra khỏi cơ bên dưới để mở đường cho ống thông tiến vào không gian đích được đề xuất, vì cân thái dương nông dính vào da trong khi cân thái dương sâu dính chặt vào cơ bắp. Tuy nhiên, việc xác định đúng mặt phẳng tiêm hay chưa không phải là một vấn đề đơn giản. Thêm vào đó, vẫn có nguy cơ có thể nhìn thấy đường viền không đều và sờ thấy sản phẩm mặc dù ở mức độ thấp hơn so với tiêm dưới da.

Mặt khác, tiêm sâu vào trên màng xương bằng cách sử dụng kim dài 21-G cắm trực tiếp vào xương cho phép làm đầy nhanh chóng và dễ dàng các hõm thái dương mà không có nguy cơ đường viền không đều nhờ sự bao bọc chặt chẽ của các cấu trúc bên trên của cơ thái dương hoặc cân thái dương sâu (Hình 4.14d). Quy trình này rất đơn giản đến nỗi những người mới có thể thực hiện được. Tuy nhiên, với việc tiêm bằng kim, thì việc chọc hút trước khi tiêm là điều kiện tiên quyết.

Để lại một bình luận (Quy định duyệt bình luận)

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

The maximum upload file size: 1 MB. You can upload: image. Drop file here