Kiểm soát nhiễm khuẩn trong điều trị bệnh nhân người lớn bị COVID-19 nặng

Kiểm soát nhiễm khuẩn trong điều trị bệnh nhân người lớn bị COVID-19 nặng

Nhân viên y tế nên tuân theo các chính sách và thủ tục kiểm soát nhiễm khuẩn do các cơ sở chăm sóc sức khỏe ban hành.

Khuyến nghị

Đối với nhân viên y tế đang thực hiện các quy trình tạo khí dung trên bệnh nhân mắc COVID-19, Ban Hướng dẫn Điều trị COVID-19 (Ban Hội thẩm) khuyến nghị sử dụng khẩu trang N95 (hoặc cấp tương đương hoặc cao hơn) thay vì khẩu trang phẫu thuật, ngoài các thiết bị bảo vệ cá nhân khác (PPE) (ví dụ: găng tay, áo choàng và bảo vệ mắt như tấm che mặt hoặc kính bảo hộ) (AIII).

Các thủ thuật tạo khí dung bao gồm đặt nội khí quản và rút nội khí quản, hút đàm, nội soi phế quản, rửa phế quản phế nang, hút đường hô hấp, thông khí bằng tay, hở hệ thống kín máy thở máy thở vô tình hoặc cố ý, thông khí áp lực dương không xâm lấn (NIPPV) (ví dụ: Thông khí với 2 mức áp lực dương liên tục [BiPAP], áp lực đường thở dương liên tục [CPAP]), hồi sức tim phổi, sử dụng máy khí dung và cung cấp oxy lưu lượng cao. Cần thận trọng khi mở khí quản có thể tạo khí dung và tư thế nằm sấp trên bệnh nhân thở máy, khả năng ngắt kết nối máy thở có thể xảy ra.

Kiểm soát nhiễm khuẩn trong điều trị bệnh nhân người lớn bị COVID-19 nặng

Cơ sở lý luận

Trong đợt dịch hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng (SARS), các quy trình tạo khí dung làm tăng nguy cơ lây nhiễm cho các nhân viên y tế. 1,2 khẩu trang N95 chặn được 95% đến 99% các hạt khí dung; tuy nhiên, nhân viên y tế phải được kiểm tra phù hợp với loại được sử dụng.3 Khẩu trang phẫu thuật chặn các hạt lớn, giọt bắn và thuốc dạng xịt, nhưng ít hiệu quả hơn trong việc chặn các hạt nhỏ (< 5 μm) và khí dung.4

Khuyến nghị

Ban Hội thẩm khuyến nghị giảm thiểu việc sử dụng các quy trình tạo khí dung trên các bệnh nhân trong đơn vị chăm sóc đặc biệt với COVID-19 và thực hiện bất kỳ quy trình tạo khí dung cần thiết nào trong phòng áp suất âm, còn được gọi là phòng cách ly nhiễm khuẩn trong không khí (AIIR), khi có sẵn (AIII).

Ban Hội thẩm công nhận rằng các quy trình tạo khí dung là cần thiết ở một số bệnh nhân và các quy trình này có thể được thực hiện với mức độ an toàn cao nếu tuân thủ các hướng dẫn về kiểm soát nhiễm khuẩn.

Cơ sở lý luận

AIIR làm giảm nguy cơ lây nhiễm chéo giữa các phòng và giảm nguy cơ lây nhiễm cho nhân viên và bệnh nhân bên ngoài phòng khi các quy trình tạo khí dung được thực hiện. AIIRs đã có hiệu quả trong việc ngăn chặn sự lây lan của virus trong đợt dịch SARS.2 Nếu không có AIIR, nên sử dụng bộ lọc không khí dạng hạt (HEPA) hiệu quả cao, đặc biệt cho những bệnh nhân nằm sử dụng ống thông mũi có lưu lượng lớn hoặc thông khí không xâm lấn. Bộ lọc HEPA giảm sự lây truyền virus trong mô phỏng.

Khuyến nghị

Đối với các nhân viên y tế đang chăm sóc bình thường cho những bệnh nhân COVID-19 không thở máy, Ban Hội thẩm khuyến nghị sử dụng khẩu trang N95 (hoặc cấp tương đương hoặc cao hơn) hoặc khẩu trang phẫu thuật, ngoài PPE khác (ví dụ: găng tay, áo choàng và bảo vệ mắt như tấm che mặt hoặc kính bảo hộ) (AIIa).

Đối với nhân viên y tế đang thực hiện các quy trình không tạo khí dung trên bệnh nhân COVID-19 đang thở máy hệ thống kín, Ban Hội thẩm khuyến nghị sử dụng khẩu trang N95 (hoặc mặt nạ phòng độc cấp tương đương hoặc cao hơn) cùng với PPE khác (ví dụ: găng tay, áo choàng và thiết bị bảo vệ mắt như tấm che mặt hoặc kính bảo hộ) vì các hệ thống của máy thở có thể bị gián đoạn bất ngờ (BIII).

Cơ sở lý luận

Có bằng chứng từ các nghiên cứu về các bệnh do virus, bao gồm cả SARS, cho thấy cả khẩu trang phẫu thuật và khẩu trang N95 đều giảm nguy cơ lây truyền.6 Hơn nữa, khẩu trang phẫu thuật có thể không thua kém khẩu trang N95 trong việc ngăn ngừa lây truyền virus đường hô hấp; Một đánh giá hệ thống gần đây và phân tích tổng hợp các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng so sánh tác dụng bảo vệ của khẩu trang y tế và khẩu trang N95 đã chứng minh rằng việc sử dụng khẩu trang y tế không làm tăng tỷ lệ nhiễm trùng đường hô hấp do virus đã được phòng thí nghiệm xác nhận (bao gồm cả nhiễm trùng coronavirus) hoặc bệnh hô hấp lâm sàng.7

Khuyến nghị

Ban Hội thẩm khuyến cáo rằng đặt nội khí quản ở bệnh nhân COVID-19 được thực hiện bởi các cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có nhiều kinh nghiệm quản lý đường thở, nếu có thể (AIII).

Ban Hội thẩm khuyến cáo nên đặt nội khí quản bằng phương pháp soi thanh quản qua camera, nếu có thể (CIIa).

Cơ sở lý luận

Nên áp dụng các phương pháp tối ưu hóa giảm thiểu quá trình tạo khí dung khi đặt nội khí quản cho bệnh nhân nghi ngờ hoặc xác nhận COVID-198,9. Việc soi thanh quản trực tiếp gần mặt có thể khiến các nhân viên chăm sóc sức khỏe tiếp xúc với nồng độ cao hơn của các dòng khí dung mang virus. Điều quan trọng nữa là tránh có nhân viên không cần thiết trong phòng khi làm thủ tục đặt nội khí quản.

Thông tin tham khảo

1. Yam LY, Chen RC, Zhong NS. SARS: ventilatory and intensive care. Respirology. 2003;8 Suppl:S31-35.Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/15018131.

2. Twu SJ, Chen TJ, Chen CJ, et al. Control measures for severe acute respiratory syndrome (SARS) in Taiwan. Emerg Infect Dis. 2003;9(6):718-720. Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/12781013.

3. Centers for Disease Control and Prevention. The National Personal Protective Technology Laboratory (NPPTL): respirator trusted-source information. 2020. Available at: https://www.cdc.gov/niosh/npptl/topics/respirators/disp_part/respsource1quest2.html. Accessed September 23, 2020.

4. Milton DK, Fabian MP, Cowling BJ, Grantham ML, McDevitt JJ. Influenza virus aerosols in human exhaledbreath: particle size, culturability, and effect of surgical masks. PLoS Pathog. 2013;9(3):e1003205. Availableat: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/23505369.

5. Qian H, Li Y, Sun H, Nielsen PV, Huang X, Zheng X. Particle removal efficiency of the portable HEPA aircleaner in a simulated hospital ward. Building Simulation. 2010;3:215-224. Available at: https://link.springer.com/article/10.1007/s12273-010-0005-4.

6. Offeddu V, Yung CF, Low MSF, Tam CC. Effectiveness of masks and respirators against respiratory infectionsin halthcare workers: a systematic review and meta- analysis. Clin Infect Dis. 2017;65(11):1934-1942. Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/29140516.

7. Bartoszko JJ, Farooqi MAM, Alhazzani W, Loeb M. Medical masks vs N95 respirators for preventing COVID-19 in healthcare workers: a systematic review and meta-analysis of randomized trials. Influenza OtherRespir Viruses. 2020;14(4):365-373. Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/32246890.

8. Tran K, Cimon K, Severn M, Pessoa-Silva CL, Conly J. Aerosol generating procedures and risk oftransmission of acute respiratory infections to healthcare workers: a systematic review. PLoS One. 2012;7(4):e35797. Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/22563403.

9. Lewis SR, Butler AR, Parker J, Cook TM, Schofield-Robinson OJ, Smith AF. Videolaryngoscopy versus direct laryngoscopy for adult patients requiring tracheal intubation: a Cochrane Systematic Review. Br J Anaesth. 2017;119(3):369-383. Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/28969318.

 

Trả lời (Quy định duyệt bình luận)

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

The maximum upload file size: 1 MB. Bạn chỉ được tải lên hình ảnh định dạng: .jpg, .png, .gif Drop file here