Testosterone
Biên soạn và Hiệu đính
Dược sĩ Phan Hữu Xuân Hạo – Khoa Dược, Trường Y Dược – Đại học Duy Tân.
Danh pháp
Tên chung quốc tế
Testosterone
Tên danh pháp theo IUPAC
(8 R , 9 S , 10 R , 13 S , 14 S , 17 S) -17-hydroxy-10,13-dimethyl-1,2,6,7,8,9,11,12,14,15,16,17-dodecahydrocyclopenta (a)phenanthren-3-one
Nhóm thuốc
Testosterone thuộc nhóm thuốc Hormon sinh dục ở nam giới (androgen)
Mã ATC
G03BA03
G: Thuốc dùng cho hệ sinh dục tiết niệu và các hormon sinh dục
G03: Thuốc hormon sinh dục và các chất điều chỉnh chức năng sinh dục
G03B: Androgen
G03BA: Dẫn chất của hoạt chất 3 – oxoandrosten
G03BA03: Testosterone
Mã UNII
3XMK78S47O
Mã CAS
58-22-0
Cấu trúc phân tử
Công thức phân tử
C19H28O2
Phân tử lượng
288.4 (g/mol)
Cấu trúc phân tử
Testosterone là một androstanoid có nhóm 17 beta-hydroxy và 3-oxo, cùng với sự không bão hòa ở C-4-C-5. Nó có vai trò như một androgen, một chất chuyển hóa ở người. Testosterone được chuyển đổi không thể đảo ngược thành dihydrotestosterone (DHT) trong các mô đích bởi enzyme 5-alpha reductase.
Các phức hợp thụ thể phối tử-androgen testosterone hoặc DHT hoạt động như các phức hợp yếu tố phiên mã, kích thích sự biểu hiện của các gen đáp ứng khác nhau. DHT liên kết với ái lực cao hơn với các thụ thể androgen so với testosterone, kích hoạt biểu hiện gen hiệu quả hơn. Ngoài ra, testosterone được chuyển đổi không thể đảo ngược thành estradiol bởi phức hợp enzyme aromatase, đặc biệt là trong gan và mô mỡ.
Các tính chất phân tử
Số liên kết hydro cho: 1
Số liên kết hydro nhận: 2
Số liên kết có thể xoay: 0
Diện tích bề mặt cực tôpô: 37,3 Ų
Số lượng nguyên tử nặng: 21
Phần trăm các nguyên tử: C 79.12%, H 9.79%, O 11.09%
Các tính chất đặc trưng
Điểm nóng chảy (° C): 155 ° C
Độ hòa tan trong nước: 23,4 mg / L (ở 25 ° C)
Áp suất hơi: 1,71X10-8 mm Hg ở 25 ° C
LogP: 3,32
Hằng số định luật Henry: 3,53X10-9 atm-cu m / mol ở 25 ° C
Chu kì bán hủy: 10- 100 phút
Khả năng liên kết với Protein huyết tương: 97,0 – 99,5 %
Cảm quan
Testosterone có dạng tinh thể màu trắng hoặc trắng kem. Ngoải ra, nó còn có có dạng bột kết tinh màu trắng và không có mùi.
Testosterone tan tốt trong rượu khử hydro, chloroform ; tan được trong dầu thực vật, rượu, dioxan và các dung môi hữu cơ khác; tan nhẹ trong ete. Thực tế Testosterone không tan được trong nước.
Dạng bào chế
Viên nén với hàm lượng lần lượt là: 5; 10; 25; 50 mg;
Viên nang: 40, 200 mg;
Viên ngậm dưới lưỡi: 10 mg;
Ống tiêm với dung tích lần lượt là : 10, 25, 50, 100, 250 mg/ml;
Miếng dán: 24,4 mg/44 cm² và 12,5 mg/37 cm²
Kem: 2,5%, 5%
Gel: 1%,
Miếng cấy dưới da: 100 mg.
Độ ổn định và điều kiện bảo quản của Testosterone
Testosterone cần được bảo quản ở nhiệt độ 15 – 30 o C. Tránh để Testosterone tiếp xúc với ánh sáng.
Để xa tầm với của trẻ em.
Nguồn gốc
Testosterone là một hormone sinh dục steroid được chỉ định để điều trị thiểu năng sinh dục nguyên phát và thiểu năng tuyến sinh dục. Testosterone đối kháng với thụ thể androgen để tạo ra biểu hiện gen, gây ra sự tăng trưởng và phát triển của các cơ quan sinh dục nam và các đặc điểm sinh dục thứ cấp.
Năm 1889, Nghiên cứu về hoạt động của Testosterone đã được giáo sư Harvard Charles-Édouard Brown-Séquard (1817–1894) thực hiện ở Paris, ông đã tự tiêm dưới da một “thần dược trẻ hóa” bao gồm chiết xuất của tinh hoàn của chó và chuột lang.
Năm 1927, Giáo sư Hóa sinh lý của Đại học Chicago, Fred C. Koch, đã tiếp cận dễ dàng với một nguồn tinh hoàn bò lớn là các kho dự trữ ở Chicago, ông cùng các sinh viên của mình khai thác tinh hoàn của bò. Cũng trong năm đó, Koch và sinh viên của ông, Lemuel McGee, đã thu được 20 mg chất từ nguồn cung cấp 40 pound tinh hoàn bò, và ông đã thử dùng cho gà trống, lợn và chuột bị thiến, kết quả là đã đã tái tạo lại đặc tính nam hóa của chúng.
Năm 1934, Nhóm của Ernst Laqueur tại Đại học Amsterdam đã tinh chế Testosterone từ tinh hoàn bò với phương pháp tương tự như giáo sư Koch và sinh viên của ông.
Năm 1935, Nhóm Organon ở Hà Lan là những người đầu tiên phân lập được nội tiết tố này và họ cũng đã đặt tên cho loại hormon này là Testosterone, từ thân của tinh hoàn và sterol kèm hậu tố là xeton.
Dược lý và cơ chế hoạt động
Ở tuổi dậy thì, trục dưới đồi – tuyến yên – tuyến sinh dục đóng vai trò chính trong việc điều chỉnh nồng độ Testosterone và chức năng tuyến sinh dục. Vùng dưới đồi tiết ra GnRH, đi xuống hệ thống cổng thông tin nhịp tim vùng dưới đồi đến thùy trước tuyến yên, nơi tiết ra hormone tạo hoàng thể (LH) và hormone kích thích nang trứng (FSH). LH và FSH là hai hormon hướng sinh dục đi qua máu và hoạt động trên các thụ thể trong tuyến sinh dục. Đặc biệt, LH hoạt động trên tế bào Leydig để tăng sản xuất Testosterone.
Testosterone đối kháng với thụ thể androgen để tạo ra biểu hiện gen gây ra sự tăng trưởng và phát triển của các cơ quan sinh dục nam và các đặc điểm sinh dục thứ cấp. Thời gian tác dụng của testosterone có thể thay đổi tùy theo từng bệnh nhân với thời gian bán hủy từ 10-100 phút. Chỉ số điều trị là rộng khi xem xét mức testosterone bình thường ở một người đàn ông trưởng thành nằm trong khoảng 300-1000ng /dL.
Thụ thể androgen tồn tại trong tế bào , chúng liên kết với các protein HSP70, HSP90 và các chaperone khác. Sau khi liên kết với androgen, thụ thể androgen tách khỏi protein HSP90 và diễn ra sự thay đổi cấu trúc để làm giảm tốc độ phân ly khỏi thụ thể androgen. Phức hợp thụ thể androgen được vận chuyển vào trong nhân, tại đây, nó được liên kết với DNA và các cơ quan điều hòa quá trình phiên mã khác để tạo thành một phức hợp khởi động trước và sau cùng chúng gây ra sự biểu hiện của các gen cụ thể.
Testosterone và chất chuyển hóa mang hoạt tính là dihydrotestosterone (DHT), 2 thành phần này đối kháng với thụ thể androgen làm phát triển các cơ quan sinh dục nam bao gồm túi tinh, tuyến tiền liệt, dương vật và cả bìu. Các androgen tương tự Testosterone và các ester của chúng, được sử dụng để điều trị thay thế cho nam giới bị suy giảm khả năng sinh dục do rối loạn chức năng của tinh hoàn hoặc tuyến yên.
Ở người bệnh bị suy giảm chức năng của tuyến yên, các androgen có thể giúp làm phát triển lại bình thường các chức năng sinh dục, tuy nhiên không tránh khỏi chứng vô sinh ở nam giới.
Testosterone còn được sử dụng cho các thiếu niên nam chậm lớn hoặc thời gian dậy thì đến muộn, tuy nhiên cần thận trọng vì có thể làm xương không phát triển và gây lùn do làm cốt hóa sớm các đầu của xương.
Testosterone cũng có tác dụng giống như các hormon sinh dục đồng hóa khác.
Chúng làm tăng lưu trữ lại nitơ, natri, kali và phospho; làm tăng quá trình đồng hóa protein ,làm giảm quá trình dị hóa amino acid và nồng độ canxi của nước tiểu.
Testosterone làm tăng khả năng lưu trữ nước và tăng phát triển xương.
Tác động lên da, giúp da được tưới máu nhiều hơn và giảm bớt lượng mỡ dưới da, tăng khả năng tạo hồng cầu.
Ứng dụng trong y học của Testosterone
Testosterone được chỉ định trong một số trường hợp:
- Chức năng của tuyến sinh dục ở nam giới do tuyến yên hoặc tinh hoàn bị suy giảm; hoặc do cắt bỏ cả hai tinh hoàn.
- Sử dụng hỗ trợ trong việc chuyển đổi giới tính nữ sang nam.
- Chậm lớn và dậy thì muộn ở nam thiếu niên.
- Ngoài ra, còn hỗ trợ điều trị ung thư vú ở phụ nữ mãn kinh có di căn xương.
Trên hệ nội tiết
Hầu hết lượng Testosterone được sản xuất từ tinh hoàn, tuy nhiên vẫn có một lượng nhỏ Testosterone đến từ tuyến thượng thận, nằm ngay phía trên thận.
Testosterone có vai trò quan trọng trong sự hình thành các cơ quan sinh dục nam. Ở tuổi dậy thì, Testosterone giúp cho sự phát triển của các đặc tính sinh lý nam như kích thích mọc râu, lông trên cơ thể, giọng nói trầm hơn. Ngoài ra, Testosterone còn kích thích sự phát triển của cơ bắp và hình thành các cảm giác “ham muốn tình dục”.
Trên hệ thống sinh sản
Cơ quan sinh dục nam được hình thành vào khoảng tuần thứ bảy của thai kỳ với sự tác động to lớn của Testosterone. Ở độ tuổi dậy thì, khi nồng độ Testosterone tăng lên, kích thích cho tinh hoàn và dương vật ở nam giới phát triển mạnh mẽ. Tinh hoàn lại tạo ra một lượng Testosterone ổn định và giúp sản sinh tinh trùng mới mỗi ngày.
Tác dụng lên khả năng tình dục
Nồng độ Testosterone ở nam giới tăng cao ở độ tuổi dậy thì, làm kích thích sự phát triển và hoàn thiện của tinh hoàn, dương vật và lông mu. Giọng nói của người nam trở nên trầm hơn, cơ bắp và lông ở một số bộ phận trên cơ thể phát triển. Bên cạnh đó, cũng làm tăng ham muốn tình dục.
Tác dụng của Testosterone lên hệ thần kinh trung ương
Testosterone trên hệ thần kinh trung ương có một vai trò cần thiết trong một số hành vi bao gồm sự hung hăng và khả năng lãnh đạo.
Bên cạnh đó, Testosterone cũng được xem như là một tác nhân tác động đến tâm trạng của con người, như là một thước đo khả năng cạnh tranh và hormon giúp tăng cường lòng tự trọng của mỗi con người. Việc tham gia vào các hoạt động cạnh tranh có thể làm lượng Testosterone của nam giới tăng và ngược lại lượng Testosterone giảm có thể làm tâm trạng buồn rầu, bức rức.
Tác động lên da và tóc
Testosterone giúp thúc đẩy sự phát triển của tóc và lông chủ yếu ở nách, xung quanh bộ phận sinh dục, tay, chân và cả ngực.
Tác động lên cơ bắp, xương và chất béo
Testosterone là một trong những yếu tố quan trọng đến sự phát triển của các khối cơ trên cơ thể. Testosterone làm tăng dẫn truyền thần kinh, dẫn đến kích thích sự phát triển mô. Bên cạnh đó,Testosterone tương tác với các thụ thể có trong gen, dẫn đến làm tăng sự tổng hợp protein. Ngoài ra, Testosterone còn làm tăng nồng độ của hormone tăng trưởng trong cơ thể, giúp cho nam giới hăng say tập luyện và tăng cường cơ bắp.
Testosterone còn làm tăng mật độ xương và giữ vai trò thiết yếu trong việc sản xuất hồng cầu từ tủy xương.
Testosterone cũng liên quan đến quá trình chuyển hóa chất béo, giúp nam giới tiêu thụ lượng chất béo hiệu quả hơn.
Dược động học
Hấp thu
Testosterone cần phải phụ thuộc vào đường dùng.
Sinh khả dụng đường uống của Testosterone khá thấp vì bị chuyển hóa lần đầu qua gan và ở niêm mạc ruột mạnh. Vì vậy, Testosterone thường được sử dụng bằng cách tiêm bắp, qua da hoặc dưới da. Tuy nhiên, cũng có một vài dạng đường uống như testosterone undecanoat vẫn được hấp thu nhanh chóng ở ruột cùng với lipid và theo đường bạch huyết thâm nhập vào hệ thống tuần hoàn, do đó tránh chuyển hóa lần đầu tại gan nên sinh khả dụng cao hơn.
Testosterone khi bị ester hóa sẽ tan tốt trong lipid hơn là dạng chưa bị ester hóa và khi vào trong cơ thể, chúng sẽ bị thủy phân và giải phóng ra Testosteron.
Nồng độ Testosterone nội sinh trong huyết thanh thay đổi từng giờ và có nồng độ cao nhất vào buổi sáng sớm. Nồng độ Testosterone tối đa trong huyết tương đạt từ 4 – 5 giờ sau khi uống và sau khi tiêm bắp 72 giờ. Khi dùng Testosterone dạng gel, kem hoặc miếng dán, Testosterone cũng được hấp thu nhanh, sau khoảng 30 phút bôi, hoặc dán 10% Testosterone sẽ được hấp thu
Phân bố
Thể tích phân bố Testosterone ở nam giới lớn tuổi là khoảng 80,36 ± 24,51L
Testosterone tồn tại trong máu chủ yếu dưới dạng liên kết với TEBG (Testosterone – Estradiol bindiny globulin), SHBG (sex hormon bindiny globulin) và albumin. Testosterone gắn mạnh vào SHBG nên bị mất hoạt tính sinh học , trong khi đó phần gắn vào albumin yếu lại có thể phân ly để trở thành hormon có hoạt tính.
Chỉ có khoảng 2% Testosterone nội sinh không liên kết với các protein, 30 – 40% gắn vào SHBG, còn lại được gắn vào albumin và các protein khác.
Chuyển hóa
Testosterone được chuyển hóa thành steroid 17-keto thông qua hai con đường khác nhau. Các chất chuyển hóa có hoạt tính chính là estradiol và dihydrotestosterone (DHT).
Testosterone có thể được hydroxyl hóa ở một số vị trí bởi CYP3A4, CYP2B6, CYP2C9 và CYP2C19 glucuronid hóa bởi UGT2B sunfat hóa được chuyển đổi thành estradiol bởi aromatase; được chuyển đổi thành dihydrotestosterone (DHT) bởi 5α-reductase; được chuyển hóa thành androstenedione bởi CYP3A4, CYP2C9 và CYP2C19; hoặc chuyển đổi thành DHT glucuronid.
Androstenedione trải qua quá trình chuyển hóa bởi men aromatase để tạo thành estrone và trải qua phản ứng thuận nghịch để tạo thành estradiol. Androstenedione cũng có thể được chuyển đổi thành 5α-androstanedione bởi 5α-reductase, có thể được chuyển hóa thêm thành 5α-androsterone
DHT có thể được glucuronid hóa hoặc sulfat hóa, hoặc chuyển hóa thành 5α-androstanediol, androstane-3α, 17β-diol, hoặc androstane-3β, 17β-diol. DHT cũng có thể được chuyển đổi một cách thuận nghịch thành 5α-androstanedione.
Thải trừ
90% liều Testosterone tiêm bắp được thải trừ qua nước tiểu, chủ yếu dưới dạng liên hợp glucuronid và sulfat. 6% được thải trừ qua phân, hầu hết dưới dạng chất chuyển hóa không liên hợp.
Thời gian bán hủy của Testosterone rất thay đổi, dao động từ 10-100 phút.
Độc tính ở người
Không có nhiều dữ liệu về độc tính của Testosterone khi dùng quá liều. Tuy nhiên, theo một số nghiên cứu cho rằng, dùng quá liều Testosterone dạng tiêm, bệnh nhân có nguy cơ mắc bị tai biến mạch máu não.
Bạn nên đến các trung tâm y tế gần nhất để được xử lý và hướng dẫn điều trị khi sử dụng quá liều Testos
Tương tác với thuốc khác
Có 157 thuốc/nhóm thuốc được biết là có tương tác với Testosterone. Trong đó có 13 thuốc/ nhóm thuốc có tương tác nguy hiểm với Testosterone, 141 tương tác trung bình và 3 tương tác nhỏ. Dưới đây là một số thuốc/nhóm thuốc có tương tác điển hình với Testosterone:
Pazopanib | Kết hợp các Testosterone với Pazopanib có thể làm tăng đáng kể nồng độ Pazopanib trong máu | Major |
Warfarin | Các nội tiết tố androgen và steroid đồng hóa có thể làm tăng phản ứng giảm prothrombin huyết đối với thuốc chống đông máu đường uống và làm tăng nguy cơ chảy máu. | Major |
Amprenavir | Dùng chung với amprenavir hoặc tiền chất của nó, fosamprenavir, có thể làm tăng nồng độ trong huyết tương của các thuốc Testosterone | Moderate |
Daclizumab | Sử dụng Daclizumab cùng với Testosterone có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng có thể ảnh hưởng đến gan. | Moderate |
Armodafinil | Dùng chung với Armodafinil có thể làm giảm nồng độ trong huyết tương của các thuốc Testosterone. | Minor |
Một vài nghiên cứu của Testosterone trong Y học
Ảnh hưởng của liều Testosterone siêu sinh lý đối với kích thước và sức mạnh cơ bắp ở nam giới bình thường
Cơ sở
Các vận động viên thường dùng steroid androgen để tăng sức mạnh của họ. Tuy nhiên, hiệu quả của những chất này cho mục đích này là không có cơ sở.
Phương pháp
Chúng tôi chỉ định ngẫu nhiên 43 người đàn ông bình thường vào một trong bốn nhóm: giả dược không tập thể dục; testosterone mà không cần tập thể dục; giả dược cộng với tập thể dục; và testosterone cộng với tập thể dục. Những người đàn ông được tiêm 600 mg testosterone enanthate hoặc giả dược hàng tuần trong 10 tuần.
Những người đàn ông trong nhóm tập thể dục thực hiện các bài tập nâng tạ tiêu chuẩn ba lần mỗi tuần. Trước và sau thời gian điều trị, khối lượng không có mỡ được xác định bằng cách cân dưới nước, kích thước cơ được đo bằng chụp cộng hưởng từ, và sức mạnh của cánh tay và chân được đánh giá tương ứng bằng các bài tập squat và squat.
Các kết quả
Trong số những người đàn ông trong nhóm không tập thể dục, những người được cho dùng testosterone có sự gia tăng lớn hơn so với những người được cho dùng giả dược về kích thước cơ bắp ở cánh tay của họ (có nghĩa là [+/- SE] thay đổi ở vùng cơ tam đầu, 424 +/- 104 so với -81 + / – 109 milimet vuông; P <0,05) và chân (thay đổi trong khu vực cơ tứ đầu, 607 +/- 123 so với -131 +/- 111 milimet vuông; P <0,05) và tăng sức mạnh nhiều hơn khi ép ghế (9 + / – 4 so với -1 +/- 1 kg, P <0,05) và bài tập ngồi xổm (16 +/- 4 so với 3 +/- 1 kg, P <0,05).
Những người đàn ông được chỉ định dùng testosterone và tập thể dục có sự gia tăng nhiều hơn về khối lượng không có chất béo (6,1 +/- 0,6 kg) và kích thước cơ (vùng cơ tam đầu, 501 +/- 104 mm vuông; vùng cơ tứ đầu, 1174 +/- 91 mm vuông) hơn những người được chỉ định vào nhóm không tập thể dục và tăng sức mạnh cơ bắp nhiều hơn (sức mạnh khi ép ghế, 22 +/- 2 kg; khả năng ngồi xổm-tập thể dục, 38 +/- 4 kg) so với nhóm không tập thể dục. Cả tâm trạng và hành vi đều không bị thay đổi trong bất kỳ nhóm nào.
Kết luận
Liều testosterone siêu sinh lý, đặc biệt khi kết hợp với luyện tập sức mạnh, tăng khối lượng không có chất béo và kích thước cơ và sức mạnh ở nam giới bình thường.
Tài liệu tham khảo
- 1. Drugbank,Testosterone, truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2022.
- 2. Pubchem, Testosterone, truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2022.
- 3. Bộ Y Tế (2012), Dược thư quốc gia Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội
- 4. Bhasin, S., Storer, T. W., Berman, N., Callegari, C., Clevenger, B., Phillips, J., … & Casaburi, R. (1996). The effects of supraphysiologic doses of testosterone on muscle size and strength in normal men. New England Journal of Medicine, 335(1), 1-7.
Xuất xứ: Nam Phi
Xuất xứ: Hà Lan
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Thái Lan
Xuất xứ: Đài Loan (Trung Quốc)
Xuất xứ: Pháp