Tertatolol
Biên soạn và Hiệu đính
Dược sĩ Xuân Hạo
Danh pháp
Tên chung quốc tế
Tên danh pháp theo IUPAC
1-(tert-butylamino)-3-(3,4-dihydro-2H-thiochromen-8-yloxy)propan-2-ol
Nhóm thuốc
Thuốc chẹn beta-adrenergic không chọn lọc.
Mã ATC
C — Thuốc trên hệ tiêu hóa
C07 — Thuốc chẹn beta
C07A — Thuốc chẹn beta
C07AA — Tác nhân chẹn beta, không chọn lọc
C07AA16 — Tertatolol
Mã UNII
9ZO341YQXP
Mã CAS
83688-84-0
Cấu trúc phân tử
Công thức phân tử
C16H25NO2S
Phân tử lượng
295.4 g/mol
Cấu trúc phân tử
Các tính chất phân tử
Số liên kết hydro cho: 2
Số liên kết hydro nhận: 4
Số liên kết có thể xoay: 6
Diện tích bề mặt tôpô: 66.8 Ų
Số lượng nguyên tử nặng: 20
Dạng bào chế
Viên nén bao phim hàm lượng 5 mg ; 10 mg
Độ ổn định và điều kiện bảo quản của Tertatolol
Nơi khô ráo thoáng mát, nhiệt độ dưới 30oC.
Nguồn gốc
Tertatolol ( Artex , Artexal , Prenalex ) là một loại thuốc thuộc nhóm thuốc chẹn beta , được sử dụng để điều trị bệnh cao huyết áp . Nó được phát hiện bởi công ty dược phẩm Pháp Servier và được bán trên thị trường châu Âu.
Dược lý và cơ chế hoạt động
Tertatolol, một loại thuốc chẹn beta-adrenergic, có hai tính chất dược lý đặc trưng đó là không chọn lọc thụ thể beta-1 trên tim và không tác động cường giao cảm nội sinh. Tertatolol có thể cải thiện hoặc ổn định động lực máu ở thận của bệnh nhân cao huyết áp, đồng thời tăng thanh thải acid para-amino-hippurique và inuline.
Cơ chế tác dụng của tertatolol bao gồm giảm cung lượng tim, ức chế thận giải phóng renin, phong bế thần kinh giao cảm từ trung tâm vận mạch ở não đi ra. Tuy ban đầu sức cản của mạch ngoại vi có thể tăng, nhưng sau đợt điều trị lâu dài sẽ giảm.
Ngoài ra, tertatolol còn có tác động lên serotonin 5-HT 1A và đối kháng thụ thể 5-HT 1B. Tuy nhiên, khi sử dụng tertatolol ở những bệnh nhân bị rối loạn tuần hoàn ngoại vi như bệnh hoặc hội chứng Raynaud, đau cách hồi, cần thận trọng vì có thể gây trầm trọng thêm các rối loạn này.
Ứng dụng trong y học của Tertatolol
Hoạt tính chẹn beta của tertatolol được đánh giá dựa trên việc giảm nhịp tim khi gắng sức dưới mức tối đa. Liều uống 5 mg là tối ưu, giúp giảm đáng kể huyết áp tâm trương trong suốt 24 giờ. Hiệu quả đã được xác nhận trong các nghiên cứu trung và dài hạn.
Trong các nghiên cứu trung hạn, ngẫu nhiên có đối chứng, so với thuốc chẹn beta, hiệu quả hạ huyết áp của tertatolol 5mg tương đương với acebutolol 400mg nhưng khởi phát sớm hơn và tương đương với atenolol 100 mg. Hiệu quả của nó đã được xác nhận trong 3 nghiên cứu dài hạn.
Trong nghiên cứu đầu tiên, tertatolol 5 mg đơn độc hoặc kết hợp với thuốc lợi tiểu và, nếu cần, dihydralazine, đã kiểm soát được 93. 6% bệnh nhân (HATTr nằm ngửa < 90 mm Hg). 72,7% bệnh nhân được kiểm soát với tertatolol đơn độc, 16,4% với tertatolol kết hợp với thuốc lợi tiểu và 4,5% với tertatolol kết hợp với thuốc lợi tiểu và dihydralazine.
Trong một nghiên cứu thứ hai, 88,5% bệnh nhân được kiểm soát, 56,3% với tertatolol đơn độc và 32,2% với tertatolol cộng với thuốc lợi tiểu.
Trong nghiên cứu thứ ba, 88,8% bệnh nhân được kiểm soát sau 1 năm điều trị, 66,1% với tertatolol đơn độc và 22,7% với tertatolol cộng với thuốc lợi tiểu.
Trong hai nghiên cứu dài hạn, nồng độ creatinine và cholesterol giảm đáng kể. Khi dùng cho bệnh nhân tăng huyết áp bình thường và tăng mỡ máu, tertatolol gây ra sự gia tăng vừa phải nồng độ triglycerid mà không có bất kỳ thay đổi nào về nồng độ HDL-cholesterol hoặc tỷ lệ cholesterol toàn phần/HDL-cholesterol.
Tertatolol cũng được nghiên cứu trên bệnh nhân tăng huyết áp có yếu tố nguy cơ. Ở những bệnh nhân phì đại thất trái, tertatolol 5mg cải thiện đáng kể giải phẫu và chức năng của thất trái bằng cách giảm chỉ số khối cơ thất trái và tỷ lệ giữa sớm và muộn của vận tốc dòng chảy đỉnh tâm trương qua van hai lá. Ở bệnh nhân suy thận mạn tính, điều trị 3 tháng với tertatolol 5mg làm tăng đáng kể tốc độ lọc cầu thận và lưu lượng huyết tương hiệu quả của thận.
Dược động học
Hấp thu
Tertatolol được hấp thu nhanh trong cơ thể, đạt nồng độ tối đa trong huyết tương sau 1 giờ. Độ khả dụng sinh học của thuốc là 60%, không bị ảnh hưởng bởi thức ăn và động học của thuốc có tính tuyến tính trong khoảng liều từ 1 đến 10 mg.
Phân phối
Tertatolol được gắn kết với protein huyết tương đến 95%, chủ yếu trên alpha-1 glycoprotein acid và có thể đi qua hàng rào máu não. Thuốc được phân phối đến mô ưu tiên ở gan và thận, được chuyển hóa tại gan
Chuyển hóa
Tertatolol được chuyển hóa tại gan thành ba chất chuyển hóa đã được xác định, trong đó 4-hydroxytertatolol là chất chuyển hóa có hoạt tính chẹn beta tương đương với hoạt chất ban đầu.
Đào thải
Tertatolol được đào thải qua thận và phần không chuyển hóa chiếm 1% liều dùng. Thời gian bán thải của thuốc trong huyết tương là 3 giờ, nhưng tác dụng chẹn beta kéo dài trong 24 giờ. Do đó, nồng độ tertatolol trong máu không thay đổi khi sử dụng nhiều lần liên tiếp.
Độ an toàn của Tertatolol
Độ an toàn lâm sàng nói chung là tuyệt vời: trong các nghiên cứu ngắn hạn và trung hạn chỉ 6,6% trong số 2.706 bệnh nhân được điều trị trong 1 năm rút lui khỏi nghiên cứu vì tác dụng phụ. Ở những bệnh nhân được theo dõi trong 1 năm, tác dụng phụ hiếm gặp, thoáng qua và chủ yếu ở mức độ nhẹ. Theo dõi sinh hóa không cho thấy bất kỳ tác dụng phụ chuyển hóa bất lợi nào của tertatolol.
Tương tác của Tertatolol với thuốc khác
Chống chỉ định phối hợp:
Floctafénine: Không nên sử dụng Floctafenine trong trường hợp sốc hoặc tụt huyết áp do thuốc này có tính chất chẹn beta và có thể làm giảm phản ứng bù trừ tim mạch.
Sultopride: Không nên phối hợp vì có thể gây rối loạn và làm giảm nhịp tim quá mức chậm.
Khuyến cáo không nên phối hợp:
Sử dụng chung Amiodarone với thuốc chẹn beta nên tránh để tránh gây rối loạn co bóp và tính tự động.
Cần thận trọng khi sử dụng thuốc đối kháng canxi (bépridil, diltiazem và vérapamil) do có thể gây rối loạn tính tự động, chậm nhịp tim quá mức, ngưng xoang, rối loạn dẫn truyền nhĩ-thất và trụy tim.
Cần tăng cường theo dõi lâm sàng và điện tâm đồ khi sử dụng thuốc chống loạn nhịp (propafenone và nhóm Ia: quinidine,hydroquinidine, disopyramide) để đối phó với rối loạn tính co bóp và tính tự động.
Không nên ngưng thuốc Clonidine đột ngột vì có thể gây tăng huyết áp nghiêm trọng.
Bệnh nhân nên được báo trước về khả năng các thuốc chẹn beta có thể che lấp một số triệu chứng hạ đường huyết, như đánh trống, khi sử dụng Insuline và sulfamid hạ đường huyết.
Một số phối hợp cần lưu ý:
Thuốc chống viêm không steroid (NSAID): làm giảm tác dụng của thuốc hạ huyết áp (do NSAID gây ức chế prostaglandin gây giãn mạch và các loại pyrazolone gây giữ nướu
Thuốc kháng canxi (dihydropyridine): hạ huyết áp và có thể gây suy tim ở bệnh nhân có bệnh suy tim tiềm ẩn hoặc suy tim không được kiểm soát (nhóm dihydropyridine có tác dụng làm giảm khả năng co bóp của cơ tim trên in vitro, tác dụng này ít hay nhiều tùy thuộc vào sản phẩm và có thể hiệp đồng với tác dụng giảm co bóp cơ tim của thuốc chẹn beta). Việc sử dụng
Corticosteroid, tetracosactide: các loại thuốc này có thể làm giảm tác dụng hạ huyết áp (do corticosteroid có tác dụng giữ nướu
Mefloquine: có thể gây chậm nhịp tim (hiệp đồng tác dụng làm chậm nhịp tim).
Lưu ý khi dùng Tertatolol
Lưu ý và thận trọng chung
Không ngừng thuốc đột ngột: cần giảm liều từ từ, tốt nhất là trong vòng 1-2 tuần và bắt đầu điều trị thay thế để tránh làm trầm trọng thêm chứng đau thắt ngực.
Suy tim: sử dụng tertatolol với liều rất thấp, sau đó tăng dần và phải được theo dõi y khoa cẩn thận.
Nhịp tim chậm: cần giảm liều nếu tần số nhịp tim giảm xuống dưới 50-55 nhịp/phút ở trạng thái nghỉ ngơi và có triệu chứng liên quan đến bệnh nhịp tim chậm.
Bloc nhĩ-thất độ một: cần sử dụng thận trọng ở những bệnh nhân bị block nhĩ-thất độ một.
U tủy thượng thận: cần theo dõi tình trạng huyết áp động mạch một cách chặt chẽ.
Người già: cần tuân thủ các điểm trong mục chống chỉ định, bắt đầu điều trị với liều thấp và theo dõi bệnh nhân một cách chặt chẽ.
Suy gan: cần điều chỉnh liều.
Bệnh nhân đái tháo đường: cần tăng cường theo dõi nồng độ đường huyết trong giai đoạn đầu điều trị.
Bệnh vẩy nến: cần cân nhắc việc sử dụng thuốc chẹn beta.
Phản ứng dị ứng: cần sử dụng thận trọng nếu bệnh nhân có cơ địa có thể bị phản ứng phản vệ nặng.
Lưu ý cho người đang mang thai và đang cho con bú
Thuốc không gây quái thai khi thử nghiệm ở trên động vật. Ở người, không có trường hợp gây quái thai do sử dụng thuốc đã được báo cáo, và các nghiên cứu có kiểm soát với một số thuốc chẹn beta đã không cho thấy bất kỳ khả năng gây ra bất thường ở trẻ sơ sinh.
Ở trẻ sơ sinh của các bà mẹ được điều trị, tác dụng của thuốc chẹn beta có thể tồn tại trong vài ngày sau khi sinh. Sự dai dẳng này có thể không có hậu quả lâm sàng nhưng có thể gây suy tim cần nhập viện để được chăm sóc đặc biệt, tránh sử dụng các chất thay thế huyết tương (có thể gây phù phổi cấp tính). Ngoài ra, một số trường hợp nhịp tim chậm, suy hô hấp và hạ đường huyết đã được báo cáo. Do đó, trẻ sơ sinh cần theo dõi đặc biệt (nhịp tim và đường huyết trong 3 đến 5 ngày đầu) tại một bệnh viện chuyên khoa.
Thuốc chẹn beta có khả năng bài tiết được qua sữa mẹ. Nguy cơ hạ đường huyết và nhịp tim chậm không được đánh giá, nhưng nên thận trọng khi cho con bú trong khi điều trị.
Lưu ý cho người vận hành máy móc hay lái xe
Chưa có báo cáo cụ thể tuy nhiên cần cẩn trọng khi dùng cho nhóm đối tượng này
Một vài nghiên cứu về Tertatolol trong Y học
Tác dụng cấp tính của tertatolol và nadolol đối với huyết động toàn thân và thận ở bệnh nhân tăng huyết áp nguyên phát
Các tác dụng huyết động toàn thân và thận cấp tính của tertatolol, một thuốc chẹn beta không chọn lọc trên tim mới không có hoạt tính chủ vận từng phần, được so sánh với tác dụng của một liều nadolol tương đương ở tám bệnh nhân bị tăng huyết áp nguyên phát. Tertatolol (5 mg) hoặc nadolol (80 mg) được dùng bằng đường uống trong khoảng thời gian 1 tuần theo thứ tự ngẫu nhiên như một nghiên cứu chéo, mù đôi.
Cung lượng tim được đo bằng siêu âm Doppler, lưu lượng máu qua thận và tốc độ lọc cầu thận được đo bằng kỹ thuật truyền liên tục sử dụng 123I-iodohippurate và 51CR-EDTA tương ứng. Các phép đo được thực hiện trước và sau đó liên tiếp 2 và 4 giờ sau khi uống thuốc. Cả nadolol và tertatolol đều làm giảm huyết áp và cung lượng tim ở mức độ có thể so sánh được. Lưu lượng máu thận không thay đổi, do đó phần thận của cung lượng tim tăng từ 14,4 +/- 1,5% lên 21,3 +/- 2% sau nadolol và từ 14,8 +/- 2,4% lên 20,5 +/- 1,8% sau tertatolol (có nghĩa là +/- SE, P ít hơn 0,01 trước so với sau; nadolol so với tertatolol không đáng kể). Mức lọc cầu thận không thay đổi, từ 68 +/- 9 đến 64 +/- 6 mL/phút.m2 sau nadolol và từ 71 +/- 8 đến 67 +/- 7 mL/phút.m2 sau tertatolol (trước so với 2017). sau và nồng độ nadolol so với tertatolol không đáng kể). Những kết quả này cho thấy cả tertatolol và nadolol đều phân phối lại cung lượng tim cho thận ở bệnh nhân tăng huyết áp vô căn.
Mức lọc cầu thận không thay đổi, từ 68 +/- 9 đến 64 +/- 6 mL/phút.m2 sau nadolol và từ 71 +/- 8 đến 67 +/- 7 mL/phút.m2 sau tertatolol (trước so với 2017). sau và nồng độ nadolol so với tertatolol không đáng kể). Những kết quả này cho thấy cả tertatolol và nadolol đều phân phối lại cung lượng tim cho thận ở bệnh nhân tăng huyết áp vô căn. Mức lọc cầu thận không thay đổi, từ 68 +/- 9 đến 64 +/- 6 mL/phút.m2 sau nadolol và từ 71 +/- 8 đến 67 +/- 7 mL/phút.m2 sau tertatolol (trước so với 2017). sau và nồng độ nadolol so với tertatolol không đáng kể). Những kết quả này cho thấy cả tertatolol và nadolol đều phân phối lại cung lượng tim cho thận ở bệnh nhân tăng huyết áp vô căn.
Tài liệu tham khảo
- Drugbank, Tertatolol , truy cập ngày 26/03/2023.
- Pubchem, Tertatolol, truy cập ngày 26/03/2023.
- Vivet, P. (1993). Overview of clinical safety and efficacy of tertatolol. Cardiology, 83(Suppl. 1), 41-50.
- Degaute, J. P., Naeije, R., Abramowicz, M., Leeman, M., Schoutens, A., & Prost, J. F. (1988). Acute effects of tertatolol and nadolol on systemic and renal hemodynamics in patients with essential hypertension. American journal of hypertension, 1(3_Pt_3), 263S-268S.