Remdesivir
Cập nhật lần cuối: ngày 21 tháng 4 năm 2021.
Remdesivir là gì?
Remdesivir là tiền chất nucleotide tiêm tĩnh mạch tương tự adenosine. Remdesivir liên kết với RNA polymerase phụ thuộc RNA của virus và ức chế sự nhân lên của virus thông qua việc chấm dứt sớm quá trình sao chép RNA. Nó đã được chứng minh có hoạt tính in vitro chống lại SARS-CoV-2.1 Trong một được nghiên cứu ở khỉ rhesus bị nhiễm SARS-CoV-2, điều trị remdesivir được bắt đầu ngay sau khi nhiễm bệnh; Các động vật được điều trị bằng remdesivir có nồng độ virus trong phổi thấp hơn và ít tổn thương phổi hơn so với các động vật đối chứng.2
Remdesivir được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) phê duyệt để điều trị SARS-COV-2 ở bệnh nhân người lớn và trẻ em nằm viện (từ 12 tuổi trở lên và nặng ≥ 40 kg). Nó cũng đã được cấp Giấy phép Sử dụng Khẩn cấp của FDA (EUA) để điều trị COVID-19 ở bệnh nhi nhập viện có cân nặng từ 3,5 kg đến < 40 kg hoặc < 12 tuổi và nặng ≥ 3,5 kg. Remdesivir nên được quản lý tại bệnh viện hoặc cơ sở chăm sóc sức khỏe có thể cung cấp mức độ chăm sóc tương tự như bệnh viện điều trị nội trú.
Remdesivir đã được nghiên cứu trong một số thử nghiệm lâm sàng để điều trị SARS-COV-2. Các khuyến nghị từ Ban Hướng dẫn Điều trị COVID-19 (Ban Hội thẩm) dựa trên kết quả của các nghiên cứu này. Xem Bảng 2a để biết thêm thông tin.
Tính an toàn và hiệu quả của liệu pháp phối hợp remdesivir với corticosteroid chưa được nghiên cứu chặt chẽ trong các thử nghiệm lâm sàng; tuy nhiên, về lý thuyết liệu pháp phối hợp có thể có lợi ở một số bệnh nhân bị COVID-19 nặng. Đối với các khuyến nghị của Ban hội thẩm về việc sử dụng remdesivir có hoặc không có dexamethasone ở một số bệnh nhân nhập viện, xem Quản lý điều trị cho người lớn nhập viện với COVID-19.
Giám sát và tác động ngoài ý muốn
Remdesivir có thể gây ra các triệu chứng tiêu hóa (ví dụ, buồn nôn), tăng nồng độ transaminase, tăng thời gian prothrombin (không thay đổi tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế) và phản ứng quá mẫn. Các xét nghiệm chức năng gan và thời gian prothrombin nên được thực hiện ở tất cả bệnh nhân trước khi dùng remdesivir và trong quá trình điều trị. Có thể cần phải ngừng Remdesivir nếu nồng độ alanin transaminase (ALT) tăng lên > 10 lần giới hạn trên của mức bình thường và nên ngừng nếu tăng mức ALT và quan sát thấy các dấu hiệu hoặc triệu chứng của viêm gan.3
Cân nhắc ở bệnh nhân suy thận
Mỗi lọ 100 mg bột đông khô remdesivir chứa 3g sulfobutylether beta-cyclodextrin natri (SBECD), trong khi mỗi lọ 100 mg/20 mL dung dịch remdesivir chứa 6 g SBECD.3 SBECD là chất được thải trừ chủ yếu qua thận. Một bệnh nhân với COVID-19 điều trị liều remdesivir 200 mg sẽ nhận được 6 g đến 12 g SBECD, tùy thuộc vào công thức. Lượng SBECD này nằm trong ngưỡng an toàn đối với bệnh nhân có chức năng thận bình thường.4 Tích lũy SBECD ở bệnh nhân suy thận có thể gây độc cho gan và thận. Các bác sĩ có thể cân nhắc ưu tiên sử dụng chế phẩm dạng bột đông khô (chứa ít SBECD hơn) ở bệnh nhân suy thận.
Bởi vì cả hai loại remdesivir đều chứa SBECD, những bệnh nhân có tốc độ lọc cầu thận ước tính (eGFR) < 50 mL/phút sẽ bị loại khỏi một số thử nghiệm lâm sàng về remdesivir; các thử nghiệm khác có ngưỡng eGFR < 30 mL/phút. Remdesivir không được khuyến cáo cho những bệnh nhân có eGFR < 30 mL/phút do thiếu dữ liệu.5 Cần theo dõi chức năng thận trước và trong khi điều trị bằng remdesivir theo chỉ định lâm sàng.3 Trong hai nghiên cứu quan sát đánh giá việc sử dụng remdesivir ở bệnh nhân nhập viện với COVID-19, không có sự khác biệt đáng kể nào được báo cáo về tỷ lệ tác dụng phụ hoặc tổn thương thận cấp tính giữa bệnh nhân có độ thanh thải creatinin ước tính (CrCl) < 30 mL/phút và những người với CrCl ước tính ≥ 30 mL/phút. 6,7 Một trong những nghiên cứu này đã đánh giá những bệnh nhân chủ yếu sử dụng loại dung dịch của remdesivir (20 bệnh nhân có CrCl ước tính < 30 mL/phút và 115 người có CrCl ước tính ≥ 30 mL/phút); 6 nghiên cứu khác đánh giá những bệnh nhân dùng loại bột đông khô (40 bệnh nhân có CrCl ước tính < 30 mL/phút và 307 người có CrCl ước tính ≥ 30 mL/phút).7
Tương tác thuốc
Các nghiên cứu về tương tác thuốc trên lâm sàng của remdesivir chưa được thực hiện. Remdesivir là chất nền của cytochrom P450 (CYP) 3A4 và của các chất vận chuyển thuốc vận chuyển anion hữu cơ polypeptid (OATP) 1B1 và P-glycoprotein. Nó cũng là chất ức chế CYP3A4, OATP1B1, OATP1B3, và protein đa độc tố 1 (MATE1) .3
Theo thông tin được cung cấp bởi Gilead Sciences (thông tin bằng văn bản, tháng 7 năm 2020), mức độ rủi ro đối với remdesivir được xem là tối thiểu, cả khi dung chung remdesivir với dexamethasone. Chloroquine hoặc hydroxychloroquine có thể làm giảm hoạt tính kháng virus của remdesivir; Sử dụng phối hợp 2 thuốc này không được khuyến cáo.3 Remdesivir được cho là sẽ không có bất kỳ tương tác đáng kể nào với oseltamivir hoặc baloxavir, theo thông tin được cung cấp bởi Gilead Sciences (thông báo bằng văn bản, tháng 8 và tháng 9 năm 2020). Xem Bảng 2e để biết thêm thông tin.
Cân nhắc khi mang thai
Bệnh nhân mang thai đã bị loại khỏi các thử nghiệm lâm sàng đánh giá tính an toàn và hiệu quả của remdesivir để điều trị COVID-19, nhưng các báo cáo sơ bộ về việc sử dụng remdesivir ở bệnh nhân mang thai từ chương trình sử dụng remdesivir bổ sung khiến họ yên tâm.
Trong số 86 bệnh nhân đang mang thai và sau sinh nhập viện với SARS-COV- 2 nặng được sử dụng remdesivir bổ sung, liệu pháp này được dung nạp tốt, với tỷ lệ thấp các tác dụng phụ nghiêm trọng.8
Không nên sử dụng remdesivir đối với bệnh nhân đang mang thai nếu có chỉ định khác.
Cân nhắc ở trẻ em
Tính an toàn và hiệu quả của việc sử dụng remdesivir để điều trị COVID-19 chưa được đánh giá ở bệnh nhi < 12 tuổi hoặc cân nặng < 40 kg.
Remdesivir có sẵn thông qua FDA EUA để điều trị COVID-19 bệnh nhi có cân nặng từ 3,5 kg đến < 40 kg hoặc < 12 tuổi có cân nặng ≥ 3,5 kg.
Một thử nghiệm lâm sàng hiện đang đánh giá dược động học của remdesivir ở trẻ em (ClinicalTrials.gov Định danh NCT04431453).
Các thử nghiệm lâm sàng
Một số thử nghiệm lâm sàng đánh giá việc sử dụng remdesivir để điều trị COVID- 19 hiện đang được tiến hành hoặc đang phát triển. Vui lòng xem ClinicalTrials.gov để biết thông tin mới nhất.
Bảng 2a. Remdesivir và các dữ liệu lâm sàng
Cập nhật lần cuối: ngày 11 tháng 2 năm 2021.
Các thử nghiệm lâm sàng được mô tả trong bảng này không đại diện cho tất cả các thử nghiệm mà Ban Hội thẩm đã xem xét trong khi phát triển các khuyến nghị cho RDV. Các nghiên cứu được tóm tắt dưới đây là những nghiên cứu có tác động lớn nhất đến các khuyến nghị của Ban hội thẩm.
Thiết kế nghiên cứu | Phương pháp | Kết quả | Hạn chế và Diễn giải |
Thử nghiệm điều trị COVID-19 thích ứng (ACTT-1)9 | |||
Đa quốc gia, RCT mù đôi có đối chứng với giả dược ở bệnh nhân nhập viện (n = 1,062) | Các tiêu chí chính:
Tiêu chí loại trừ:
Can thiệp:
Thời điểm kết thúc: |
Số người tham gia:
Đặc điểm người tham gia:
Kết quả Kết quả tổng quan:
Kết quả theo mức độ của bệnh khi nhập viện:
|
Hạn chế:
Diễn giải:
|
Thiết kế nghiên cứu | Phương pháp | Kết quả | Hạn chế và Diễn giải |
Định nghĩa thang đo thông thường:
|
Kết quả an toàn:
|
|
|
Remdesivir so với giả dược cho SARS-COV-2 nặng ở Trung Quốc10 | |||
RCT mù đôi, đối chứng với giả dược, đa trung tâm ở bệnh nhân nhập viện với SARS-COV-2 nặng (n = 237) | Các tiêu chí chính:
Tiêu chí Loại trừ:
Các biện pháp can thiệp:
Thời điểm kết thúc:
|
Số người tham gia:
Đặc điểm người tham gia:
Kết quả:
|
Hạn chế:
· Cỡ mẫu không đủ mạnh để phát hiện sự khác biệt về kết quả lâm sàng. · Sử dụng đồng thời các loại thuốc (tức là corticosteroid, LPV/RTV, IFN) có thể có tác dụng che khuất ảnh hưởng của của RDV Diễn giải: · Không có sự khác biệt về thời gian cải thiện lâm sàng, tỷ lệ tử vong trong 28 ngày, hoặc tỷ lệ thanh thải SARS-CoV-2 giữa bệnh nhân được điều trị RDV và được điều trị bằng giả dược; tuy nhiên, nghiên cứu không đủ khả năng để phát hiện sự khác biệt trong các kết quả này giữa các nhóm. |
Thiết kế nghiên cứu | Phương pháp | Kết quả | Hạn chế và Diễn giải |
Ø Không thở máy khi vào viện: 0,86 (KTC 99%, 0,67–1,11)
Ø Thở máy lúc vào viện: 1,20 (KTC 99%, 0,80–1,80) Kết quả thứ cấp: · Bắt đầu thở máy: 295 bệnh nhân (10,8%) ở nhóm RDV, 284 bệnh nhân (10,5%) ở nhóm SOC |
|||
Remdesivir so với Tiêu chuẩn chăm sóc ở bệnh nhân nhập viện với COVID-19 vừa phải12 | |||
Thử nghiệm ngẫu nhiên nhãn mở ở bệnh nhân nhập viện (n = 596) | Các tiêu chí chính:
· Nhiễm SARS-CoV-2 đã được xác nhận bởi phòng thí nghiệm · Viêm phổi trung bình, được xác định bằng kết quả X-quang về thâm nhiễm phổi và SpO2 > 94% trong không khí phòng Tiêu chí loại trừ: · ALT hoặc AST > 5 lần ULN · CrCl < 50 mL/phút Can thiệp: · Tiêm tĩnh mạch RDV 200 mg vào ngày 1, sau đó 100 mg mỗi ngày trong 9 ngày · Tiêm tĩnh mạch RDV 200 mg vào ngày 1, sau đó 100 mg mỗi ngày trong 4 ngày · SOC tại chỗ Chỉ tiêu lâm sàng chính: · Tình trạng lâm sàng vào Ngày 11, được đo bằng thang điểm thứ tự 7 điểm |
Số người tham gia:
· 584 bệnh nhân bắt đầu điều trị: 10 ngày dùng RDV (n = 193), 5 ngày dùng RDV (n = 191), và SOC (n = 200) Đặc điểm người tham gia: · Đặc điểm nhân khẩu học và bệnh cơ bản giống nhau trên tất cả các nhóm. Kết quả: · 5 ngày dùng RDV có tỷ lệ tình trạng lâm sàng tốt hơn vào Ngày 11 cao hơn đáng kể so với SOC (OR 1.65; 95% CI, 1.09–2.48; P = 0.02). · Phân bố tình trạng lâm sàng vào ngày 11 không có ý nghĩa khác biệt giữa nhóm 10 ngày RDV và SOC (P = 0,18). · Đến Ngày 28, số bệnh nhân được điều trị RDV xuất viện nhiều hơn (89% ở nhóm 5 ngày và 90% ở nhóm 10 ngày) so với những bệnh nhân được SOC (83%). · Tỷ lệ tử vong ở tất cả các nhóm thấp (1% đến 2%). · Tỷ lệ bệnh nhân có AE ở nhóm RDV so với nhóm SOC: buồn nôn (10% so với 3%), hạ kali máu (6% so với 2%) và đau đầu (5% so với 3%) |
Hạn chế:
· Thiết kế nhãn mở có thể ảnh hưởng đến các quyết định liên quan đến việc sử dụng thuốc đồng thời và xuất viện. · Tỷ lệ bệnh nhân trong nhóm SOC nhận được HCQ, LPV/RTV hoặc AZM cao hơn, có thể gây ra các biến chứng và không cho thấy lợi ích lâm sàng ở bệnh nhân nhập viện với COVID-19. · Không có dữ liệu về thời gian để hoạt động trở lại cho bệnh nhân xuất viện Diễn giải: · Những bệnh nhân nhập viện với COVID-19 vừa phải được điều trị RDV trong 5 ngày có kết quả tốt hơn những bệnh nhân được SOC; tuy nhiên, sự khác biệt giữa các nhóm có tầm quan trọng lâm sàng không chắc chắn. |
Thời gian điều trị bằng Remdesivir khác nhau ở bệnh nhân nhập viện 13 |
Thiết kế nghiên cứu | Phương pháp | Kết quả | Hạn chế và Diễn giải |
Thử nghiệm nhãn mở, đa quốc gia, ngẫu nhiên, do nhà sản xuất tài trợ ở bệnh nhân nhập viện với COVID-19 (n
= 402) |
Các tiêu chí chính:
· Tuổi ≥ 12 tuổi · Nhiễm SARS-CoV-2 đã được xác nhận bởi phòng thí nghiệm · Bằng chứng chụp X-quang về thâm nhiễm phổi · SpO2 ≤ 94% ở không khí phòng hoặc nhận oxy bổ sung Tiêu chí loại trừ: · Nhận thở máy hoặc ECMO · Suy đa cơ quan · ALT hoặc AST > 5 lần ULN · Ước tính CrCl < 50 mL/phút Can thiệp: · Tiêm tĩnh mạch RDV 200 mg vào ngày 1, sau đó 100 mg mỗi ngày trog 4 ngày · Tiêm tĩnh mạch RDV 200 mg vào ngày 1, sau đó 100 mg mỗi ngày trong 9 ngày Chỉ tiêu lâm sàng chính: · Tình trạng lâm sàng ở Ngày thứ 14, được đo bằng thang điểm thứ tự 7 điểm |
Số người tham gia:
· 397 người tham gia đã bắt đầu điều trị: RDV 5 ngày (n = 200) và RDV 10 ngày (n = 197) Đặc điểm người tham gia: · Tại thời điểm ban đầu, bệnh nhân ở nhóm 10 ngày có tình trạng lâm sàng tồi tệ hơn (dựa trên phân bố thứ tự) so với nhóm 5 ngày (P = 0,02) Kết quả: · Sau khi điều chỉnh sự mất cân bằng trong tình trạng lâm sàng ban đầu, sự phân bố của Ngày 14 trong tình trạng lâm sàng trên thang thứ tự là tương tự giữa các nhóm (P = 0,14). · Thời gian để đạt được sự cải thiện lâm sàng của ít nhất 2 mức độ trên thang thứ tự (ngày trung bình của tỷ lệ tích lũy 50%) là tương tự giữa các nhóm (10 ngày so với 11 ngày). · Thời gian nằm viện trung bình giữa các bệnh nhân xuất viện vào hoặc trước Ngày 14 là tương tự nhau giữa nhóm 5 ngày (7 ngày; IQR 6–10 ngày) và nhóm 10 ngày (8 ngày; IQR 5–10 ngày). · Tỷ lệ bệnh nhân mắc SAE: 35% ở nhóm 10 ngày, 21% ở nhóm 5 ngày · Ngừng do AEs: 4% bệnh nhân trong nhóm 5 ngày, 10% trong nhóm 10 ngày |
Hạn chế:
· Đây là một thử nghiệm nhãn mở không có nhánh kiểm soát giả dược, do đó không thể đánh giá lợi ích lâm sàng của RDV (so với không có RDV). · Có sự mất cân bằng cơ bản về tình trạng lâm sàng của bệnh nhân trong nhóm 5 ngày và 10 ngày. Diễn giải: · Ở những bệnh nhân nhập viện với COVID-19 nặng không được thở máy hoặc ECMO, điều trị RDV trong 5 hoặc 10 ngày có lợi ích lâm sàng tương tự. |
Từ khóa: AE = tác dụng phụ; ALT = alanin transaminase; AST = aspartate aminotransferase; AZM = azithromycin; CrCl = độ thanh thải creatinin; ECMO = oxy hóa màng ngoài cơ thể; eGFR = mức lọc cầu thận ước tính; HCQ = hydroxychloroquine; IFN = interferon; ITT = ý định điều trị; IV = tiêm tĩnh mạch; LPV/RTV = lopinavir/ritonavir; the Panel = Ban Hướng dẫn Điều trị SARS-COV-2; PaO2/FiO2 = tỷ lệ giữa áp suất riêng phần của oxy trong máu động mạch và phần trăm phân áp của oxy hít vào; RCT = thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên; RDV = remdesivir; RRR = tỷ lệ tốc độ hồi phục; SAE = tác dụng phụ nghiêm trọng; SARS-CoV-2 = coronavirus ; ARDS=hội chứng hô hấp cấp tính nặng; SOC = tiêu chuẩn chăm sóc; SpO2 = độ bão hòa của oxy; ULN = giới hạn trên của bình thường
Thông tin tham khảo
1. Wang M, Cao R, Zhang L, et al. Remdesivir and chloroquine effectively inhibit the recently emerged novelcoronavirus (2019-nCoV) in vitro. Cell Res. 2020;30(3):269-271. Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/32020029.
2. Williamson BN, Feldmann F, Schwarz B, et al. Clinical benefit of remdesivir in rhesus macaques infected with SARS-CoV-2. Nature. 2020;585(7824):273-276. Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/32516797.
3. Remdesivir (Veklury) [package insert]. Food and Drug Administration. 2020. Available at: https://www.accessdata.fda.gov/drugsatfda_docs/label/2020/214787Orig1s000lbl.pdf
4. Committee for Human Medicinal Products. Background review for cyclodextrins used as excipients. 2014.Available at: https://www.ema.europa.eu/en/documents/report/background-review-cyclodextrins-used-excipients-context-revision-guideline-excipients-label-package_en.pdf.
5. Adamsick ML, Gandhi RG, Bidell MR, et al. Remdesivir in patients with acute or chronic kidney disease and COVID-19. J Am Soc Nephrol. 2020;31(7):1384- 1386. Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/32513665.
6. Pettit NN, Pisano J, Nguyen CT, et al. Remdesivir use in the setting of severe renal impairment: a theoreticalconcern or real risk? Clin Infect Dis. 2020; Published online ahead of print. Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/33315065.
7. Ackley TW, McManus D, Topal JE, Cicali B,Shah S. A valid warning or clinical lore: an evaluation of safety outcomes of remdesivir in patients with impaired renal function from a multicenter matched cohort. Antimicrob Agents Chemother. 2021;65(2). Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/33229428.
8. Burwick RM, Yawetz S, Stephenson KE, et al. Compassionate use of remdesivir in pregnant women withsevere SARS-CoV-2. Clin Infect Dis. 2020;Published online ahead of print. Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/33031500.
9. Beigel JH, Tomashek KM, Dodd LE, et al. Remdesivir for the treatment of COVID-19—final report. N Engl J Med. 2020. Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/32445440.
10. Wang Y, Zhang D, Du G, et al. Remdesivir in adults with severe COVID-19: a randomised, double-blind, placebo- controlled, multicentre trial. Lancet. 2020;395(10236):1569-1578. Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/32423584.
11. WHO Solidarity Trial Consortium, Pan H, Peto R, et al. Repurposed antiviral drugs for COVID-19—interim WHO Solidarity Trial results. N Engl JMed. 2020. Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/33264556.
12. Spinner CD, Gottlieb RL, Criner GJ, et al. Effect of remdesivir vs standard care on clinical status at 11 days in patients with moderate COVID-19: a randomized clinical trial. JAMA. 2020;324(11):1048-1057. Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/32821939.
13. Goldman JD, Lye DCB, Hui DS, et al. Remdesivir for 5 or 10 days in patients with severe COVID-19. N Engl J Med. 2020. Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/32459919.