Omega 3
Biên soạn và Hiệu đính
Dược sĩ Xuân Hạo
Danh pháp
Tên chung quốc tế:
Omega−3 fatty acids
Nhóm thuốc:
Thuốc làm giảm Lipid máu
Mã UNII
71M78END5S
Mã CAS
329042-31-1
Cấu trúc phân tử
Axit béo omega-3 là một họ gồm các axit béo không no có nhiều liên kết đôi , trong đó liên kết đôi đầu tiên nằm giữa nguyên tử cacbon thứ ba và thứ tư tính từ đuôi chuỗi nguyên tử cacbon. Axit béo omega-3 chuỗi ngắn có ít hơn 18 chuỗi nguyên tử cacbon, trong khi axit béo omega-3 “chuỗi dài” có chuỗi từ 20 trở lên. Omega-3 (w– 3 hoặc n – 3) nghĩa chỉ ra rằng có nối đôi đầu tiên ở C thứ 3, tính từ gốc metyl.
Ba axit béo omega-3 rất quan trọng trong sinh lý con người là axit α-linolenic (18: 3, n -3; ALA), được tìm thấy trong dầu thực vật, axit eicosapentaenoic (20: 5, n -3; EPA) và axit docosahexaenoic (22: 6, n -3; DHA), cả hai thường được tìm thấy trong các loại dầu sinh vật biển.
Công thức phân tử:
Axit α-linolenic (18: 3, n -3; ALA): C18H30O2
Axit eicosapentaenoic (20: 5, n -3; EPA): C20H30O2
Axit docosahexaenoic (22: 6, n -3; DHA): C22H32O2
Phân tử lượng
Axit α-linolenic (18: 3, n -3; ALA): 278.4 g/mol
Axit eicosapentaenoic (20: 5, n -3; EPA): 302.5 g/mol
Axit docosahexaenoic (22: 6, n -3; DHA): 328.5 g/mol
Cấu trúc phân tử
Các tính chất đặc trưng
Omega 3 được tìm thấy nhiều trong mỡ cá, nhất là cá ở các vùng biển lạnh như ( cá cơm, cá trích, cá thu, cá ngừ, cá mòi, cá hồi, cá tuyết, cá voi, hải cẩu…) và trong các thực phẩm sử dụng thường ngày như dầu hạt cải, dầu hạt lanh và hạt lanh, hạt chia, quả óc chó, dầu đậu nành,… Các nghiên cứu cho thấy, omega 3 rất quan trọng cho cơ thể, nó giúp giảm nguy cơ mắc ung thư, cải thiện chất lượng giấc ngủ, tốt cho da, ngăn ngừa lão hóa sớm và mụn
Dạng bào chế
Viên nang uống hàm lượng: 1000 mg; 1050 mg; 1200 mg; 200 mg; 350 mg; 500 mg; 667 mg
Viên nang phóng thích chậm, hàm lượng: 1100 mg.
Hỗn dịch uống hàm lượng: 1400 mg / 5 mL; 1600 mg / 5 mL; với Vitamin D và E
Viên uống, nhai hàm lượng: 425 mg
Độ ổn định và điều kiện bảo quản
Omega-3 là loại chất béo kém bền nhất, nó rất dễ bị oxy hóa bởi các tác nhân nhiệt độ, oxy và ánh sáng mặt trời và làm cho chúng trở nên độc hại.
Nguồn gốc
Trong khi protein và carbohydrate được biết đến là những thành phần quan trọng của chế độ ăn uống, thì vào thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, chất béo không được coi là thiết yếu vì axit béo cũng có thể được tạo ra trong cơ thể từ carbohydrate.
Tuy nhiên, hai nhà khoa học đã đưa ra nghiên cứu mang tính đột phá có thể thay đổi quan điểm đã được xác lập trước đó. Nhóm nghiên cứu của vợ chồng George và Mildred Burr đã phát hiện ra rằng những con chuột được cho ăn chế độ ăn hoàn toàn không có chất béo bị mắc bệnh thiếu chất, có thể chữa khỏi bằng cách cho chuột ăn axit linoleic, nghĩa là axit béo thực sự là chất dinh dưỡng thiết yếu. Từ đó, Burrs kết luận rằng các axit béo không bão hòa khác như omega-6 và omega-3 cũng rất cần thiết cho sức khỏe. Việc phát hiện ra các axit béo thiết yếu đã thay đổi mô hình, và hiện nó được coi là một trong những khám phá mang tính bước ngoặt trong nghiên cứu dinh dưỡng.
Mặc dù người Burrs đã đạt được những kết quả tuyệt vời với nghiên cứu axit béo thiết yếu của họ vào những năm 1920, nhưng phải đến hơn 40 năm sau, lợi ích của omega-3 mới được tìm hiểu đầy đủ.
Vào cuối những năm 1960, các nhà khoa học Đan Mạch nghiên cứu người Inuit ở Greenland đã rất ngạc nhiên về mức độ khỏe mạnh của họ, mặc dù chế độ ăn nhiều chất béo gồm thịt hải cẩu, cá và cá voi. Sau đó, Tiến sĩ Dyerberg và Giáo sư Hans Olaf Bang, đã đến Greenland và kiểm tra lipid máu của người Inuit để tìm hiểu lý do. Tiến sĩ Dyerberg giải thích những gì họ tìm thấy mức độ lipid trong máu của họ ở mức thuận lợi, nhưng không thể giải thích tại sao họ có gần 1/10 tỷ lệ mắc bệnh tim mạch vành của người Mỹ và Đan Mạch vào thời điểm đó. Vì vậy, họ đã đi sâu hơn vào việc phân tích máu, mất gần hai năm mới phát hiện ra nó có chứa hai loại axit béo mà trước đây không ai để ý đến đó là EPA và DHA – hai cái tên mà bây giờ rất quen thuộc với nhiều người. Trong những năm tiếp theo, nhiều nghiên cứu đã đưa ra kết luận tương tự và ngày nay, Cơ quan An toàn Thực phẩm Châu Âu (EFSA) vẫn ủng hộ tuyên bố rằng 3.000mg DHA và EPA mỗi ngày có thể duy trì một trái tim khỏe mạnh và huyết áp khỏe mạnh.
ALA có trong rau xanh, trong dầu hạt lanh, dầu đậu nành, quả óc chó, cây cải dầu.
EPA và DHA có mặt chủ yếu ở dầu cá, ở cá béo (cá thu, cá hồi, cá trích, cá ngừ, cá trổng, cá sardine…)
Công dụng của Omega-3
Omega-3 là chất dinh dưỡng có nguồn gốc từ thực phẩm (hoặc chất bổ sung) giúp xây dựng và duy trì một cơ thể khỏe mạnh. Chúng là một thành phần quan trọng tạo nên màng tế bào. Chúng cũng là một nguồn năng lượng và giúp giữ cho tim, phổi, mạch máu và hệ thống miễn dịch của bạn hoạt động như bình thường.
Axit béo omega-3 rất cần thiết cho cơ thể bởi vì con người không có khả năng tự tạo ra chúng – các axit béo hoặc tiền chất của omega-3 phải được lấy từ chế độ ăn uống hoặc thực phẩm chức năng của chúng
Lợi ích khi bổ sung Omega-3 đầy đủ
Hàng ngàn nghiên cứu y tế đã chứng minh vai trò có lợi của chúng đối với hoạt động bình thường của tim, não và mắt.
Chúng cũng tham gia vào các quá trình viêm bằng cách điều chỉnh quá trình viêm, bởi vì chúng hình thành sự biểu hiện của các gen liên quan đến nó. Về cơ bản, axit béo Omega 3 làm giảm các tế bào và con đường NF-κB thúc đẩy quá trình viêm và tăng sự biểu hiện của protein MGST1 được tìm thấy trong lưới nội chất và trong màng ngoài ty thể và có liên quan đến việc ngăn ngừa viêm vì nó bảo vệ chống lại stress oxy hóa.
Omega 3 có khả năng làm giảm chất béo trung tính và thúc đẩy tuần hoàn máu tốt bằng cách ức chế quá trình hoạt hóa tiểu cầu bởi các sản phẩm lipoxygenase.
Đối với hoạt động của não
Khoảng 70% bộ não bao gồm chất béo, một phần lớn trong số đó là Omega-3, chúng được gọi là thực phẩm của não và rất cần thiết cho sự phát triển và hoạt động bình thường của não.
Đối với sức khỏe tim mạch
Bổ sung axit béo omega-3 làm giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh tim. Hiện nay khoa học đã chứng minh rằng các axit béo không bão hòa làm giảm chứng viêm, vốn có thể làm hỏng các mạch máu và dẫn đến bệnh tim và đột quỵ. Chúng cũng có khả năng làm giảm mức cholesterol tăng cao và giảm chất béo trung tính và có thể ức chế sự tích tụ mảng bám trong động mạch. Chúng có thể được kết hợp vào lớp kép của phospholipid của màng tế bào và ảnh hưởng đến tính lưu động và tín hiệu của màng. Chúng hình thành chức năng của các kênh ion màng, chẳng hạn như kênh L và L, và do đó có thể làm giảm nguy cơ nhịp tim không đều (loạn nhịp tim) và cũng hoạt động như một biện pháp phòng ngừa. Ngoài ra, Omega 3 còn ngăn chặn quá trình chuyển đổi axit arachidonic thành eicosanoids tiền viêm, hoạt động như một chất nền thay thế cho cyclooxygenase hoặc lipoxygenase, dẫn đến việc sản xuất ít sản phẩm phụ mạnh hơn. Cuối cùng, các chất chuyển hóa oxy hóa bằng enzym có nguồn gốc từ Omega 3 gần đây đã được xác định là chất trung gian chống viêm (phân giải, lipoxit, v.v.) góp phần vào các tác dụng có lợi của Omega 3 đối với sức khỏe tim mạch.
Đối với sức khỏe của mắt
Neuroprotectin là một chất truyền tin lipid được tạo ra, nó đã làm nổi bật vai trò quý giá của Omega 3 và sức khỏe của mắt. Thành phần của nó phụ thuộc vào sự sẵn có của DHA trong một số nhóm phospholipid nhất định. DHA có nguồn gốc từ omega-3 được chuyển hóa ở gan và sau đó được gửi đến võng mạc và các nơi khác. Sau khi được kết hợp vào màng của các phospholipid, chúng được phân phối đến các tế bào biểu mô sắc tố.
Ngoài ra, các thụ thể ánh sáng và màng tế bào não, mô giàu thứ hai về DHA, có thể phát ra tín hiệu khiến gan tiết ra phospholipid làm giàu DHA, bất cứ khi nào cần thiết. Quá trình hình thành sinh học của tế bào cảm thụ ánh sáng, cũng như quá trình hình thành khớp thần kinh trong quá trình phát triển sau khi sinh, tích cực tích lũy DHA. Do đó, nhu cầu cung cấp các yếu tố cấu trúc DHA cho các thụ thể quang có thể là một phản ứng sửa chữa sinh học sớm! Do đó, khi nguồn cung cấp DHA cho các tế bào cảm thụ ánh sáng bị giảm, những thay đổi có hại trong chức năng của chúng cũng có thể xảy ra.
Các nguồn thực phẩm giàu Omega-3
ALA là acid béo “thiết yếu” với cơ thể, vì không tạo thành được trong cơ thể, cần phải nhập từ bên ngoài.
Ngược lại EPA và DHA không thực sự “thiết yếu” như ALA, vì có thể tạo được trong cơ thể thông qua ALA. Tuy nhiên, sự tạo thành EPA và DHA không đủ, vì tạo rất chậm và có giới hạn. Do đó cũng cần phải bổ sung thêm từ bên ngoài
Omega-3 có nhiều trong các loại cá như: Cá cơm, Cá trích .Cá thu. Cá hồi. Cá mòi. Cá tầm. Cá ngừ….
Ngoài ra còn có trong các loại thực phẩm khác như: Rau xanh, ,Quả óc chó. Dầu hạt lanh và hạt lanh. Dầu canola. Dầu đậu nành. Hạt chia…
Phương pháp sản xuất
Phương pháp thủy nhiệt (thủy phân ở nhiệt độ cao)
Ở phương pháp này, dùng nhiệt độ dùng để thuỷ phân protein, màng tế bào và phá vỡ một phần liên kết lipit, giải phóng dầu. Nhiệt độ còn tiêu diệt vi sinh vật, enzyme để bảo quản dầu béo được lâu hơn.
Phương pháp hoá học
Dùng enzyme thuỷ phân để trích ly dầu, tác dụng của enzyme là thuỷ phân phá vỡ màng tế bào để giải phóng dầu. Phương pháp này có ưu điểm là dùng thiết bị đơn giản, tuy nhiên, nhược điểm là dầu có màu tối do quá trình enzyme hoạt động làm cho thời gian thuỷ phân chậm, một số chất thay đổi và màu thay đổi.
Phương pháp cơ học
Phương pháp này sử dụng lực cơ học để xay nhỏ nguyên liệu rồi mang ép để thu dầu, ưu điểm là dầu ít hao tổn tuy nhiên hiệu suất thấp do không tách được lipid, muốn thực hiện phương pháp này thì phải sử dụng kết hợp với phương pháp nhiệt.
Còn một số phương pháp sản xuất dầu omega-3 khác như: phương pháp chiết bằng dung môi, phương pháp đông lạnh.
Tương tác với thuốc khác
Có 72 tương tác thuốc/ nhóm thuốc được tán thành là có tương tác khi dùng chung với Omega-3. Tuy nhiên không có tương tác thuốc nào ở mức độ nguy hiểm, dưới đây là 10 thuốc/ nhóm thuốc đã được thực nghiệm khả năng tương tác với Omega-3 trên lâm sàng:
Antithrombin III | Axit béo omega-3 có thể làm tăng tác dụng dược lý của antithrombin III ảnh hưởng đến quá trình cầm máu. |
Bromfenac | Axit béo omega-3 có thể làm tăng tác dụng dược lý của bromfenac làm ảnh hưởng đến quá trình cầm máu |
Clopidogrel | Axit béo omega-3 làm tăng nguy cơ chảy máu khi kết hợp với clopidogrel |
Diclofenac | Axit béo omega-3 làm tăng nguy cơ chảy máu khi kết hợp với diclofenac |
Heparin | Axit béo omega-3 có thể làm tăng tác dụng dược lý của heparin ảnh hưởng đến quá trình cầm máu |
Ketoprofen | Axit béo omega-3 làm tăng nguy cơ chảy máu khi kết hợp với ketoprofen |
Oxaprozin | Axit béo omega-3 làm tăng nguy cơ chảy máu khi kết hợp với oxaprozin |
Rivaroxaban | Axit béo omega-3 làm tăng nguy cơ chảy máu khi kết hợp với Rivaroxaban |
Ticagrelor | Axit béo omega-3 có thể làm tăng tác dụng dược lý của ticagrelor ảnh hưởng đến quá trình cầm máu. |
Tinzaparin | Axit béo omega-3 có thể làm tăng tác dụng dược lý của tinzaparin ảnh hưởng đến quá trình cầm máu. |
Một vài nghiên cứu của Omega-3 trong Y học
Axit béo omega-3 làm giảm nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc phổi sau phẫu thuật cho bệnh nhân lớn tuổi bị gãy xương đùi gần: một thử nghiệm lâm sàng mù đôi có đối chứng với giả dược ngẫu nhiên
Cơ sở: Bệnh nhân cao tuổi bị gãy xương đùi gần phải đối mặt với nguy cơ cao bị huyết khối tĩnh mạch sâu sau mổ và thuyên tắc phổi do không có phương án điều trị phù hợp sau phẫu thuật và ra viện. Nghiên cứu này nhằm mục đích điều tra tác động của việc bổ sung axit béo omega-3 trong bệnh cảnh lâm sàng được mô tả ở trên.
Phương pháp: Năm trăm bảy bệnh nhân cao tuổi (> 60 tuổi) bị gãy xương đùi gần được tuyển chọn. Sau khi loại trừ, 452 bệnh nhân đủ điều kiện được chỉ định ngẫu nhiên nhận axit béo omega-3 với liều hàng ngày 1000 mg hoặc giả dược, qua đường uống trong thời gian 30 ngày sau phẫu thuật. Khi kết thúc can thiệp, tỷ lệ thuyên tắc phổi, huyết khối tĩnh mạch sâu và các biến chứng liên quan khác được so sánh giữa hai nhóm nghiên cứu.
Kết quả: Tỷ lệ thuyên tắc phổi cũng như huyết khối tĩnh mạch sâu, bao gồm cả các biến cố dẫn đến tử vong, đã giảm đáng kể nhờ can thiệp axit béo omega-3 trong 30 ngày. Nhưng các biến chứng liên quan khác, chẳng hạn như thoát máu tụ, chảy máu vết thương sau phẫu thuật, vết thương nhiễm trùng với mủ và các trường hợp chảy máu khác cần truyền máu, không bị ảnh hưởng sau khi tiêu thụ axit béo omega-3.
Kết luận: Việc bổ sung axit béo omega-3 hàng ngày làm giảm nguy cơ thuyên tắc phổi cũng như triệu chứng huyết khối tĩnh mạch sâu, sau phẫu thuật ở những bệnh nhân cao tuổi bị gãy xương đùi gần, mà không làm tăng nguy cơ xuất huyết.
Omega-3 fatty acids reduce postoperative risk of deep vein thrombosis and pulmonary embolism after surgery for elderly patients with proximal femoral fractures: a randomized placebo-controlled, double-blind clinical trial
https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/32440816/
Tài liệu tham khảo
- 1. Drugbank, Omega-3, truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2022.
- 2. Pubchem, Omega-3, truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2022.
- 3. Drugs.com, Interactions checker, Omega-3, truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2022.
- 4. Zheng, X., Jia, R., Li, Y., Liu, T., & Wang, Z. (2020). Omega-3 fatty acids reduce post-operative risk of deep vein thrombosis and pulmonary embolism after surgery for elderly patients with proximal femoral fractures: a randomized placebo-controlled, double-blind clinical trial. International orthopaedics, 44(10), 2089-2093.
Xuất xứ: Mỹ
Vitamin & khoáng chất (trước & sau sinh)/Thuốc trị thiếu máu
Xuất xứ: Mỹ
Xuất xứ: Mỹ
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Nhật Bản
Xuất xứ: Nhật Bản
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: New Zealand
Xuất xứ: New Zealand
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Nhật Bản
Xuất xứ: Úc
Xuất xứ: Úc
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Mỹ
Hướng thần kinh, Bổ thần kinh
Xuất xứ: Úc (Australia)
Xuất xứ: Mỹ
Xuất xứ: Hoa Kỳ
Xuất xứ: Mỹ
Xuất xứ: Úc
Xuất xứ: Nga
Xuất xứ: Úc
Xuất xứ: Mỹ