Neostigmine (Synstigmine)
Danh pháp
Tên chung quốc tế
Neostigmine (Synstigmine)
Tên danh pháp theo IUPAC
[3-(dimethylcarbamoyloxy)phenyl]-trimethylazanium
Nhóm thuốc
Thuốc kháng cholinesterase, thuốc tác dụng giống thần kinh đối giao cảm
Mã ATC
N – Thuốc hệ thần kinh
N07 – Thuốc khác về hệ thần kinh
N07A – Thuốc giống đối giao cảm
N07AA – Các kháng Anticholinesterase
N07AA01 – Neostigmine
S – Các giác quan
S01 – Thuốc mắt
S01E – Thuốc chống Glôcôm và thuốc co đồng tử
S01EB – Các thuốc giống đối giao cảm
S01EB06 – Neostigmine
Mã UNII
3982TWQ96G
Mã CAS
59-99-4
Cấu trúc phân tử
Công thức phân tử
C12H19N2O2+
Phân tử lượng
223.29 g/mol
Cấu trúc phân tử
Neostigmine là một ion amoni bậc bốn bao gồm lõi ion anilinium có ba nhóm thế methyl trên nitơ anilin và một nhóm thế 3-[(dimethylcarbamoyl)oxy] ở vị trí 3.
Các tính chất phân tử
Số liên kết hydro cho: 0
Số liên kết hydro nhận: 2
Số liên kết có thể xoay: 3
Diện tích bề mặt tôpô: 29.5Ų
Số lượng nguyên tử nặng: 16
Các tính chất đặc trưng
Độ tan trong nước: 0.0677 mg/mL
Chu kì bán hủy: 0,5 – 2 giờ
Khả năng liên kết với Protein huyết tương: 15 – 25%
Dạng bào chế
Ống tiêm (neostigmin methylsulfat): 0,25 mg/1 ml; Thuốc Neostigmine 0.5 mg/1 ml; 1 mg/ml ; 2,5 mg/ml ; 5 mg/10 ml; 10 mg/10 ml.
Viên nén (neostigmin bromid): 15 mg.
Độ ổn định và điều kiện bảo quản
Bảo quản trong bao bì kín ở nhiệt độ 15 – 30 độ C. Tránh để lạnh và tránh ánh sáng. Để tránh xa tầm với của trẻ em.
Tránh dùng neostigmin và atropin trong cùng một bơm tiêm, vì có khả năng gây phản ứng.
Nguồn gốc
Neostigmine là thuốc gì? Neostigmine là một loại thuốc được sử dụng để tăng cường chức năng cơ bắp và thần kinh trung ương. Neostigmin thuộc nhóm thuốc nào? Nó thuộc nhóm thuốc cholinesterase inhibitors, có khả năng ức chế enzyme cholinesterase, từ đó làm tăng mức acetylcholine trong hệ thần kinh.
Neostigmine được phát hiện và phát triển bởi Aeschlimann và Reinert. Ban đầu, Aeschlimann đã thực hiện nghiên cứu về sự tác động của các hợp chất khác nhau lên chức năng thần kinh trung ương và cơ bắp. Cuối cùng, ông đã phát hiện ra tác dụng ức chế enzyme cholinesterase của neostigmine và khả năng tăng cường hoạt động cholinergic.
Sự phát hiện này diễn ra vào những năm 1930, và neostigmine sau đó đã được sử dụng rộng rãi trong y học để điều trị các tình trạng liên quan đến suy nhược cơ bắp và rối loạn chức năng thần kinh.
Dược lý và cơ chế hoạt động
Cơ chế tác dụng của neostigmin? Neostigmine là một dạng thuốc kháng cholinesterase, có tác dụng bằng cách ức chế sự phân hủy của acetylcholine thông qua việc cạnh tranh có thể đảo ngược với acetylcholine để kết hợp với enzym acetylcholinesterase.
Phức hợp giữa neostigmine và enzym được phân hủy chậm hơn đáng kể so với phức giữa acetylcholine và enzym. Kết quả, acetylcholine tăng trong các khe nối thần kinh và cơ, dẫn đến tăng cường và kéo dài hiệu ứng cholinergic.
Neostigmine tạo ra một phản ứng lan tỏa cholinergic, bao gồm co thắt đồng tử, gia tăng lực co cơ ruột và cơ xương, co thắt phế quản và niệu quản, giảm nhịp tim, kích thích tuyến nước bọt và tuyến mồ hôi. Hơn nữa, neostigmine cũng có khả năng hoạt động trực tiếp lên cơ xương giống như acetylcholine.
Nhờ cấu trúc ammoni bậc 4, neostigmine thường không thể vượt qua hàng rào máu não ở liều trung bình để tác động lên hệ thần kinh trung ương. Mặc dù vậy, liều cực cao có thể gây kích thích hệ thần kinh trung ương, sau đó là ức chế, gây ra tình trạng suy hô hấp, liệt và thậm chí tử vong.
Neostigmine cũng có khả năng giảm tác động tương tự curare lên cơ xương và làm giảm hiệu ứng ức chế cơ hô hấp của curare. Tuy nhiên, khả năng đối kháng của neostigmine chỉ giới hạn đối với loại curare “giãn cơ tác động ngoại vi và không khử cực”. Đối với các loại curare kháng cực bền ở tấm vận động, như suxamethonium, neostigmine không thể đối kháng.
Khi kết hợp với suxamethonium, neostigmine có thể gây ra giãn cơ tăng cường và tăng nguy cơ suy hô hấp, điều này cần được chú ý quan tâm.
Khả năng kháng cholinesterase của neostigmine có tính chất đảo ngược. Thuốc được sử dụng dưới dạng muối bromide (để uống hoặc Neostigmine Methylsulfate nhỏ mắt) và Neostigmin methylsulfat (tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm dưới da).
Neostigmine được ứng dụng trong việc điều trị bệnh nhược cơ và cũng thay thế edrophonium trong việc chẩn đoán bệnh nhược cơ. Đặc biệt, neostigmine bromide có thể hữu ích cho việc điều trị bệnh nhược cơ dài hạn thông qua đường uống ở những bệnh nhân có khả năng nuốt. Mặc dù vậy, trong thực tế, nhiều bác sĩ chọn pyridostigmine làm thuốc uống bởi thời gian tác dụng kéo dài và mức độ phản ứng không mong muốn với các triệu chứng muscarinic thường thấp hơn.
Neostigmine không có hiệu quả đối với bệnh nhân kháng với các loại kháng cholinesterase khác.
Neostigmine methylsulfate được dùng để điều trị những cơn tụt huyết cấp tính trong bệnh nhược cơ và bệnh nhược cơ ở trẻ sơ sinh và khi việc dùng đường uống không thể thực hiện được.
Ngoài ra, neostigmine còn được sử dụng để đảo ngược tình trạng phong tỏa thần kinh – cơ gây ra bởi các thuốc kháng cơ cạnh tranh; phòng và điều trị chướng bụng sau phẫu thuật và táo bón (ngoại trừ trường hợp tắc nghẽn cơ học); tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sự lựa chọn chính là bethanechol chloride hoặc giải phẫu thông.
Cần lưu ý rằng, tại các liều điều trị cao hơn, neostigmine có thể gây ra nhiều tác dụng phụ muscarinic nặng hơn so với pyridostigmine hoặc ambenonium.
Ứng dụng trong y học
Một trong những ứng dụng chính của neostigmine là trong việc điều trị suy cơ, một tình trạng mà cơ bắp trở nên yếu đuối và mất khả năng hoạt động đúng cách. Suy cơ có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm các bệnh liên quan đến thần kinh như bệnh thần kinh cơ, bệnh thần kinh ngoại biên, và cả các vấn đề nội tiết.
Thuốc giải giãn cơ Neostigmine hoạt động bằng cách ức chế enzyme cholinesterase, làm tăng mức acetylcholine trong hệ thần kinh. Acetylcholine là một chất truyền tín hiệu quan trọng giữa các tế bào thần kinh và cơ bắp, từ đó tăng cường sự co bóp cơ bắp và cải thiện khả năng hoạt động cơ bắp.
Neostigmine cũng được sử dụng trong việc quản lý tình trạng suy thận và tắc nghẽn ruột. Ở những người bị suy thận, việc loại bỏ chất thải khỏi cơ thể trở nên khó khăn, dẫn đến mệt mỏi và biểu hiện suy nhược. Neostigmine có thể giúp tăng cường hoạt động ruột và cải thiện quá trình loại bỏ chất thải, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Ngoài ra, neostigmine còn được sử dụng trong quá trình phục hồi từ tình trạng gây mê do thuốc gây tê. Thuốc gây tê thường làm suy yếu chức năng cơ bắp và làm chậm quá trình hô hấp. Bằng cách tăng cường tác động của acetylcholine, neostigmine có thể giúp bệnh nhân tỉnh táo và phục hồi chức năng cơ bắp sau khi phẫu thuật.
Dược động học
Hấp thu
Liều neostigmin giải giãn cơ? Neostigmine, một hợp chất ammonium bậc bốn và dạng muối bromide, trải qua quá trình hấp thu khá kém qua đường tiêu hóa. Đối với bệnh nhân bị bệnh nhược cơ hoặc áp dụng chế độ ăn kiêng, sau khi uống một liều đơn 30 mg, chỉ có khoảng 1 – 2% lượng thuốc được hấp thu. Nồng độ đỉnh trong huyết thanh thường đạt được sau khoảng 1 – 2 giờ sau khi uống hoặc 30 phút sau khi tiêm bắp.
Thời gian tác dụng của neostigmine khác nhau tùy thuộc vào từng bệnh nhân bị bệnh nhược cơ. Tuy nhiên, thuốc thường bắt đầu có tác dụng nhanh hơn so với pyridostigmine, và thời gian tác dụng ngắn hơn so với pyridostigmine hoặc ambenonium, nhưng lại kéo dài hơn so với edrophonium. Khi được tiêm tĩnh mạch, neostigmine thường bắt đầu tác dụng trong khoảng 1 – 20 phút và duy trì trong khoảng 1 – 2 giờ. Khi tiêm bắp, tác dụng của thuốc thường xuất hiện sau 20 – 30 phút và kéo dài từ 2,5 – 4 giờ.
Phân bố
Neostigmine không thể thâm nhập qua hàng rào nhau thai và không chuyển sang sữa mẹ khi sử dụng liều điều trị. Khoảng 15 – 25% lượng neostigmine kết hợp với protein trong huyết thanh.
Chuyển hóa
Enzym acetylcholinesterase thủy phân neostigmine thành 3-hydroxyphenyltrimethylammonium (3-OH PTM), một chất có hoạt tính tương tự nhưng yếu hơn so với neostigmine. Neostigmine cũng trải qua quá trình chuyển hóa ở gan.
Thải trừ
Khi được cấp dưới dạng muối methylsulfate để tiêm, neostigmine được thải ra khỏi cơ thể nhanh chóng và được bài tiết qua nước tiểu ở dạng nguyên chất và dạng chuyển hóa. Thời gian bán rã của thuốc ở người có chức năng thận bình thường dao động từ 0,5 – 2 giờ, và kéo dài hơn ở người bị bệnh thận giai đoạn cuối.
Phương pháp sản xuất
Trong quá trình sản xuất, Neostigmine được chế tạo thông qua một loạt phản ứng. Ban đầu, 3-dimethylaminophenol phản ứng với N-dimethylcarbamoyl clorua, hình thành hợp chất dimethylcarbamate. Bước tiếp theo, sản phẩm này trải qua quá trình alkyl hóa bằng dimethyl sulfate, tạo nên thành phẩm cuối cùng là neostigmine.
Độc tính ở người
Hiện chưa có đủ thông tin đáng tin cậy để đánh giá chính xác mức độ nguy cơ của các phản ứng không mong muốn (ADR) do neostigmine trong nhiều trường hợp khác nhau. Tuy vậy, nói chung, các ADR thường có liên quan trực tiếp đến tác động liệt thần kinh đối giao cảm của thuốc và những triệu chứng này thường xảy ra thường xuyên.
Sự thiếu hiện diện của các triệu chứng như co đồng tử, tăng tiết nước bọt và nước mắt thường được coi là biểu hiện của liều neostigmine quá thấp. Trái lại, ADR nghiêm trọng như co thắt phế quản, hen suyễn và nhịp tim chậm thường là tín hiệu của quá liều. Các ADR khác như chứng hôn mê và phản ứng tại chỗ sau tiêm thường rất hiếm.
Cách để hạn chế ADR của neostigmine là cân nhắc điều chỉnh liều. Tùy thuộc vào tình hình, triệu chứng muscarinic có thể giảm hoặc loại bỏ bằng cách kết hợp với atropin. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng những triệu chứng này có thể là tín hiệu đầu tiên của quá liều neostigmine và việc sử dụng atropin có thể làm che mờ những dấu hiệu này, gây khó khăn cho việc nhận biết tình trạng quá liều sớm.
Triệu chứng quá liều neostigmine thường bao gồm cả những triệu chứng muscarinic và nicotinic, kèm theo các dấu hiệu liên quan đến hệ thần kinh trung ương. Những biểu hiện trên hệ thần kinh trung ương có thể bao gồm sự lú lẫn, thất điều, nói líu nhíu, tình trạng lo âu, sợ hãi, mất phản xạ, mẫn cảm với ánh sáng, nhịp thở đều (Cheyne-Stockes), co giật toàn thân, hôn mê và thậm chí liệt hô hấp trung ương. Tác động đối với hệ vận mạch và các trung tâm tim mạch ở não thường gây hạ huyết áp.
Các triệu chứng muscarinic có thể bao gồm mất tầm nhìn rõ, chảy nước mắt quá mức, tăng tiết mồ hôi, tiêu chảy nặng, tăng tiết dịch đường hô hấp và nước bọt, nôn mửa, thở nông, cản trở trong hô hấp, thở khò khè, căng ngực, nhịp tim chậm hoặc nhanh, chuột rút cơ hoặc co giật cơ.
Những triệu chứng nicotinic thường kết hợp với sự tăng yếu cơ hoặc liệt, đặc biệt tại vùng cánh tay, cổ, vai, lưỡi và thậm chí có thể gây ra chuột rút cơ hoặc co giật cơ.
Quá liều neostigmine có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, đặc biệt do sự suy hô hấp, tác động kết hợp của triệu chứng muscarinic, nicotinic và trung ương hoặc thậm chí là ngừng tim.
Trong trường hợp quá liều neostigmine, việc duy trì hô hấp đầy đủ thông qua các biện pháp phù hợp là quan trọng nhất, có thể cần đến cung cấp oxy. Nếu việc uống neostigmine diễn ra chưa quá 1 giờ, việc rửa dạ dày hoặc uống than hoạt tính có thể giúp giảm hấp thu thuốc.
Sử dụng atropin có thể hỗ trợ điều trị quá liều neostigmine bằng cách tiêm tĩnh mạch 1 – 4 mg, hoặc tiêm bắp 2 mg, mỗi 5 – 30 phút một lần, cho đến khi các triệu chứng muscarinic giảm đi, nhưng cần tránh quá liều atropin. Lưu ý, atropin không làm giảm triệu chứng nicotinic như tình trạng yếu cơ hoặc liệt; trong trường hợp co giật cơ, có thể cân nhắc sử dụng một liều nhỏ của chất chẹn thần kinh cơ cạnh tranh để kiểm soát. Bên cạnh đó, cũng cần phải áp dụng các biện pháp hỗ trợ điều trị quá liều neostigmine.
Tính an toàn
Hiện vẫn chưa có tài liệu đầy đủ và đáng tin cậy liên quan đến tác động gây hại của chất ức chế cholinesterase đối với thai nhi. Mặc dù vậy, đã ghi nhận vài trường hợp trẻ sơ sinh thể hiện triệu chứng tạm thời của yếu cơ khi mẹ sử dụng neostigmine trong thời kỳ mang thai. Do đó, việc sử dụng neostigmine cần phải được xem xét kỹ lưỡng, và lợi ích điều trị phải được đánh giá cao hơn nguy cơ có thể có.
Các loại thuốc kháng cholinesterase có khả năng gây kích thích tử cung và nguy cơ gây sinh non khi được tiêm tĩnh mạch cho phụ nữ mang thai gần thời kỳ sinh.
Neostigmine cũng được bài tiết vào sữa mẹ với mức độ rất nhỏ. Tuy thuốc có thể được sử dụng trong thời kỳ cho con bú, nhưng việc kiểm soát cẩn thận khi cho con bú là cần thiết.
Tương tác với thuốc khác
Thuốc chứa chất chẹn thần kinh cơ như kháng sinh aminoglycosid, clindamycin, colistin, cyclopropan và các thuốc gây mê đường hô hấp gây ra bởi các chất halogen có thể làm suy giảm tác dụng của neostigmine.
Neostigmine tương tác với các thuốc gây mê đường hô hấp hydrocarbon như cyclopropan, cloroform, enfluran, methoxylfluran, halothan và tricloroethylen. Tác động ức chế cholinesterase trong huyết tương do sử dụng các loại thuốc kháng cholinesterase có thể làm giảm quá trình chuyển hóa của các loại thuốc gây mê này, tạo điều kiện cho tăng nguy cơ độc tính.
Neostigmine có thể làm giảm hoạt tính chẹn thần kinh – cơ của quinin, đặc biệt là khi dùng liều cao.
Về thuốc chẹn thần kinh cơ, neostigmine không đối kháng mà thực tế là làm kéo dài pha I của chẹn thần kinh – cơ trong các loại thuốc giãn cơ khử cực như succinylcholin hoặc decamethonium. Pha II của chẹn thần kinh – cơ được thiết lập đầy đủ có thể bị đảo ngược bằng neostigmine, tuy nhiên, thời gian chuyển đổi từ pha I sang pha II biến đổi tùy thuộc vào từng người bệnh và khó xác định chính xác thời kỳ chẹn thần kinh – cơ khử cực tại mọi thời điểm, tạo ra sự không hiệu quả hoặc nguy hiểm khi sử dụng neostigmine trong những tình huống như vậy.
Neostigmine có khả năng đối kháng tác dụng của các loại thuốc giãn cơ không khử cực (như tubocuraron, metocurin, galamin hoặc pancuronium). Tương tác này thường được sử dụng để đảo ngược tình trạng giãn cơ sau phẫu thuật.
Corticosteroid có thể làm tăng hiệu quả của neostigmine.
Trong trường hợp suy thận, neostigmine kéo dài tác dụng của suxamethonium từ 1 – 2 giờ (loại thuốc này thường được sử dụng sau phẫu thuật ghép thận trong vài giờ sau mổ).
Atropin đối kháng với tác dụng muscarinic của neostigmine và tương tác này thường được sử dụng để giảm đi các triệu chứng muscarinic trong trường hợp ngộ độc neostigmine.
Lưu ý khi sử dụng Neostigmine
Neostigmine không được sử dụng ở người bị tắc ruột hoặc tắc đường tiết niệu do nguyên nhân cơ học, viêm màng bụng hoặc phình đại tràng.
Cần thận trọng khi sử dụng neostigmine ở người bị hen phế quản, vì có khả năng gây co thắt phế quản và làm trầm trọng tình trạng hen. Trong trường hợp sử dụng neostigmine để giải độc cura, điều trị cần phải được thực hiện bởi bác sĩ gây mê có kinh nghiệm.
Sử dụng neostigmine cần hết sức thận trọng đối với người bệnh vừa mới phẫu thuật ruột hoặc bàng quang, cũng như ở những người có bệnh tim mạch bao gồm loạn nhịp tim, nhịp tim chậm, vừa mới trải qua cơn nhồi máu cơ tim và có huyết áp thấp.
Sử dụng cẩn thận đối với những người có tăng trương lực thần kinh phó giao cảm, bệnh động kinh, cường giáp, bệnh Parkinson, hen phế quản hoặc loét dạ dày, vì việc sử dụng neostigmine có thể làm tăng nguy cơ loạn nhịp tim.
Không nên sử dụng neostigmine cho những người đang trong tình trạng gây mê bằng cyclopropan hoặc halothan.
Khi sử dụng neostigmine toàn thân cho người bệnh yếu cơ, đồng thời kết hợp với các thuốc kháng acetylcholinesterase tra mắt như ecothiopat, cần thận trọng vì việc này có thể làm gia tăng tác động độc tính.
Do neostigmine chuyển hóa ở gan và được thải trừ qua thận, việc sử dụng neostigmine ở người mắc bệnh về gan hoặc thận cần được thận trọng.
Cũng cần cẩn thận khi sử dụng neostigmine cho những người vừa trải qua phẫu thuật, vì việc sử dụng neostigmine có thể gây ra các vấn đề hô hấp nghiêm trọng do đau sau phẫu thuật, việc sử dụng các loại thuốc giảm đau, hoặc tạo điều kiện cho việc tồn tại các chất tiết hoặc tình trạng xẹp phổi.
Ngoài ra, việc sử dụng neostigmine cần cẩn trọng đối với những người nhiễm khuẩn đường niệu, vì việc sử dụng có thể làm tăng triệu chứng trương lực cơ bàng quang.
Khi sử dụng neostigmine dạng tiêm, luôn phải sẵn sàng có atropin để đối phó với tác dụng phụ muscarinic một cách hiệu quả và cần có epinephrin để điều trị các phản ứng quá mẫn.
Người bệnh phản ứng quá mức với neostigmine thường thể hiện các triệu chứng acetylcholin (cholinergic) nghiêm trọng, bao gồm yếu cơ, co cứng cơ cục bộ và triệu chứng tác dụng muscarin. Các triệu chứng này có thể bị hiểu nhầm là phản ứng âm tính khi neostigmine được sử dụng để chẩn đoán bệnh nhược cơ.
Khi sử dụng neostigmine cùng với atropin để đảo ngược tác dụng của các loại thuốc giãn cơ không khử cực, cần lưu ý rằng phối hợp này có thể gây ra tình trạng loạn nhịp tim tạm thời. Nếu việc sử dụng neostigmine sau phẫu thuật gây ra nhu động ruột, cần dùng halothan để giảm nguy cơ này. Tuy nhà sản xuất khuyến nghị không sử dụng neostigmine khi có nồng độ cao của halothan hoặc cyclopropan, việc này cần được xem xét kỹ lưỡng.
Khi sử dụng neostigmine để chẩn đoán hoặc điều trị bệnh nhược cơ, luôn phải nhớ rằng các nhóm cơ có thể phản ứng khác nhau đối với cùng một liều chất kháng cholinesterase. Việc điều chỉnh liều để đảm bảo hô hấp tốt là quan trọng. Trong quá trình thử nghiệm và điều chỉnh liều, luôn phải sẵn sàng các biện pháp hồi sức tim mạch và hô hấp.
Một vài nghiên cứu của Neostigmine trong Y học
So sánh hiệu quả và độ an toàn của sugammadex và neostigmine trong việc đảo ngược phong bế thần kinh cơ ở người lớn
Chúng tôi so sánh hiệu quả và độ an toàn của sugammadex và neostigmine trong việc đảo ngược sự phong tỏa thần kinh cơ ở người lớn. Kết quả của chúng tôi là: thời gian phục hồi từ lần co giật thứ hai đến tỷ lệ chuỗi bốn > 0,9; thời gian phục hồi từ số lượng sau uốn ván 1-5 đến tỷ lệ đoàn tàu 4 > 0,9; và nguy cơ xảy ra các tác dụng phụ phức hợp và tác dụng phụ nghiêm trọng.
Chúng tôi đã tìm kiếm các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên bất kể tình trạng và ngày xuất bản, tình trạng gây mù, kết quả được báo cáo hoặc ngôn ngữ. Chúng tôi bao gồm 41 nghiên cứu với 4206 người tham gia.
Thời gian để hóa giải tác dụng phong tỏa thần kinh cơ từ cơn co giật thứ hai sang tỷ lệ chuỗi bốn > 0,9 là 2,0 phút với sugammadex 2 mg.kg-1 và 12,9 phút với neostigmine 0,05 mg.kg-1, với chênh lệch trung bình (MD) ( 95%CI)) là 10,2 (8,5-12,0) (I2 = 84%, 10 nghiên cứu, n = 835, Mức độ Khuyến nghị, Đánh giá, Phát triển và Đánh giá (LỚP): chất lượng vừa phải).
Thời gian để hóa giải tác dụng phong tỏa thần kinh cơ từ số lượng sau uốn ván từ 1-5 sang tỷ lệ chuỗi bốn > 0,9 là 2,9 phút với sugammadex 4 mg.kg-1 và 48,8 phút với neostigmine 0,07 mg.kg-1, với MD (95%CI) là 45,8 (39,4-52,2) (I2 = 0%, 2 nghiên cứu, n = 114, LỚP: chất lượng thấp).
Có ít tác dụng phụ tổng hợp hơn đáng kể ở nhóm sugammadex so với neostigmine, với tỷ lệ rủi ro (KTC 95%) là 0,60 (0,49-0,74) (I2 = 40%, 28 nghiên cứu, n = 2298, số lượng cần điều trị (NNT) ): 8, LỚP: chất lượng trung bình). Cụ thể, nguy cơ nhịp tim chậm (RR (95%CI) 0,16 (0,07-0,34), n = 1218, NNT: 14, GRADE: chất lượng trung bình), buồn nôn và nôn sau phẫu thuật (RR (95% CI) 0,52 (0,28-0,97) ), n = 389, NNT: 16, LỚP: chất lượng thấp) và các dấu hiệu chung của liệt tồn dư sau phẫu thuật (RR (KTC 95%) 0,40 (0,28-0,57), n = 1474, NNT: 13, LỚP: chất lượng vừa phải) là tất cả đều giảm.
Không có sự khác biệt đáng kể về nguy cơ xảy ra các tác dụng phụ nghiêm trọng (RR 0,54, KTC 95% 0,13-2,25, I2 = 0%, n = 959, LỚP: chất lượng thấp). Sugammadex đảo ngược sự phong tỏa thần kinh cơ nhanh hơn neostigmine và có ít tác dụng phụ hơn.
Tài liệu tham khảo
- Drugbank, Neostigmine, truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2023.
- Hristovska, A. M., Duch, P., Allingstrup, M., & Afshari, A. (2018). The comparative efficacy and safety of sugammadex and neostigmine in reversing neuromuscular blockade in adults. A Cochrane systematic review with meta-analysis and trial sequential analysis. Anaesthesia, 73(5), 631–641. https://doi.org/10.1111/anae.14160
- Pubchem, Neostigmine, truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2023.
- Bộ Y Tế (2012), Dược thư quốc gia Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội
Xuất xứ: Nhật Bản
Xuất xứ: Nhật Bản
Giải độc & khử độc
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Đức