Naproxen
Biên soạn và Hiệu đính
Dược sĩ Xuân Hạo
Danh pháp
Tên chung quốc tế
Tên danh pháp theo IUPAC
(2S)-2-(6-methoxynaphthalen-2-yl)propanoic acid
Nhóm thuốc
Thuốc chống viêm không steroid
Mã ATC
G – Genito tiết niệu và hormone sinh dục
G02 – Phụ khoa khác
G02C – Phụ khoa khác
G02CC – Sản phẩm chống viêm đặt âm đạo
G02CC02 – Naproxen
M – Hệ cơ xương
M01 – Sản phẩm chống viêm và chống thấp khớp
M01A – Sản phẩm chống viêm và chống thấp khớp, không steroid
M01AE – Dẫn xuất axit propionic
M01AE02 – Naproxen
M – Hệ cơ xương
M02 – Thuốc bôi giảm đau cơ khớp
M02A – Thuốc bôi giảm đau khớp và cơ
M02AA – Chế phẩm chống viêm, không steroid dùng tại chỗ
M02AA12 – Naproxen
Phân loại nguy cơ cho phụ nữ có thai
C
Mã UNII
57Y76R9ATQ
Mã CAS
22204-53-1
Cấu trúc phân tử
Công thức phân tử
C14H14O3
Phân tử lượng
230,26 g/mol
Cấu trúc phân tử
Naproxen là một methoxynaphthalene , được thay thế 2-methoxynaphthalene bằng một nhóm carboxy ethyl ở vị trí số 6.
Các tính chất phân tử
Số liên kết hydro cho: 1
Số liên kết hydro nhận: 3
Số liên kết có thể xoay: 3
Diện tích bề mặt tôpô: 46,5 Ų
Số lượng nguyên tử nặng: 17
Các tính chất đặc trưng
Điểm nóng chảy: 152°C
Điểm sôi: 402-404 °C
Tỷ trọng riêng: 1.2 ± 0.1 g/cm3
Độ tan trong nước: 15,9 mg/L (ở 25°C)
Hằng số phân ly pKa: 4.15
Chu kì bán hủy: 13 giờ
Khả năng liên kết với Protein huyết tương: >99%
Dạng bào chế
Viên nén: 200 mg, 250 mg, 375 mg, 500 mg, 750 mg
Viên đặt trực tràng: 500 mg.
Hỗn dịch uống: 125 mg/5 ml.
Độ ổn định và điều kiện bảo quản
Viên nén thông thường chứa naproxen và naproxen natri được bán trên thị trường, cần được bảo quản trong hộp đậy kín ở nhiệt độ từ 15 – 30 °C. Viên nén naproxen giải phóng chậm (bao trong ruột) cũng cần được bảo quản trong hộp đậy kín và có khả năng chống ánh sáng.
Viên nén naproxen natri giải phóng kéo dài cần được bảo quản trong hộp đậy kín ở nhiệt độ từ 20 – 25 °C.
Hỗn dịch uống Naproxen cần được bảo quản trong hộp chịu ánh sáng ở nhiệt độ từ 15 – 30 °C, và nên tránh nhiệt độ vượt quá 40 °C.
Nguồn gốc
Naproxen đã được cấp bằng sáng chế vào năm 1967 và được phép sử dụng trong lĩnh vực y tế tại Hoa Kỳ từ năm 1976.
Dược lý và cơ chế hoạt động
Naproxen là một chất chống viêm không steroid thuộc nhóm dẫn xuất acid propionic. Thuốc này có tác dụng giảm đau, hạ sốt, chống viêm và ức chế tiểu cầu kết tụ. Cơ chế tác động chung của naproxen là ức chế tổng hợp prostaglandin trong các mô cơ thể bằng cách ức chế enzyme cyclooxygenase (COX), một enzym cần thiết để tạo ra các tiền chất prostaglandin (endoperoxide) từ acid arachidonic.
Naproxen ức chế cả hai dạng cyclooxygenase 1 và 2 (COX-1 và COX-2), gây ra một số tác dụng phụ tương tự như aspirin và các chất chống viêm không steroid khác. Tuy nhiên, naproxen có mức độ ức chế COX-2 ưu tiên hơn COX-1 so với aspirin và indomethacin, giảm thiểu một số tác dụng phụ trên hệ tiêu hóa.
Để đạt được tác dụng chống viêm và giảm đau, nồng độ naproxen trong huyết tương cần đạt từ 30 – 90 microgam/ml. Hiệu quả giảm đau của naproxen thông thường đạt đỉnh sau khoảng 2 giờ uống, trong khi đối với naproxen natri, tác dụng đạt đỉnh sau khoảng 1 giờ uống. Thời gian tác dụng kéo dài của cả hai loại thuốc thường từ 7 – 12 giờ. Do tốc độ hấp thu chậm hơn, viên nén giải phóng chậm cũng giảm tác dụng giảm đau chậm hơn.
Naproxen ức chế tổng hợp prostaglandin (đặc biệt prostaglandin E2 và F2x), có thể làm giảm tần suất cơn co bóp tử cung, từ đó naproxen được sử dụng để giảm đau kinh nguyệt và giảm mất máu trong trường hợp rong kinh.
Naproxen cũng giảm thân nhiệt trong trường hợp sốt, có thể do ức chế tổng hợp prostaglandin ở hệ TKTW (có thể ở hạ đồi).
Thuốc còn có khả năng ức chế quá trình kết tập của tiểu cầu và kéo dài thời gian chảy máu, tuy nhiên không ảnh hưởng đến thời gian đông máu toàn bộ.
Việc sử dụng naproxen trong thời gian dài không gây ra hiện tượng sự phụ thuộc vào thuốc hoặc nghiện thuốc.
Ứng dụng trong y học
Naproxen, một loại thuốc chống viêm không steroid (NSAID), đã được chấp thuận sử dụng kê đơn từ năm 1976 và sau đó được sử dụng theo hướng dẫn không kê đơn (OTC) từ năm 1994. Thuốc này có khả năng kiểm soát hiệu quả cơn đau cấp tính và cơn đau liên quan đến bệnh thấp khớp, và đã được nghiên cứu kỹ lưỡng về tác dụng phụ.
Với tính khả dụng cao và hiệu quả tổng thể, naproxen có thể coi là một phương pháp điều trị đầu tiên cho nhiều tình huống lâm sàng yêu cầu giảm đau. Nó có sẵn dưới dạng thuốc giải phóng tức thì và thuốc giải phóng chậm, có thể được kết hợp với sumatriptan để điều trị chứng đau nửa đầu và kết hợp với esomeprazole để giảm nguy cơ phát triển loét dạ dày.
Dược động học
Hấp thu
Naproxen được hấp thu nhanh và có độ hấp thu đường uống khoảng 95%. Nồng độ cao nhất trong huyết tương thường đạt được sau 2 – 4 giờ sau khi uống. Tuy nhiên, độ hấp thu có thể khác nhau đối với từng dạng của thuốc.
Dưới dạng muối naproxen natri, thời gian đạt nồng độ cao nhất trong huyết tương nhanh hơn (1 – 2 giờ). Thức ăn có thể làm chậm quá trình hấp thu, nhưng không ảnh hưởng đến mức độ hấp thu của thuốc.
Khi uống một liều duy nhất của naproxen với một thuốc chống axit, nồng độ cao nhất của naproxen trong huyết tương không thay đổi, tuy nhiên thời gian đạt nồng độ cao nhất có thể rút ngắn, nhưng không có ý nghĩa lâm sàng.
Naproxen và naproxen natri cũng được hấp thu tốt qua đường trực tràng, nhưng thời gian đạt nồng độ cao nhất trong huyết tương chậm hơn so với đường uống.
Phân bố
Ở liều điều trị, naproxen gắn vào hơn 99% protein huyết tương. Khi các vị trí gắn naproxen với protein đạt bão hòa (liều 500 mg/lần, 2 lần/ngày), nồng độ thuốc tự do trong huyết tương tăng và tăng khả năng thải qua thận. Ở những người bị suy thận, naproxen gắn vào protein huyết tương giảm so với người bình thường.
Thể tích phân bố của naproxen là khoảng 0,16 lít/kg. Thuốc có khả năng khuếch tán vào dịch trong các ổ khớp và qua nhau thai. Nồng độ thuốc trong sữa mẹ xấp xỉ 1% so với nồng độ trong huyết tương của mẹ.
Chuyển hóa
Naproxen được chuyển hóa mạnh tại gan thành 6-desmethylnaproxen, một chất không có hoạt tính sinh học.
Thải trừ
Khoảng 95% liều dùng naproxen được đào thải qua nước tiểu dưới dạng chưa chuyển hóa (< 1%), 6-desmethylnaproxen (< 1%), và các dạng liên kết glucuronid và các dạng liên kết khác (66 – 92%). Dưới 5% liều thuốc được đào thải qua phân.
Nửa đời của naproxen trong huyết tương là khoảng 13 giờ. Nửa đời và quá trình thải của naproxen tương tự ở trẻ em và người lớn. Tốc độ thải naproxen khoảng 0,13 ml/phút/kg.
Phương pháp sản xuất
Naproxen đã được tổng hợp bởi Syntex bắt đầu từ 2-naphthol như sau:
Độc tính ở người
Mặc dù sự sẵn có của naproxen không kê đơn (OTC) mang lại sự thuận tiện cho bệnh nhân, nhưng nó cũng làm tăng khả năng quá liều. Rất may, mức độ quá liều thường nhẹ với các tác dụng phụ thường giới hạn ở buồn ngủ, thờ ơ, đau vùng thượng vị, buồn nôn và nôn.
Tính an toàn
Pseudoporphyria được đặc trưng bởi sự mỏng manh của da, phồng rộp và sẹo ở những vùng da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời mà không có bất thường trong quá trình chuyển hóa porphyrin. Axit phenylpropionic nhóm dẫn xuất của thuốc chống viêm không steroid, đặc biệt là naproxen, được biết là gây ra pseudoporphyria.
83 trường hợp viêm gan cấp tính thứ phát do thuốc chống viêm không steroid, được công bố trong y văn đã được báo cáo. Các loại thuốc chống viêm không steroid đang được đề cập là: axit niflumic, axit tolfenamic, diclofenac, fenoprofen, ibuprofen, indomethacin, naproxen, piroxicam, pirprofen và sulindac.
Tương tác với thuốc khác
Không nên kết hợp naproxen với các thuốc chống viêm không steroid (NSAID) khác để tránh tăng nguy cơ chảy máu và gây loét dạ dày – tá tràng.
Khi sử dụng naproxen cùng với thuốc chống đông máu uống, heparin và ticlopidine, có thể tăng nguy cơ chảy máu do ức chế kết tập tiểu cầu.
Naproxen có thể làm giảm quá trình thải trừ lithi qua thận, do đó có thể gây ngộ độc.
Khi sử dụng naproxen và methotrexate cùng nhau, naproxen ức chế sự thải trừ qua thận của methotrexate và làm giảm tưới máu qua thận (do ức chế sự tổng hợp prostaglandin), từ đó tăng nồng độ methotrexate trong máu, có thể gây nguy hiểm và trong một số trường hợp dẫn đến tử vong.
Naproxen không ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc chống đái tháo đường dẫn xuất sulfonylurea, như tolbutamid, lên nồng độ glucose trong máu.
Naproxen có thể làm giảm tác dụng của thuốc lợi niệu và thuốc chống tăng huyết áp, do ức chế tác dụng gây giãn mạch của prostaglandin.
Khi sử dụng naproxen cùng với probenecid, probenecid làm tăng nồng độ naproxen trong huyết tương và kéo dài thời gian tồn tại của naproxen trong cơ thể do ức chế quá trình tạo thành các chất liên hợp glucuronid của naproxen và làm giảm quá trình thải trừ qua thận.
Naproxen hấp thu chậm khi kết hợp với cholestyramin và sucralfat.
Lưu ý khi sử dụng Naproxen
Khi sử dụng naproxen, cần chú ý đến các triệu chứng bất thường trong hệ tiêu hóa, đặc biệt là khi sử dụng cùng với thuốc chống đông máu. Nếu có triệu chứng chảy máu tiêu hóa, cần ngừng sử dụng thuốc ngay lập tức.
Cần cẩn trọng khi sử dụng naproxen để điều trị hạ sốt và giảm đau, vì có thể làm giảm dấu hiệu nhiễm khuẩn và gây khó khăn trong chẩn đoán bệnh. Nếu sau 10 ngày sử dụng để giảm đau hoặc 3 ngày để hạ sốt mà không có cải thiện, bệnh nhân cần đi khám bệnh tại cơ sở y tế.
Đối với những người có tổn thương thận, cần cẩn thận khi sử dụng naproxen vì khoảng 95% thuốc và chất chuyển hóa của nó được thải qua thận. Cần kiểm tra thường xuyên nồng độ creatinin huyết và sử dụng liều thấp nhất có hiệu quả. Không khuyến nghị sử dụng naproxen cho những người có chỉ số suy thận dưới 20 ml/phút (Clcr < 20 ml/phút).
Naproxen ức chế COX và làm giảm sự tưới máu thận, do đó cần cẩn trọng khi sử dụng ở người có bệnh tim mạch, xơ gan, suy thận, đặc biệt là người cao tuổi. Cần kiểm tra thể tích nước tiểu và chức năng thận một cách cẩn thận.
Không khuyến nghị sử dụng naproxen cho phụ nữ mang thai hoặc đang sử dụng phương pháp tránh thai.
Cần cẩn trọng khi sử dụng naproxen trên bệnh nhân tim mạch để giảm thiểu nguy cơ tai biến. Bệnh nhân cần được hướng dẫn về các triệu chứng và dấu hiệu nặng về tim mạch (đau ngực, khó thở, nói líu nhí).
Naproxen có thể làm tăng huyết áp ở những người có tăng huyết áp.
Khi sử dụng naproxen dạng đặt trực tràng, có thể gây kích ứng trực tràng hoặc chảy máu.
Vì thuốc có thể làm giảm tập trung, cần cẩn trọng khi tham gia giao thông hoặc vận hành máy móc.
Một vài nghiên cứu của Naproxen trong Y học
Phân tích tổng hợp về hiệu quả và độ an toàn của naproxen natri trong điều trị cấp tính chứng đau nửa đầu
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và độ an toàn của naproxen natri trong điều trị các cơn đau nửa đầu cấp tính.
Bối cảnh: Thuốc chống viêm không steroid bao gồm naproxen natri đã được sử dụng trong điều trị cơn đau nửa đầu. Một số thử nghiệm lâm sàng về naproxen natri trong chứng đau nửa đầu đã được báo cáo.
Tuy nhiên, vẫn còn phải xác định liệu naproxen natri có mang lại lợi ích lâm sàng rõ ràng hay không khi tính đến kết quả mong muốn trong điều trị chứng đau nửa đầu cấp tính theo khuyến cáo của Hiệp hội Nhức đầu Quốc tế.
Phương pháp: Các thử nghiệm lâm sàng được xác định thông qua tìm kiếm điện tử (MEDLINE, EMBASE, đánh giá EBM và Thư viện Cochrane) cho đến tháng 6 năm 2009 và tìm kiếm lịch sử các bài báo có liên quan.
Các nghiên cứu được đưa vào phân tích tổng hợp nếu chúng là (1) thử nghiệm mù đôi, ngẫu nhiên, có đối chứng giả dược đánh giá viên naproxen natri trong các cơn đau nửa đầu vừa hoặc nặng ở bệnh nhân người lớn và (2) báo cáo hiệu quả về mặt đau đầu giảm đau, không đau, giảm các triệu chứng liên quan đến chứng đau nửa đầu, giảm đau đầu kéo dài, không đau kéo dài hoặc tái phát đau đầu.
Khai thác dữ liệu và đánh giá chất lượng nghiên cứu được thực hiện độc lập bởi 2 nhà điều tra. Những bất đồng đã được giải quyết bởi một điều tra viên thứ ba. Hiệu quả điều trị và tác dụng phụ được biểu thị bằng tỷ lệ rủi ro.
Kết quả: Đã xác định 16 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đã công bố về naproxen trong điều trị chứng đau nửa đầu. Bốn thử nghiệm đáp ứng các tiêu chí thu nhận và được đưa vào phân tích tổng hợp.
Naproxen natri hiệu quả hơn giả dược trong việc giảm cường độ đau và không đau trong vòng 2 giờ ở người lớn bị đau nửa đầu vừa hoặc nặng. Tỷ lệ rủi ro gộp lần lượt là 1,58 (khoảng tin cậy 95% [CI] 1,41-1,77, P < 0,00001) và 2,22 (KTC 95% 1,46-3,37, P = 0,0002) đối với giảm đau đầu sau 2 giờ và không đau trong vòng 2 giờ.
Nó cũng có hiệu quả trong việc giảm đau đầu sau 4 giờ, giảm các triệu chứng liên quan đến chứng đau nửa đầu, giảm đau đầu kéo dài và phản ứng không đau kéo dài.
Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ tái phát nhức đầu giữa naproxen natri và giả dược. Nguy cơ xảy ra bất kỳ tác dụng phụ nào khi dùng natri naproxen cao hơn so với dùng giả dược (tỷ lệ rủi ro gộp 1,29, KTC 95% 1,04-1,60, P = 0,02). Các tác dụng phụ thường liên quan đến natri naproxen là buồn nôn, chóng mặt, khó tiêu và đau bụng.
Kết luận: Các bằng chứng sẵn có cho thấy rằng naproxen natri hiệu quả hơn nhưng có thể gây ra nhiều tác dụng phụ hơn so với giả dược trong điều trị cấp tính chứng đau nửa đầu từ trung bình đến nặng. Nó có hiệu quả trong việc giảm cường độ đau đầu, hết đau sau 2 giờ và cải thiện các triệu chứng liên quan đến chứng đau nửa đầu.
Tuy nhiên, hiệu quả của nó so với các chất so sánh tích cực khác cần được xác định rõ hơn bằng các thử nghiệm lâm sàng trực tiếp thích hợp.
Tài liệu tham khảo
- Drugbank, Naproxen, truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2023.
- Suthisisang CC, Poolsup N, Suksomboon N, Lertpipopmetha V, Tepwitukgid B. Meta-analysis of the efficacy and safety of naproxen sodium in the acute treatment of migraine. Headache. 2010 May;50(5):808-18. doi: 10.1111/j.1526-4610.2010.01635.x. Epub 2010 Mar 5. PMID: 20236345.
- Pubchem, Naproxen, truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2023.
- Bộ Y Tế (2012), Dược thư quốc gia Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Ấn Độ
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt nam
Xuất xứ: Bangladesh
Xuất xứ: Síp