Monolaurin
Biên soạn và Hiệu đính
Dược sĩ Phan Hữu Xuân Hạo – Khoa Dược, Trường Y Dược – Đại học Duy Tân.
Danh pháp
Tên chung quốc tế
Monolaurin
Tên danh pháp theo IUPAC
2,3-dihydroxypropyl dodecanoate
Mã UNII
WR963Y5QYW
Mã CAS
27215-38-9
Cấu trúc phân tử
Công thức phân tử
C15H30O4
Phân tử lượng
274.40 g/mol
Cấu trúc phân tử
Monolaurin là este đơn được hình thành từ glycerol và axit lauric.
Các tính chất phân tử
Số liên kết hydro cho: 2
Số liên kết hydro nhận: 4
Số liên kết có thể xoay: 14
Diện tích bề mặt tôpô: 66.8 Ų
Số lượng nguyên tử nặng: 19
Các tính chất đặc trưng
Điểm nóng chảy: 64°C
Điểm sôi: 186°C/ 1mmHg
Tỷ trọng riêng: 1.0 ± 0.1 g/cm3
Phổ hồng ngoại: Đạt cực đại tại 2920cm-1
Cảm quan
Monolaurin có dạng bột kết tinh màu trắng, có vị đắng và mùi xà phòng.
Dạng bào chế
Dung dịch: 10g/100ml.
Viên nang: 500mg; 600mg; 1000mg.
Viên nén: 500mg; 600mg.
Độ ổn định và điều kiện bảo quản
Các dạng bào chế của monolaurin nên được bảo quản trong bao bì gốc của nhà sản xuất, để ở nhiệt độ phòng và tránh ánh sáng trực tiếp.
Nguồn gốc
Monolaurin (còn được gọi là glycerol monolaurate) là một axit béo chuỗi trung bình được hình thành từ axit lauric. Nó có nguồn gốc từ dừa hoặc dầu hạt cọ, nhưng cũng được tìm thấy tự nhiên trong sữa mẹ. Axit lauric trong dầu dừa được cơ thể con người chuyển hóa nó thành monolaurin, hơn nữa, dầu dừa, kem dừa, dừa nạo và các sản phẩm khác cũng là nguồn axit lauric tuyệt vời.
Monolaurin chưa được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt sử dụng để điều trị bất kỳ bệnh lý nào nên chưa có hướng dẫn về liều dùng tiêu chuẩn.
Dược lý và cơ chế hoạt động
Monolaurin đã cho thấy tác dụng kháng khuẩn, kháng vi-rút và các tác dụng chống vi trùng khác.
Monolaurin được biết là có khả năng bất hoạt vi rút bao lipid bằng cách liên kết với vỏ lipid-protein của vi rút, do đó ngăn không cho nó gắn và xâm nhập vào tế bào vật chủ, khiến cho quá trình lây nhiễm và sao chép không thể thực hiện được.
Các nghiên cứu khác cho thấy Monolaurin phá vỡ lớp vỏ bảo vệ của virus, giết chết virus. Monolaurin đã được nghiên cứu để bất hoạt nhiều mầm bệnh bao gồm cả vi rút Herpes simplex và Chlamydia trachomatis.
Monolaurin cũng cho thấy những tác dụng đầy hứa hẹn chống lại vi khuẩn (cả gram dương và gram âm), nấm men, nấm và động vật nguyên sinh. Các vi khuẩn bao gồm E. coli, nấm men bao gồm Candida albicans, Helicobacter pylori (H. pylori), Giardia lamblia, Staphylococcus aureus (Staph) và các vi khuẩn khác đều đã bị vô hiệu hóa bởi monolaurin trong các nghiên cứu khoa học.
Monolaurin cũng thể hiện đặc tính kháng khuẩn và chống tạo màng sinh học chống lại Borrelia burgdorferi và Borrelia garinii, vi khuẩn gây bệnh Lyme ở người.
Monolaurin dường như không góp phần vào việc kháng thuốc.
Ứng dụng trong y học
Monolaurin thường được sử dụng để tăng cường miễn dịch và cải thiện sức khỏe nhưng hầu như chưa có dữ liệu khoa học nào chứng minh những tác dụng này.
Trong khi hoạt chất này đã được sử dụng trong sản xuất thực phẩm và mỹ phẩm, một số nghiên cứu trong đã bắt đầu khám phá việc sử dụng monolaurin cho các mục đích sức khỏe khác, đặc biệt trong sự hiện diện của các loại vi khuẩn cụ thể.
Đặc tính kháng vi sinh vật khuẩn của monolaurin đã được chứng minh nhưng vẫn cần nghiên cứu thêm để kiểm chứng tác dụng của monolaurin trên động vật và con người.
Staphylococcus aureus
Một nghiên cứu cho thấy chiết xuất monolaurin từ dầu dừa, kết hợp với axit lactic, có thể có hiệu quả trong việc khử hoạt tính của các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra bởi các loài Staphylococcus aureus. Nghiên cứu này giải thích rằng, monolaurin làm mất màng và tế bào chất trong tế bào vi khuẩn Staphylococcus aureus, cụ thể:
“Tác dụng của sự kết hợp axit lauric + axit lactic và monolaurin + axit lactic là hiệp đồng chống lại cả hai chủng (của Staphylococcus aureus), biểu hiện FBCIs lần lượt là 0,25 và 0,63. Trong các nghiên cứu giết thời gian, sự kết hợp axit lauric và monolaurin + axit lactic được thêm vào ở nồng độ ức chế tối thiểu của chúng tạo ra tác dụng diệt khuẩn. Việc gây ra stress ở các tế bào không bị stress phụ thuộc vào loại và nồng độ của chất kháng khuẩn. Điều này dẫn đến sự mất mát và thay đổi tế bào chất và màng trong tế bào của vi khuẩn.”
Enterococcus
Một nghiên cứu cho thấy việc sử dụng chiết xuất monolaurin có ý nghĩa thống kê khi tác dụng của chiết xuất này được thử nghiệm trên Staphylococcus aureus, Enterobacter spp, Enterococcus spp, E. holeris, và Streptococcus spp. Tất cả các xét nghiệm được thực hiện trong các nghiên cứu này đều được thực hiện trên các mẫu lấy từ nhiễm trùng da.
Theo đó, monolaurin có tính nhạy cảm phổ rộng in vitro, có ý nghĩa thống kê đối với các vi khuẩn gram dương và gram âm được phân lập từ vùng da nông bị nhiễm trùng. Hầu hết các vi khuẩn này đều không biểu hiện khả năng chống lại nó. Vì vậy, monolaurin cần được nghiên cứu thêm về dược động học để hiểu rõ hơn về cơ chế hoạt động mới, độc tính, tương tác thuốc và liều lượng thích hợp để tiến hành các nghiên cứu lâm sàng in vivo.
Escherichia coli
Các nghiên cứu đã đề xuất nồng độ monolaurin 20 mg/ml có hiệu quả trong việc giảm mật độ phát triển của khuẩn lạc ở các dòng nuôi cấy khỏi nhiễm trùng da. Theo đó, tỷ lệ nhạy cảm của Staphylococcus aureus gram dương, Streptococcus spp., và Staphylococcus âm tính với coagulase, E. vulneris gram âm, Enterobacter spp., và Enterococcus spp. đối với 20 mg/ml monolaurin là 100%.
Tương tác với các thuốc kháng sinh thường được sử dụng cho thấy monolaurin và nisin có tác dụng hiệp đồng chống lại các vi sinh vật thử nghiệm. Hơn nữa, monolaurin kết hợp với natri dehydroacetate hoặc axit ethylenediaminetetraacetic có tác dụng hiệp đồng chống lại E. coli và B. subtilis nhưng không phải S. aureus. Tuy nhiên, monolaurin kết hợp với canxi propionat hoặc natri lactat lại không cho thấy tác dụng hiệp đồng chống lại bất kỳ vi sinh vật thử nghiệm nào.
Kháng nấm
Monolaurin có tác dụng bất hoạt hoặc tiêu diệt một số loại nấm, nấm men và động vật nguyên sinh, trong đó có cả một số loại nấm gây hắc lào (nấm da) và nấm Candida albicans. Candida albicans là một loại nấm men tồn tại ở ruột, miệng, bộ phận sinh dục, đường tiết niệu và da. Loại nấm này gây nhiễm trùng nấm men và có thể đe dọa tính mạng ở những người bị suy giảm miễn dịch.
Một nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra rằng monolaurin có thể điều trị nhiễm nấm Candida và làm giảm phản ứng gây viêm.
Kháng virus
Theo báo cáo, monolaurin có thể bất hoạt một phần một số loại virus như:
- HIV
- Virus gây bệnh sởi
- Virus herpes simplex 1 (HSV-1)
- Virus gây viêm miệng có mụn nước (Indiana vesiculovirus)
- Virus visna
- Virus cự bào (cytomegalovirus hay CMV)
Một nghiên cứu vào năm 2015 được công bố trên PLOS ONE đã thử nghiệm một loại gel bôi âm đạo có chứa monolaurin trên động vật linh trưởng cái. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng gel monolaurin có thể làm giảm nguy cơ nhiễm SIV qua đường âm đạo (SIV là viết tắt của simian immunodeficiency virus, có nghĩa là virus gây suy giảm miễn dịch ở linh trưởng, giống như HIV ở người). Các nhà nghiên cứu đã đưa ra kết luận rằng monolaurin có thể được sử dụng làm biện pháp điều trị dự phòng nhiễm SIV.
Độc tính ở người
Phản ứng Herxheimer (một phản ứng hệ thống miễn dịch đối với các độc tố) là một tác dụng phụ tạo ra các triệu chứng tương tự như cảm lạnh hoặc cúm một cách trớ trêu.
Biến chứng này là kết quả của phản ứng với việc giải phóng nhanh chóng các sản phẩm giống nội độc tố trong cơ thể gây ra cái chết của nhiều loại vi rút, vi khuẩn, nấm men và các vi sinh vật khác. Khi vi khuẩn bị tiêu diệt bởi thuốc kháng sinh, thuốc hoặc chất bổ sung, protein và cytokine sẽ được giải phóng mà hệ thống miễn dịch có thể có phản ứng viêm.
Các triệu chứng của phản ứng chết hoặc herx rất giống với bệnh cúm. Đây là phản ứng miễn dịch của cơ thể bạn đối với những gì nó cho là nhiễm trùng. Phản ứng nóng rát điển hình hoặc các triệu chứng chết bao gồm đau nhức cơ thể, đau cơ, đau họng, đổ mồ hôi, hôn mê, ớn lạnh, buồn nôn và các triệu chứng giống cúm khác. Nếu các triệu chứng trở nên tồi tệ hơn, đây không nhất thiết là dấu hiệu cho thấy phương pháp điều trị không hiệu quả – trên thực tế, nó có thể ngược lại – phương pháp điều trị có thể hiệu quả trong việc tiêu diệt nhiễm trùng mà cơ thể bạn không thể xử lý tất cả các chất thải vi sinh vật.
Phương pháp tốt nhất là tránh phản ứng herx tiềm ẩn ngay từ đầu bằng cách áp dụng phương pháp “thấp và chậm” để đưa chất bổ sung vào thói quen của bạn. Nếu gặp phải phản ứng đột ngột hoặc dị ứng, bạn nên cân nhắc giảm hoặc hạn chế bổ sung cho đến khi cơ thể có thể đối phó tốt hơn với quá trình chết và uống nhiều nước để hỗ trợ loại bỏ cytokine và protein trong hệ thống.
Tính an toàn
Monolaurin được bán như một chất bổ sung chế độ ăn uống và như một thành phần trong một số loại thực phẩm. Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ phân loại nó được công nhận là an toàn nhưng không kiểm tra xem thực phẩm chức năng có mang lại lợi ích cho sức khỏe hoặc dinh dưỡng hay không, như đối với các loại thuốc và phương pháp điều trị y tế.
Monolaurin có thể an toàn khi dùng với nhiều liều lượng và khoảng thời gian khác nhau. Monolaurin có thể được sử dụng để duy trì sức khỏe tốt theo thời gian, vì nghiên cứu cho thấy những lợi ích sức khỏe từ monolaurin có thể bị đảo ngược khi loại bỏ chất bổ sung. Hơn nữa, monolaurin đã được chứng minh là có lợi ích phụ gia, có nghĩa là khi monolaurin được kết hợp với các hợp chất khác, lợi ích sức khỏe cũng tăng lên.
Tương tác với thuốc khác
Hiện chưa ghi nhận bất kỳ tác dụng phụ hay tương tác thuốc nào của monolaurin.
Các cách bổ sung monolaurin
- Lauricidin: Lauricidin là một loại chiết xuất lipid tinh khiết có vị đắng giống như xà phòng. Nên uống cùng nhiều nước hoặc nước ép trái cây để giảm mùi vị khó chịu. Không nên uống cùng nước nóng vì nước nóng sẽ làm tăng vị đắng.
- Ăn dầu dừa: Có thể thay các loại dầu ăn khác bằng dầu dừa nhưng chỉ nên thay một phần vì dầu dừa chứa nhiều chất béo bão hòa và calo. Mặc dù dầu dừa không thích hợp để chiên ngập dầu nhưng vẫn có thể dùng để xào hoặc chiên ở nhiệt độ vừa phải.
Mặc dù thoa dầu dừa lên da có thể làm dịu da và dưỡng ẩm nhưng cách này sẽ không giúp bổ sung monolaurin.
Lưu ý khi sử dụng Monolaurin
Bạn có thể dùng monolaurin có hoặc không có thức ăn và với bất kỳ chất lỏng nào, mà không ảnh hưởng đến hiệu quả hoặc sự hấp thu. Bạn có thể dùng monolaurin khi bụng đói, tuy nhiên những người có dạ dày nhạy cảm nên dùng monolaurin cùng với thức ăn vì chất bổ sung có vị “xà phòng” tự nhiên có thể gây khó chịu cho một số người. Thực phẩm cũng có thể hỗ trợ sinh khả dụng của một số chất bổ sung.
Lượng monolaurin mà một cá nhân có thể chọn dùng trước khi thấy phản ứng tích cực có thể phụ thuộc vào một số yếu tố bao gồm tuổi tác, cân nặng, mục tiêu sức khỏe cá nhân và mức độ nhạy cảm chung với các chất bổ sung. Một số người nhận thấy lợi ích từ một viên nang 600mg mỗi ngày, trong khi những người khác có thể dùng tới 3-5 gam. Bắt đầu với liều lượng thấp và tăng dần cho đến khi nhận thấy tác dụng tích cực là cách tiếp cận được khuyến khích.
Nghiên cứu và hướng dẫn lâm sàng không bao gồm trẻ em, do đó tính an toàn và hiệu quả vẫn chưa được biết rõ. Nó không được khuyến khích để cho monolaurin cho trẻ em.
Một vài nghiên cứu của Monolaurin trong Y học
Hoạt động của dầu dừa nguyên chất, axit lauric hoặc monolaurin kết hợp với axit lactic chống lại Staphylococcus aureus
Mục tiêu của nghiên cứu này là điều tra các hoạt động in vitro của dầu dừa nguyên chất, axit lauric và monolaurin kết hợp với axit lactic chống lại hai chủng Staphylococcus aureus, ATCC 25923 và một phân lập từ thân thịt lợn, bằng cách xác định Chỉ số Nồng độ Diệt khuẩn Phân đoạn (FBCI), phương pháp giết thời gian, cũng như quét và hiển vi điện tử truyền qua.
Nồng độ diệt khuẩn tối thiểu (MBC) của axit lauric, monolaurin và axit lactic lần lượt là 3,2 mg ml, 0,1 mg/ml và 0,4% (v/v). Tác dụng của sự kết hợp axit lauric + axit lactic và monolaurin + axit lactic là hiệp đồng chống lại cả hai chủng, biểu hiện FBCIs lần lượt là 0,25 và 0,63. Trong các nghiên cứu giết thời gian, sự kết hợp axit lauric và monolaurin + axit lactic được thêm vào ở nồng độ ức chế tối thiểu của chúng tạo ra tác dụng diệt khuẩn.
Việc gây ra căng thẳng ở các tế bào không bị căng thẳng phụ thuộc vào loại và nồng độ của chất kháng khuẩn. Điều này dẫn đến mất và thay đổi tế bào chất và màng trong tế bào của vi khuẩn. Ngược lại, dầu dừa nguyên chất (10%) không có tác dụng chống lại S. aureus.
Số lượng vi khuẩn được tìm thấy trong thịt thăn lợn được xử lý bằng axit lauric và monolaurin đơn thuần cao hơn có ý nghĩa (p <0,05) so với những người được xử lý bằng cả hai loại lipid kết hợp với axit lactic ở nồng độ dưới mức ức chế. Màu sắc, mùi và khả năng chấp nhận tổng thể của thăn lợn bị ảnh hưởng bất lợi khi xử lý chỉ với ba chất béo và axit lactic nhưng khi sử dụng kết hợp các tác nhân thì chất lượng cảm quan có thể chấp nhận được.
Tài liệu tham khảo
- Drugbank, Monolaurin, truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2022.
- Pubchem, Monolaurin, truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2022.
- Tangwatcharin, P., & Khopaibool, P. (2012). Activity of virgin coconut oil, lauric acid or monolaurin in combination with lactic acid against Staphylococcus aureus. The Southeast Asian journal of tropical medicine and public health, 43(4), 969–985.