Magie Hydroxyd
Biên soạn và Hiệu đính
Dược sĩ Phan Hữu Xuân Hạo – Khoa Dược, Trường Y Dược – Đại học Duy Tân.
Danh pháp
Tên chung quốc tế
Magnesium antacids
Tên danh pháp theo IUPAC
Magnesium(2+) dihydroxide
Nhóm thuốc
Thuốc kháng acid.
Thuốc nhuận tràng.
Mã ATC
A – Đường tiêu hóa và chuyển hóa
A02 – Các Acid, thuốc điều trị loét dạ dày – Tá tràng và đầy hơi
A02A – Kháng Acid
A02AA – Các hợp chất Magnesium
A02AA04 – Magnesium hydroxide
Và
G – Hệ sinh dục tiết niệu và các Hormon sinh dục
G04 – Thuốc đường tiết niệu
G04B – Thuốc đường tiết niệu
G04BX – Các thuốc đường tiết niệu khác
G04BX01 – Magnesium hydroxide
Mã UNII
NBZ3QY004S
Mã CAS
1309-42-8
Cấu trúc phân tử
Công thức phân tử
H2MgO2
Phân tử lượng
58.32 g/mol
Cấu trúc phân tử
Magie Hydroxyd có cấu trúc gồm 1 phân tử magnesi nối với 2 nhóm hydroxyl.
Các tính chất phân tử
Số liên kết hydro cho: 2
Số liên kết hydro nhận: 2
Số liên kết có thể xoay: 0
Diện tích bề mặt tôpô: 2 Ų
Số lượng nguyên tử nặng: 3
Các tính chất đặc trưng
Điểm nóng chảy: 350°C
Tỷ trọng riêng: 2.3446 g/cm3
Phổ hồng ngoại: Đạt cực đại tại 494.8cm-1
Độ tan trong nước: 0.00064 g/100 mL (25°C)
Cảm quan
Magie Hydroxyd có dạng bột kết tinh màu trắng, không mùi, không vị và hầu như không tan trong nước.
Dạng bào chế
Hỗn dịch: 40 mg/ml, 800 mg/ml, 1,2 g/ml.
Viên nén: 300 mg, 600 mg.
Độ ổn định và điều kiện bảo quản
Các dạng bào chế của Magie Hydroxyd nên được bảo quản trong bao bì gốc của nhà sản xuất, để ở nhiệt độ phòng từ 15 – 30°C.
Nguồn gốc
Brucit là một dạng khoáng của Mg(OH)2, thường được tìm thấy trong tự nhiên cũng trong các khoáng sét 1:2:1 trong số các loại khác. Trong clorit, nó chiếm vị trí xen kẽ và thường được lấp đầy bởi các cation như Na+, K+, Mg2+ và Ca2+. Do đó, các lớp xen giữa clorit được kết dính bởi brucit không thể phồng lên cũng như không thể co lại.
Brucit cũng có thể kết tinh trong xi măng và bê tông khi tiếp xúc với nước biển. Theo đó, cation Mg2+ là cation phổ biến thứ hai trong nước biển, chỉ sau Na+ và trước Ca2+.
Dược lý và cơ chế hoạt động
Các muối chứa magnesi (bao gồm cả Magie Hydroxyd) được dùng làm thuốc chống acid (antacid) dịch vị và thuốc nhuận tràng, đồng thời là thuốc cung cấp magnesi cho cơ thể. Theo đó, magnesi là cation nhiều thứ hai trong nội tế bào, có một vai trò quan trọng đối với nhiều chức năng của cơ thể.
Tác dụng chống acid dịch vị của Magie Hydroxyd phụ thuộc vào tốc độ hoà tan của dạng bào chế, tính phản ứng với acid, tác dụng sinh lý của Mg2+, mức độ hoà tan trong nước cũng như có hoặc không có thức ăn trong dạ dày. Mặt khác, Magie Hydroxyd không hoà tan trong nước nhiều nên tất cả lượng thuốc hoà tan trong nước sẽ phân ly, do đó Magie Hydroxyd được coi là một chất kiềm (base) mạnh.
Do được hấp thu chậm nên tác dụng trung hoà acid dịch vị kéo dài. Ngoài ra, sự hiện diện thức ăn trong dạ dày cũng làm nâng pH dịch vị lên khoảng 5 trong khoảng 1 giờ và kéo dài tác dụng trung hoà acid trong khoảng 2 giờ. Hơn nữa, pH > 4 cũng ức chế hoạt tính trên protein của pepsin.
Sự kiềm hoá các chất chứa trong dạ dày sẽ làm tăng nhu động dạ dày thông qua tác dụng của gastrin. Đồng thời làm tăng áp lực thẩm thấu trong ruột, kích thích giải phóng cholecystokin nên làm ngăn cản hấp thu của ruột để giữ nước và điện giải, kích thích nhu động ruột. Vì vậy, muối magnesi thường được kết hợp với muối nhôm trong thuốc chống acid dịch vị để điều chỉnh nhu động ruột, làm giảm bớt tác dụng táo bón gây ra bởi cation nhôm.
Ứng dụng trong y học
Thuốc kháng acid
Magie Hydroxyd là một chất kháng acid, được định lượng khoảng 0,5 – 1,5g ở người lớn và hoạt động bằng cách trung hòa đơn giản. Theo đó, các ion hydroxyd từ Mg(OH)2 kết hợp với các ion H+ có tính acid (hoặc các ion hydronium) được tạo ra từ HCl bởi các tế bào thành trong dạ dày, để tạo thành nước.
Thuốc nhuận tràng
Magie Hydroxyd cũng là một loại thuốc nhuận tràng, được định lượng từ 2 – 5g và hoạt động theo một số cách. Đầu tiên, Mg2+ được hấp thu kém từ ruột, do đó nó lấy nước từ các mô xung quanh bằng cách thẩm thấu. Điều này không chỉ làm tăng lượng nước giúp làm mềm phân, mà còn làm tăng thể tích phân trong ruột, từ đó kích thích nhu động ruột một cách tự nhiên.
Hơn nữa, các ion Mg2+ còn gây ra sự giải phóng cholecystokinin (CCK), dẫn đến tích tụ nước và chất điện giải trong ruột, đồng thời làm tăng nhu động ruột.
Milk of Magnesia
Vào ngày 4/5/1818, nhà phát minh người Mỹ John Callen đã nhận được bằng sáng chế cho Magie Hydroxyd. Đến năm 1829, James Murray đã sử dụng một chế phẩm “dung dịch magnesi cô đặc” do chính ông thiết kế để điều trị chứng đau dạ dày cho Hầu tước Anglesey, Trung úy Lãnh chúa của Ireland.
Điều này đã thành công đến mức được quảng cáo ở Úc và Trường Cao đẳng Bác sĩ phẫu thuật Hoàng gia chấp thuận vào năm 1838. Đồng thời, ông còn được bổ nhiệm làm bác sĩ nội trú cho Anglesey và hai vị Trung úy lãnh chúa, và được phong tước hiệp sĩ. Sản phẩm magnesi lỏng này của ông đã được cấp bằng sáng chế vào hai năm sau khi ông qua đời, tức là vào năm 1873.
Thuật ngữ “Milk of Magnesia” được Charles Henry Phillips sử dụng lần đầu tiên vào năm 1872 để chỉ hỗn dịch Magie Hydroxyd được pha chế ở khoảng 8% w/v. Theo đó, nó được bán dưới tên thương hiệu của Phillips ‘Milk of Magnesia’ để sử dụng làm thuốc.
Ứng dụng khác
Magie Hydroxyd cũng là một thành phần của chất chống mồ hôi. Ngoài ra, thuốc cũng hữu ích để chống lại các vết loét khi sử dụng tại chỗ.
Dược động học
Magie Hydroxyd bắt đầu tác dụng ngay khi đói, thời gian tác dụng kéo dài trong khoảng 30 ± 10 phút. Nếu uống vào bữa ăn hoặc trong vòng 1 giờ sau khi ăn, tác dụng của thuốc kéo dài trong khoảng 1 – 3 giờ. Theo đó, khoảng 30% lượng magnesi được hấp thu. Đồng thời, magnesi ít hòa tan trong nước và được hấp thu kém so với natri bicarbonat nên không gây nhiễm kiềm.
Ở người có chức năng thận bình thường, việc tích lũy một lượng khiêm tốn magnesi không gây ra các vấn đề nghiêm trọng. Tuy nhiên ở người suy thận, cần phải thận trọng vì thuốc có thể làm tăng magnesi huyết.
Ngoài ra, do làm thay đổi pH dịch vị và nước tiểu, Magie Hydroxyd có thể làm thay đổi tốc độ hoà tan và hấp thu, sinh khả dụng cũng như sự đào thải qua thận của một số thuốc. Hơn nữa, muối Mg cũng có khuynh hướng hấp phụ thuốc và tạo thành một phức hợp không hoà tan nên không được hấp thu vào cơ thể.
Magnesi hấp thu được đào thải qua thận ở người có chức năng thận bình thường. Trong khi đó, phần không được hấp thu sẽ bị thải qua phân.
Phương pháp sản xuất
Trong phòng thí nghiệm, sự phản ứng của dung dịch các muối magnesi hòa tan khác nhau với nước kiềm sẽ tạo ra sự kết tủa của hydroxyd rắn Mg(OH)2:
Mg2+ + 2OH− → Mg(OH)2
Mặt khác, Mg2+ là cation phong phú thứ hai trong nước biển nên nó có thể được chiết xuất trực tiếp từ nước biển bằng cách kiềm hóa như mô tả ở trên. Do đó ở quy mô công nghiệp, Mg(OH)2 được sản xuất bằng cách xử lý nước biển với vôi sống (Ca(OH)2).
Theo đó, 600m3 (hoặc 160.000 gallon Mỹ) thể tích nước biển tạo ra khoảng một tấn Mg(OH)2.
Độc tính ở người
Các tác dụng phụ thường gặp khi sử dụng Magie Hydroxyd bao gồm buồn ngủ hoặc đỏ bừng (nóng, đỏ hoặc cảm giác ngứa ran).
Sử dụng Magie Hydroxyd hàng ngày có thể dẫn đến rối loạn chất lỏng và điện giải. Hơn nữa, lạm dụng quá nhiều tác dụng nhuận tràng của thuốc có thể dẫn đến đau quặn bụng, buồn nôn và / hoặc tiêu chảy.
Khi dùng quá liều, Magie Hydroxyd có thể gây ra các triệu chứng kích ứng đường tiêu hóa và / hoặc tiêu chảy ra nước.
Ngộ độc Magie Hydroxyd có thể dẫn đến tăng magnesi huyết, các triệu chứng bao gồm: khát nước, buồn nôn, nôn, đỏ bừng, hạ huyết áp, buồn ngủ, lú lẫn, mất phản xạ gân xương, yếu cơ, ức chế hô hấp, loạn nhịp tim, hôn mê và ngừng tim.
Tính an toàn
Magie Hydroxyd không được sử dụng cho những người bị bất kỳ dạng bệnh thận hoặc suy thận, một chế độ ăn kiêng hạn chế magnesi hoặc với bất kỳ thay đổi đột ngột nào trong chuyển động ruột kéo dài hơn hai tuần.
Magie Hydroxyd cũng không được sử dụng cho những người bị đau bụng, buồn nôn, nôn mửa, các triệu chứng của viêm ruột thừa hoặc tổn thương cơ tim, khối tim, chèn ép phân, nứt trực tràng, tắc nghẽn hoặc thủng ruột.
Nhìn chung, thuốc kháng acid Magie Hydroxyd được coi là an toàn, miễn là không dùng lâu dài và liều cao. Tuy nhiên, đã có báo cáo ADR như tăng hoặc giảm magnesi huyết, tăng phản xạ gân ở bào thai và trẻ sơ sinh khi người mẹ dùng thuốc trong thời gian dài và đặc biệt với liều cao.
Chưa tài liệu nào ghi nhận về ADR của thuốc, mặc dù có thể bài tiết qua sữa nhưng liều lượng này chưa đủ để gây ra các tác dụng phụ cho trẻ em bú sữa mẹ.
Ở trẻ nhỏ, Magie Hydroxyd có thể có nguy cơ tăng magnesi huyết, đặc biệt ở trẻ mất nước hoặc trẻ bị suy thận.
Tương tác với thuốc khác
Tất cả các thuốc kháng acid nói chung đều làm tăng hoặc giảm tốc độ và mức độ hấp thu các thuốc khác khi sử dụng phối hợp. Nguyên nhân có thể là do làm thay đổi thời gian của thuốc ở trong ống tiêu hóa, hoặc do tạo thành các phức hợp với chúng. Trong đó, Magie Hydroxyd và magnesi trisilicat có khả năng gắn vào thuốc mạnh nhất.
Sử dụng đồng thời Magie Hydroxyd có thể làm giảm tác dụng của các tetracyclin, digoxin, indomethacin, hoặc các muối sắt vì làm giảm sự hấp thu của những thuốc này.
Magie Hydroxyd cũng có thể làm giảm sự thải trừ của amphetamin và quinidin, dẫn đến tăng tác dụng cũng như độc tính.
Lưu ý khi sử dụng Magie Hydroxyd
Các antacid chứa magnesi thường gây nhuận tràng nên hầu như không được sử dụng đơn độc. Hơn nữa, khi dùng liều nhắc lại có thể gây ỉa chảy, dẫn đến mất cân bằng thể dịch và điện giải.
Khi dùng các chế phẩm antacid có chứa hơn 50 mEq magnesi mỗi ngày, cần theo dõi cẩn thận về cân bằng điện giải và chức năng thận.
Không nên dùng Magie Hydroxyd kéo dài liên tục trên 2 tuần nếu không có chỉ định của bác sĩ.
Phải theo dõi thường xuyên nồng độ magnesi và kali huyết thanh trong quá trình sử dụng Magie Hydroxyd.
Một vài nghiên cứu của Magie Hydroxyd trong Y học
Hybrid Bionanocomposite chứa các hạt nano Magie Hydroxyd được nhúng trong sợi tơ Carboxymethyl Cellulose Hydrogel Plus như một loại vải dệt kim cho các ứng dụng băng bó vết thương
Dựa trên những phát triển y sinh học đầy hứa hẹn trong các chiến lược chữa lành vết thương, ở đây, một giàn giáo tổng hợp nanobiocomposite mới đã được thiết kế và trình bày bằng cách kết hợp các hydrogel carboxymethyl cellulose được điều chế bằng cách sử dụng epichlorohydrin làm chất liên kết ngang (CMC hydrogel), một loại protein sợi tơ tự nhiên (SF), và các hạt nano Magie Hydroxyd (Mg(OH)2NPs).
Đánh giá sinh học của giàn giáo tổng hợp nano CMC hydrogel/SF/Mg(OH)2 được thực hiện thông qua các xét nghiệm khả năng sống của tế bào in vitro và xét nghiệm in vivo, xét nghiệm tán huyết hồng cầu và xét nghiệm kháng sinh. Xem xét phần trăm khả năng sống của tế bào của tế bào Hu02 (84,5%) khi có mặt của nanobiocomposite đã chuẩn bị sau 7 ngày, nó được chỉ ra rằng loại cây nano mới này là tương thích sinh học.
Các dấu hiệu tương hợp tuyệt vời và hoạt tính kháng khuẩn cao đã được quan sát thấy do tác dụng tán huyết điểm thấp (8,3%) và tiềm năng mức cao trong việc hạn chế sự hình thành màng sinh học P. aeruginosa với giá trị OD thấp (0,13). Hơn nữa, kết quả xét nghiệm chữa lành vết thương in vivo chỉ ra rằng phương pháp chữa lành vết thương nhanh hơn ở những con chuột được điều trị bằng giá thể nanobiocomposite chuẩn bị (82,29%) so với nhóm đối chứng (75,63%) trong 12 ngày.
Ngoài đặc điểm cấu trúc của CMC hydrogel/SF/Mg(OH)2 nanobiocomposite thông qua phân tích FTIR, EDX, FESEM và TG, các thử nghiệm cơ học nén, góc tiếp xúc, độ xốp và tỷ lệ trương nở đã chỉ ra rằng sự kết hợp của CMC hydrogel cấu trúc với protein SF và các NP Mg(OH)2 có thể ảnh hưởng đáng kể đến mô đun của Young (từ 11,34 đến 10,14 MPa), độ bền kéo (từ 299,35 đến 250,78 MPa), độ giãn dài khi đứt (12,52 đến 12,84%), tính ưa nước và khả năng hút nước (92,5%).
Tài liệu tham khảo
- 1. Drugbank, Magnesium hydroxide, truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2022.
- 2. Eivazzadeh-Keihan, R., Khalili, F., Khosropour, N., Aliabadi, H., Radinekiyan, F., Sukhtezari, S., Maleki, A., Madanchi, H., Hamblin, M. R., Mahdavi, M., Haramshahi, S., Shalan, A. E., & Lanceros-Méndez, S. (2021). Hybrid Bionanocomposite Containing Magnesium Hydroxide Nanoparticles Embedded in a Carboxymethyl Cellulose Hydrogel Plus Silk Fibroin as a Scaffold for Wound Dressing Applications. ACS applied materials & interfaces, 13(29), 33840–33849. https://doi.org/10.1021/acsami.1c07285
- 3. Pubchem, Magnesium hydroxide, truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2022.
- 4. Bộ Y Tế (2012), Dược thư quốc gia Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Đài Loan
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Hàn Quốc
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam