Haloperidol

Hiển thị tất cả 5 kết quả

Haloperidol

Danh pháp

Tên chung quốc tế

Haloperidol

Tên danh pháp theo IUPAC

4-[4-(4-chlorophenyl)-4-hydroxypiperidin-1-yl]-1-(4-fluorophenyl)butan-1-one

Nhóm thuốc

Thuốc an thần kinh thuộc nhóm butyrophenon

Mã ATC

N – Thuốc hệ thần kinh

N05 – Thuốc an thần

N05A – Thuốc chống loạn tâm (Bệnh tâm thần)

N05AD – Các dẫn chất Butyrophenon

N05AD01 – Haloperidol

Mã UNII

J6292F8L3D

Mã CAS

52-86-8

Cấu trúc phân tử

Công thức phân tử

C21H23ClFNO2

Phân tử lượng

375.9 g/mol

Cấu trúc phân tử

Haloperidol là một hợp chất bao gồm một cấu trúc piperidine trung tâm với các nhóm thế hydroxy và p-chlorophenyl ở vị trí 4 và một gốc p-fluorobutyrophenone được liên kết với N.

Cấu trúc phân tử Haloperidol
Cấu trúc phân tử Haloperidol

Các tính chất phân tử

Số liên kết hydro cho: 1

Số liên kết hydro nhận: 4

Số liên kết có thể xoay: 6

Diện tích bề mặt tôpô: 40.5Ų

Số lượng nguyên tử nặng: 26

Các tính chất đặc trưng

Điểm nóng chảy: 148°C

Điểm sôi: 529.0±50.0 °C ở 760 mmHg

Tỷ trọng riêng: 1.2±0.1 g/cm3

Độ tan trong nước: 14mg/L (25 °C)

Hằng số phân ly pKa: 8.66

Chu kì bán hủy: 18 giờ

Khả năng liên kết với Protein huyết tương: ~ 92%

Dạng bào chế

Viên nén: 0,5 mg; 1 mg; 1,5 mg; Haloperidol 2 mg; 5 mg; 10 mg và 20 mg.

Haloperidol tiêm: 5 mg/ml; 50 mg và 100 mg.

Dung dịch uống: 0,05% (40 giọt = 1 mg), 0,2% (10 giọt = 1 mg).

Dạng bào chế Haloperidol
Dạng bào chế Haloperidol

Độ ổn định và điều kiện bảo quản

Kết hợp với chất ổn định benzyl alcol và vanilin có thể bảo vệ haloperidol chống lại sự phân hủy của ánh sáng.

Kết tủa sau khi pha loãng haloperidol (ở dạng lactat) trong dung dịch natri clorid 0,9% dùng để tiêm, khi nồng độ cuối cùng của haloperidol là 1,0 mg/ml hoặc cao hơn. Đã có báo cáo là haloperidol không pha loãng (5 mg/ml) dùng để tiêm tương kỵ với cả heparin natri (được pha loãng trong dung dịch natri clorid 0,9% hoặc dung dịch glucose 5%) và natri nitroprusiat (pha loãng trong dung dịch glucose 5%). Hỗn hợp đồng thể tích của sargramostim 10 microgam/ml và haloperidol (ở dạng lactat) 0,2 mg/ml tạo kết tủa sau 4 giờ.

Nguồn gốc

Haloperidol được khám phá bởi Paul Janssen và phát triển vào năm 1958 tại công ty Janssen Pharmaceutica của Bỉ. Cuối năm đó, nó đã đi vào thử nghiệm lâm sàng đầu tiên tại Bỉ. Sau đó, vào ngày 12 tháng 4 năm 1967, Haloperidol đã nhận được sự chấp thuận từ Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA). Từ đó, sản phẩm đã được tung ra thị trường ở Hoa Kỳ và các quốc gia khác dưới tên thương hiệu Haldol, được sản xuất bởi Phòng thí nghiệm McNeil.

Dược lý và cơ chế hoạt động

Haloperidol là thuốc gì? Haloperidol là một loại thuốc an thần kinh thuộc thế hệ cổ điển (thế hệ 1) dẫn xuất từ butyrophenon. Haloperidol tác dụng dược lý chính tương tự như của clorpromazin.

Cơ chế chính xác của tác dụng an thần kinh của haloperidol vẫn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, đã được biết đến rằng thuốc ức chế hệ thống truyền thần kinh vùng dưới vỏ não, não giữa và thân não, chủ yếu thông qua việc haloperidol phong tỏa cạnh tranh với thụ thể dopamin 2 (D2) sau synap trên hệ thống truyền thần kinh và đối kháng tác dụng với acid glutamic trong hệ thống ngoại tháp.

Haloperidol có tác dụng chống nôn rất mạnh, nhưng cơ chế chống nôn của thuốc cũng chưa được hiểu rõ. Có thể haloperidol chống nôn bằng cách ức chế thụ thể dopamin 2 (D2) ở vùng khởi động hóa thụ thể nơi truyền tín hiệu đến trung tâm nôn ở não.

Tương tự như các thuốc đối kháng thụ thể dopamin khác như clorpromazin, haloperidol cũng tác động lên hệ thống ngoại tháp và có phạm vi điều trị hẹp giữa liều điều trị các rối loạn tâm thần và liều tác động lên hệ thống ngoại tháp.

Haloperidol ít gây buồn ngủ, hạ huyết áp và giảm thân nhiệt hơn so với clorpromazin. Trong quá trình điều trị dài hạn, không quan sát thấy hiện tượng tăng cân, một vấn đề phổ biến khi điều trị với nhóm phenothiazin như clorpromazin. Người bệnh không mất ý thức, điều này làm tăng khả năng thực hiện liệu pháp tâm lý.

Ứng dụng trong y học

Haloperidol là một loại thuốc chống loạn thần thuộc thế hệ đầu tiên (điển hình) với hiệu lực cao và là một trong những loại thuốc chống loạn thần phổ biến nhất trên toàn thế giới. Mặc dù haloperidol đã được xác định có hoạt tính dược lý đối với một số thụ thể trong não, tác dụng chống loạn thần của nó chủ yếu xuất phát từ khả năng đối kháng mạnh mẽ với thụ thể dopamin (đặc biệt là D2), đặc biệt là trong hệ thống mesolimbic và mesocortical của não.

Haloperidol được chỉ định để điều trị các biểu hiện của một số rối loạn tâm thần, bao gồm loạn thần cấp tính, tâm thần phân liệt, hội chứng Tourette và các trạng thái hành vi nghiêm trọng khác. Ngoài ra, nó cũng được sử dụng ngoài hướng dẫn để kiểm soát chứng múa giật liên quan đến bệnh Huntington và để điều trị chứng nôn mạnh khó chữa.

Tuy nhiên, các loại thuốc đối kháng dopamine như haloperidol có thể cải thiện các triệu chứng và trạng thái loạn thần do sự tăng dopamine gây ra, như tâm thần phân liệt, được cho là do trạng thái hyperdopaminergic trong hệ thống viền của não.

Việc sử dụng thuốc chống loạn thần thế hệ đầu tiên (bao gồm haloperidol) được coi là hiệu quả cao trong việc kiểm soát các triệu chứng “dương tính” của tâm thần phân liệt, bao gồm nghe thấy giọng nói, ảo giác, hung hăng/thù địch, nói năng lộn xộn và kích động tâm thần vận động. Tuy nhiên, nhóm thuốc này cũng bị hạn chế bởi sự phát triển của các rối loạn vận động do ức chế dopamine gây ra, chẳng hạn như hội chứng parkinson do thuốc, chứng ngồi không yên, loạn trương lực cơ, rối loạn vận động muộn, cũng như các tác dụng phụ khác bao gồm tăng cân, an thần và thay đổi prolactin.

Mặc dù hiện chỉ có ít nghiên cứu chất lượng cao so sánh haloperidol với các thuốc chống loạn thần thế hệ đầu tiên có hiệu lực thấp hơn như Chlorpromazine, Zuclopenthixol, Fluphenazine và Methotrimeprazine, haloperidol thường cho thấy ít tác dụng phụ nhất trong nhóm này, tuy nhiên, nó có xu hướng gây ra các triệu chứng ngoại tháp (EPS) mạnh hơn.

Các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ nhất khác bị hạn chế bởi ái lực thấp hơn đối với các thụ thể dopamin, đòi hỏi liều cao hơn để điều trị hiệu quả các triệu chứng tâm thần phân liệt. Ngoài ra, chúng cũng ảnh hưởng đến nhiều thụ thể khác ngoài mục tiêu chính (thụ thể dopamine), chẳng hạn như thụ thể cholinergic hoặc histaminergic, dẫn đến tỷ lệ tác dụng phụ cao hơn như an thần, tăng cân và hạ huyết áp.

Đáng chú ý là, các nghiên cứu dược động học trên con người đã chỉ ra rằng quá trình chuyển hóa haloperidol có thể bị ảnh hưởng bởi hoạt động của CYP2D6 đa hình, một gen di truyền. Tuy nhiên, những phát hiện này không nhất quán với các nghiên cứu in vitro trên microsome gan người và các nghiên cứu tương tác thuốc trên con người. Sự khác biệt về dược động học và di truyền chuyển hóa haloperidol có thể giải thích những quan sát này.

Mặc dù các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ nhất đã được thay thế chủ yếu bằng các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai và thứ ba (không điển hình) như Risperidone, Olanzapine, Clozapine, Quetiapine, Aripiprazole và Ziprasidone, việc sử dụng haloperidol vẫn rất phổ biến và được xem là tiêu chuẩn so sánh trong các nghiên cứu về thuốc chống loạn thần mới hơn. Hiệu quả của haloperidol đã được xác định từ những thử nghiệm kiểm soát vào những năm 1960.

Dược động học

Hấp thu

Sau khi uống, Haloperidol được hấp thu từ 60-70% trong đường tiêu hóa. Thuốc đi qua tuần hoàn ruột – gan, và nồng độ cao nhất của Haloperidol trong huyết thanh đạt được sau khoảng 2 đến 6 giờ. Việc phát hiện nồng độ Haloperidol trong huyết thanh của người bệnh có thể kéo dài vài tuần sau khi uống một liều thuốc.

Khi tiêm bắp Haloperidol decanoat, nồng độ thuốc trong huyết thanh thường rõ ràng trong vòng 1 ngày và nồng độ cao nhất thường đạt được trong 6-7 ngày. Nồng độ Haloperidol ổn định trong huyết thanh thường duy trì trong khoảng 3 tháng sau khi tiêm bắp một lần mỗi tháng. Trong phạm vi liều thường dùng dưới dạng tiêm bắp, nồng độ Haloperidol decanoat trong huyết thanh tỷ lệ thuận với liều sử dụng và có mối liên hệ tuyến tính.

Phân bố

Haloperidol được phân bố rộng rãi trong cơ thể, có thể đi qua hàng rào máu – não và thậm chí xuất hiện trong sữa mẹ. Nó có khả năng liên kết với protein huyết tương với mức độ xấp xỉ 92%.

Chuyển hóa

Quá trình chuyển hóa chủ yếu của Haloperidol xảy ra ở gan. Khoảng 50 – 60% của nó được glucuronid hóa thành các chất không có tác dụng. Khoảng 23% khử hóa thành các chất không có tác dụng thông qua isoenzym CYP3A4 và 20 – 30% khử alkyl oxy – hóa qua isoenzym CYP3A4 thành dẫn chất pyridinum độc. Do đó, khi Haloperidol được sử dụng đồng thời với những thuốc gây cảm ứng hoặc ức chế enzym oxy – hóa ở gan, có thể xảy ra tương tác thuốc.

Thải trừ

Nửa đời của Haloperidol sau khi uống một liều là 18 giờ, trong khi dạng thuốc Haloperidol decanoat là 21 ngày. Khoảng 15% liều uống Haloperidol được bài tiết qua phân và khoảng 30% vào nước tiểu. Chỉ có khoảng 1% thuốc được bài tiết qua thận dưới dạng không bị chuyển hóa.

Độc tính ở người

Tác dụng phụ của haloperidol:

Các rối loạn ngoại tháp là một vấn đề quan trọng trong xử trí lâm sàng của bệnh nhân sử dụng thuốc an thần. Phản ứng này có thể xảy ra với bất kỳ loại thuốc an thần nào, nhưng đặc biệt thường gặp với thuốc nhóm butyrophenon, trong đó có haloperidol. Để giải quyết phản ứng này, cần giảm liều haloperidol và/hoặc sử dụng các loại thuốc chẹn thần kinh đối giao cảm, levodopa hoặc bromocriptin, hoặc thay thế haloperidol bằng các thuốc an thần khác ít gây rối loạn ngoại tháp hơn, như thioridazin.

Triệu chứng ngoại tháp phụ thuộc vào liều và rất hiếm khi xảy ra ở liều dưới 3 mg/ngày. Triệu chứng ngoại tháp kiểu kích thích vận động có thể xảy ra sau khi dùng haloperidol ở liều đơn hoặc liều nhắc lại. Suy nhược cũng có thể xảy ra, đặc biệt sau khi dùng liều khởi đầu cao. Loạn nhịp thất rất hiếm và chỉ xảy ra khi dùng liều cao và ở những người bệnh có QT kéo dài. Trong những trường hợp này, nguyên nhân liên quan đến haloperidol chưa rõ, nhưng phải được xem xét trước khi điều trị với liều cao của thuốc.

Đã có ghi nhận về một số trường hợp rối loạn bài tiết hormon chống lợi niệu. Động kinh cơn lớn cũng được thông báo ở những người động kinh đã được kiểm soát tốt trước đó. Người được điều trị bằng thuốc an thần có thể không thể hiện những triệu chứng và dấu hiệu báo động ở mức độ giống như những người không được điều trị; vì vậy cần quan tâm đến những người đang khỏe mạnh.

Thầy thuốc phải quan sát và nhận biết nguy cơ của hội chứng an thần kinh ác tính ở bệnh nhân. Đây là một phản ứng không mong muốn rất nguy hiểm, một phản ứng đặc trưng, có thể xảy ra do điều trị bằng thuốc an thần. Đặc điểm lâm sàng thường gồm: triệu chứng ngoại tháp nặng (bao gồm tăng trương lực cơ), sốt cao, rối loạn chức năng giao cảm và rối loạn ý thức mê sảng. Hơn nữa, tổn thương cơ – xương cũng có thể xảy ra (tiêu cơ vân).

Yếu tố có thể dẫn đến xuất hiện hội chứng an thần kinh ác tính bao gồm: bệnh não thực thể tồn tại từ trước, mất nước và người bị bệnh AIDS. Trẻ em và nam thiếu niên là nhóm đặc biệt nhạy cảm với hiện tượng được gọi là hội chứng an thần kinh ác tính. Triệu chứng của hội chứng này phát triển nhanh chóng trong khoảng thời gian từ 24 đến 72 giờ sau khi bắt đầu điều trị bằng thuốc an thần hoặc khi tăng liều thuốc. Điều đáng lưu ý là triệu chứng có thể xuất hiện từ vài ngày đến vài tháng sau khi điều trị bằng thuốc an thần, tuy nhiên, không có mối liên hệ chặt chẽ giữa triệu chứng và liều lượng hoặc thời gian điều trị.

Thời gian kéo dài của triệu chứng có thể lên đến 14 ngày sau khi ngừng sử dụng thuốc hoặc 4 tuần sau khi ngừng dùng thuốc tác dụng kéo dài. Khi được chẩn đoán mắc phải hội chứng an thần kinh ác tính, việc ngừng sử dụng thuốc an thần phải được thực hiện ngay lập tức, sau đó chỉ định điều trị triệu chứng và hỗ trợ, bao gồm việc tiêm tĩnh mạch huyết thanh mặn và ngọt, sử dụng thuốc hạ nhiệt và kháng sinh. Đối với những trường hợp nghiêm trọng, cần sử dụng benzodiazepin.

Tuy chưa có thông tin chính thức về phương pháp điều trị đặc hiệu cho hội chứng an thần kinh ác tính, nhưng có thể dựa vào những báo cáo từng trường hợp lẻ tẻ để áp dụng điều trị. Dantrolen hoặc bromocriptin là những tùy chọn có thể được sử dụng trong những trường hợp như vậy.

Trong quá trình điều trị, có thể xảy ra loạn nhịp tim và rối loạn tạo máu. Trong trường hợp này, việc ngừng sử dụng thuốc an thần ngay lập tức cùng với điều trị triệu chứng và hỗ trợ là cần thiết.

Tính an toàn

Hiện chưa có đủ nghiên cứu về tác động gây quái thai của haloperidol lên con người. Tuy nhiên, đã có một số báo cáo về các dị dạng ở thai nhi khi mẹ sử dụng haloperidol cùng với một số loại thuốc khác (nghi ngờ có khả năng gây quái thai trong 3 tháng đầu thai kỳ).

Trẻ sơ sinh tiếp xúc với liều thuốc chống loạn thần cao vào cuối thai kỳ có thể gặp triệu chứng nhiễm độc, bao gồm triệu chứng ngoại tháp và/hoặc triệu chứng cai thuốc sau khi sinh. Những triệu chứng này bao gồm vật vã, tăng trương lực, giảm trương lực, triệu chứng giống loạn động muộn, run, buồn ngủ và khó bú. Bất kỳ trẻ sơ sinh nào có các triệu chứng này cần được theo dõi và cân nhắc tăng cường điều trị khi cần thiết.

Thuốc chỉ nên sử dụng trong đầu và cuối thai kỳ khi đã chứng minh lợi ích tiềm năng lớn hơn nguy cơ có thể xảy ra cho thai nhi.

Haloperidol được bài tiết vào sữa mẹ, vì vậy trong thời gian điều trị bằng haloperidol, không nên cho con bú.

Tương tác với thuốc khác

Thuốc ức chế TKTW: Haloperidol có thể tăng cường tác dụng của các thuốc ức chế TKTW như opiat hoặc các thuốc giảm đau, gây ngủ quá mức.

Rượu: Khi uống rượu trong khi sử dụng thuốc an thần, có thể gây chứng đứng ngồi không yên và loạn trương lực, vì rượu có thể giảm kháng lại tác dụng phụ gây độc thần kinh.

Thuốc chống trầm cảm: Cần chú ý tới tương tác dược lý hiệp đồng và sự ức chế lẫn nhau của các loại thuốc an thần và thuốc chống trầm cảm, để tránh kéo dài tác dụng an thần và tác dụng kháng acetylcholin của mỗi loại thuốc.

Lithi: Khi phối hợp với haloperidol, nồng độ lithi cao trong huyết thanh có thể gây hội chứng bệnh não cấp, cần theo dõi và ngừng điều trị khi cần thiết.

Carbamazepin, rifampicin: Các thuốc này gây cảm ứng enzym oxy hóa thuốc ở gan và làm giảm nồng độ haloperidol trong huyết tương.

Thuốc kháng acetylcholin: Dùng haloperidol với thuốc kháng acetylcholin bao gồm cả thuốc chống Parkinson có thể gây tăng nhãn áp.

Thuốc kéo dài khoảng QT: Khi dùng haloperidol với các thuốc khác gây kéo dài khoảng QT, có thể gây xoắn đỉnh và kéo dài khoảng QT.

Methyldopa: Dùng đồng thời với haloperidol có thể làm hạ huyết áp đáng kể và gây mất khả năng định hướng, chậm suy nghĩ.

Levodopa: Khi sử dụng haloperidol với levodopa, có thể làm trầm trọng thêm triệu chứng rối loạn tâm thần và giảm tác dụng điều trị của levodopa.

Cocain: Người nghiện cocain có thể bị tăng nguy cơ phản ứng loạn trương lực cấp sau khi sử dụng haloperidol.

Thuốc chống viêm không steroid: Sử dụng đồng thời có thể gây ngủ gà và lú lẫn nặng.

Lưu ý khi sử dụng Haloperidol

Tránh dùng hoặc sử dụng haloperidol rất thận trọng trong các trường hợp sau: Rối loạn vận động ngoại tháp, bệnh gan, bệnh thận, chứng liệt cứng, bệnh máu và động kinh, điều trị đồng thời với thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương, adrenalin và các thuốc có tác dụng giống giao cảm khác, cường giáp, người bệnh mẫn cảm với thuốc.

Chống chỉ định của haloperidol đối với người bệnh dùng quá liều barbiturat, opiat hoặc rượu; bệnh trầm cảm nặng, bệnh Parkinson, hôn mê do bất kỳ nguyên nhân nào và loạn chuyển hóa porphyrin.

Thận trọng đối với trẻ em và thiếu niên (rất dễ gặp tác dụng phụ ngoại tháp), người suy tủy và người u tế bào ưa crom.

Người suy gan, thận, bệnh mạch máu não, bệnh tim mạch, bệnh về chức năng hô hấp, đái tháo đường, người có bệnh glôcôm góc đóng, bệnh nhược cơ, phì đại tuyến tiền liệt, người bị nhiễm độc tuyến giáp, và người cao tuổi cần thận trọng khi sử dụng haloperidol, vì có nguy cơ gặp phản ứng phụ ngoại tháp hoặc/ và hạ huyết áp thế đứng. Đặc biệt, người cao tuổi bị sa sút trí tuệ cần cẩn thận, vì haloperidol có thể tăng nguy cơ tử vong.

Khi cần phối hợp với thuốc chống Parkinson để xử lý các triệu chứng ngoại tháp do haloperidol, có thể phải tiếp tục sử dụng thuốc chống Parkinson trong một thời gian sau khi ngừng haloperidol, để tránh tái phát các triệu chứng.

Dùng haloperidol để điều trị hưng cảm ở người bệnh bị bệnh lưỡng cực cần thận trọng, vì có thể thay đổi tính khí nhanh chóng thành trầm cảm.

Cần theo dõi số lượng bạch cầu, vì haloperidol có nguy cơ làm giảm bạch cầu.

Haloperidol có thể ảnh hưởng đến khả năng thực hiện các hoạt động đòi hỏi sự tỉnh táo và khả năng phối hợp động tác, như vận hành máy móc và lái xe.

Theo khuyến cáo từ FDA, cần thận trọng khi kê đơn haloperidol cho các bệnh nhân bị mất trí nhớ có liên quan đến các trạng thái tâm thần hoặc không nên ngừng haloperidol đột ngột, để tránh tăng nguy cơ tử vong cho bệnh nhân.

Nếu uống quá liều haloperidol, cần rửa dạ dày và uống than hoạt. Người bệnh cần được điều trị tích cực các triệu chứng và điều trị hỗ trợ.

Một vài nghiên cứu của Haloperidol trong Y học

Tác dụng của Haloperidol đối với chứng mê sảng ở bệnh nhân người lớn

Effects of Haloperidol on Delirium in Adult Patients: A Systematic Review and Meta-Analysis
Effects of Haloperidol on Delirium in Adult Patients: A Systematic Review and Meta-Analysis

Mục tiêu: Mục đích của tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp này là để điều tra xem việc sử dụng haloperidol có thể làm giảm tỷ lệ mê sảng ở bệnh nhân trưởng thành hay không.

Đối tượng và phương pháp: PubMed, Embase, Thư viện Cochrane, Elsevier, Wiley và Ovid đã được tìm kiếm cho các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng và nghiên cứu đoàn hệ can thiệp tiến cứu so sánh haloperidol với giả dược để dự phòng mê sảng hoặc với thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai để điều trị mê sảng. Điểm kết thúc chính là tỷ lệ mắc và mức độ nghiêm trọng của mê sảng.

Sau khi xem xét 272 bài báo có liên quan, 10 nghiên cứu với 1.861 bệnh nhân cuối cùng đã được đưa vào (haloperidol so với giả dược trong 8 nghiên cứu [n = 1.734] và haloperidol so với thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai trong 2 nghiên cứu [n = 127]). Revman 5.3 đã được sử dụng để phân tích dữ liệu.

Kết quả: So với giả dược, liều cao haloperidol dự phòng (≥5 mg/ngày) có thể giúp giảm tỷ lệ mê sảng ở bệnh nhân phẫu thuật (tỷ lệ rủi ro 0,50, KTC 95% 0,32, 0,79). Không có sự khác biệt về thời gian mê sảng, kéo dài khoảng QTc, triệu chứng ngoại tháp, thời gian nằm viện chăm sóc đặc biệt, thời gian nằm viện hoặc tỷ lệ tử vong giữa nhóm haloperidol và nhóm giả dược. Đối với điều trị mê sảng, haloperidol thể hiện tác dụng tương tự như thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai.

Kết luận: Trong nghiên cứu này, dữ liệu hạn chế hiện có cho thấy haloperidol dự phòng với liều ≥5 mg/ngày có thể giúp giảm mê sảng ở bệnh nhân trưởng thành phẫu thuật. Các nghiên cứu kết quả tiếp theo với cỡ mẫu lớn hơn được yêu cầu để xác nhận những phát hiện này.

Tài liệu tham khảo

  1. Drugbank, Haloperidol, truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2023.
  2. Pubchem, Haloperidol, truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2023.
  3. Shen, Y. Z., Peng, K., Zhang, J., Meng, X. W., & Ji, F. H. (2018). Effects of Haloperidol on Delirium in Adult Patients: A Systematic Review and Meta-Analysis. Medical principles and practice : international journal of the Kuwait University, Health Science Centre, 27(3), 250–259. https://doi.org/10.1159/000488243
  4. Bộ Y Tế (2012), Dược thư quốc gia Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội

Chống loạn thần

Alicopin

Được xếp hạng 5.00 5 sao
120.000 đ
Dạng bào chế: Viên nénĐóng gói: Hộp 6 vỉ x 10 viên

Xuất xứ: Việt Nam

Chống loạn thần

Haloperidol 1,5 mg Danapha

Được xếp hạng 5.00 5 sao
95.000 đ
Dạng bào chế: Viên nénĐóng gói: Hộp 10 vỉ x 25 viên

Xuất xứ: Việt Nam

Mất ngủ, an thần

Haloperidol 1,5mg Hataphar

Được xếp hạng 5.00 5 sao
95.000 đ
Dạng bào chế: Viên nénĐóng gói: Hộp 2 vỉ x 25 viên.

Xuất xứ: Việt Nam

Chống loạn thần

Haloperidol 0,5%

Được xếp hạng 5.00 5 sao
0 đ
Dạng bào chế: Thuốc tiêmĐóng gói: Hộp 20 ống x 1 ml

Xuất xứ: Việt Nam

Chống loạn thần

Halofar 2mg

Được xếp hạng 5.00 5 sao
35.000 đ
Dạng bào chế: viên nén Đóng gói: 10 vỉ x 20 viên

Xuất xứ: Việt Nam