Duloxetin
Biên soạn và Hiệu đính
Dược sĩ Phan Hữu Xuân Hạo – Khoa Dược, Trường Y Dược – Đại học Duy Tân.
Danh pháp
Tên chung quốc tế
Duloxetin
Tên danh pháp theo IUPAC
(3S)-N-methyl-3-naphthalen-1-yloxy-3-thiophen-2-ylpropan-1-amine
Nhóm thuốc
Thuốc chống trầm cảm
Mã ATC
N – Thuốc hệ thần kinh
N06 – Thuốc hưng thần
N06A – Thuốc chống trầm cảm
N06AX – Các thuốc chống trầm cảm khác
N06AX21 – Duloxetin
Phân loại nguy cơ cho phụ nữ có thai
Nhóm C
Mã UNII
O5TNM5N07U
Mã CAS
116539-59-4
Cấu trúc phân tử
Công thức phân tử
C18H19NOS
Phân tử lượng
297.4 g/mol
Cấu trúc phân tử
Duloxetin hay (S)-Duloxetin, là một chất đồng phân đối hình của a (R)-Duloxetin.
Các tính chất phân tử
Số liên kết hydro cho: 1
Số liên kết hydro nhận: 3
Số liên kết có thể xoay: 6
Diện tích bề mặt tôpô: 49.5 Ų
Số lượng nguyên tử nặng: 21
Các tính chất đặc trưng
Phổ hồng ngoại: Đạt cực đại tại 769.8 cm-1
Độ tan trong nước: 0.00296 mg/mL
Hằng số phân ly pKa: 9.7
Chu kì bán hủy: 12 – 17 giờ
Khả năng liên kết với Protein huyết tương: > 90%
Cảm quan
Duloxetin có dạng bột kết tinh màu trắng đến hơi nâu, có thể tan được trong nước.
Dạng bào chế
Viên nang: 20 mg, 30 mg, 60 mg.
Độ ổn định và điều kiện bảo quản
Duloxetin nên được bảo quản trong bao bì gốc của nhà sản xuất, để ở nhiệt độ phòng và tránh ánh sáng trực tiếp.
Nguồn gốc
Duloxetin được phát hiện bởi Eli Lilly và các nhà nghiên cứu của công ty, gồm David Robertson, David Wong (người đồng phát hiện ra fluoxetine) và Joseph Krushinski. Sau khi nộp đơn vào năm 1986, Duloxetin được cấp bằng sáng chế vào năm 1990.
Dược lý và cơ chế hoạt động
Duloxetin là chất ức chế mạnh đối với sự tái hấp thu serotonin và norepinephrine của tế bào thần kinh và là chất ức chế yếu hơn đối với tái hấp thu dopamine. Ngoài ra, Duloxetin không có ái lực đáng kể với các thụ thể dopaminergic, adrenergic, cholinergic, histaminergic, opioid, glutamate và GABA.
Các cơ chế liên quan đến tác dụng của Duloxetin trong trầm cảm và lo lắng vẫn chưa được hiểu rõ. Tuy nhiên, việc truyền tín hiệu serotonin và norepinephrine bị suy giảm được cho là có liên quan. Hơn nữa, tính khả dụng của các chất dẫn truyền thần kinh này tăng tại khe hở khớp thần kinh cũng được cho là trung gian của tác dụng điều trị.
Các nhà nghiên cứu công nhận rằng sự tham gia của serotonin và norepinephrine trong khu vực chịu trách nhiệm điều chỉnh cảm xúc như hệ thống limbic góp phần vào các tác động cụ thể trong rối loạn tâm trạng.
Ứng dụng trong y học
Rối loạn trầm cảm nặng
Duloxetin đã được phê duyệt để điều trị rối loạn trầm cảm nặng vào năm 2004. Mặc dù Duloxetin có hiệu quả cải thiện các triệu chứng liên quan đến trầm cảm hơn so với giả dược, nhưng việc so sánh với các thuốc chống trầm cảm khác ít thành công hơn.
Theo đó, tổng quan Cochrane vào năm 2012 không tìm thấy hiệu quả cao hơn của Duloxetin so với SSRI, cũng như các thuốc chống trầm cảm mới hơn. Ngoài ra, kết quả còn cho thấy bằng chứng rằng Duloxetin làm tăng nguy cơ cũng như mức độ nghiêm trọng của các tác dụng phụ, đồng thời khả năng dung nạp cũng giảm so với các thuốc chống trầm cảm khác.
Do đó, Duloxetin không được khuyến cáo như một phương pháp điều trị đầu tay cho rối loạn trầm cảm nặng. Hơn nữa, chi phí của Duloxetin cũng cao hơn so với các thuốc chống trầm cảm khác.
Rối loạn lo âu lan toả
Duloxetin có hiệu quả hơn so với giả dược trong điều trị rối loạn lo âu tổng quát (GAD). Theo đó, một nghiên cứu đánh giá từ Biên niên sử về Y học Nội khoa đã liệt kê Duloxetin là một trong số các phương pháp điều trị bằng thuốc đầu tay cùng với citalopram, escitalopram, sertraline, paroxetine và venlafaxine.
Bệnh thần kinh đái tháo đường
Dựa trên kết quả khả quan của hai thử nghiệm lâm sàng, Duloxetin đã được phê duyệt để điều trị các cơn đau liên quan đến bệnh thần kinh ngoại vi do bệnh đái tháo đường (DPN).
Tuy nhiên, hiệu quả so sánh của Duloxetin với các thuốc giảm đau đã được thiết lập cho DPN là không rõ ràng. Theo đó, một đánh giá hệ thống đã ghi nhận rằng thuốc chống trầm cảm ba vòng (imipramine và amitriptyline), thuốc chống co giật điển hình và opioid có hiệu quả tốt hơn Duloxetin. Mặc dù, Duloxetin, thuốc chống trầm cảm ba vòng và thuốc chống co giật có khả năng dung nạp tương tự nhưng opioid gây ra nhiều tác dụng phụ hơn.
Một đánh giá khác trên Prescrire International cho rằng việc giảm đau vừa phải của Duloxetin là không đáng kể về mặt lâm sàng, hơn nữa kết quả của các thử nghiệm lâm sàng cũng không thuyết phục. Do đó, người đánh giá đã kết luận không có lý do gì để kê đơn Duloxetin trong thực tế.
Đồng thời, dữ liệu so sánh được thu thập bởi những người đánh giá trong BMC Neurology chỉ ra rằng amitriptyline, venlafaxine và thuốc chống trầm cảm ba vòng khác có thể hiệu quả hơn. Tuy nhiên, các tác giả cũng lưu ý rằng bằng chứng ủng hộ Duloxetin là vững chắc hơn nhiều.
Ngoài ra, một đánh giá của Cochrane đã kết luận rằng bằng chứng ủng hộ hiệu quả của Duloxetin trong điều trị bệnh thần kinh do bệnh đái tháo đường gây ra là đầy đủ và các thử nghiệm tiếp theo nên tập trung vào việc so sánh Duloxetin với các loại thuốc khác.
Đau cơ xơ hóa và đau mãn tính
Một đánh giá về Duloxetin cho thấy nó có khả năng làm giảm đau và mệt mỏi, đồng thời cải thiện hoạt động thể chất và tinh thần hơn so với giả dược. Do đó, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê duyệt loại thuốc này để điều trị chứng đau cơ xơ vào tháng 6 năm 2008.
Hơn nữa, Duloxetin cũng có thể hữu ích cho các cơn đau mãn tính do viêm xương khớp. Vào ngày 4 tháng 11 năm 2010, FDA đã phê duyệt Duloxetin để sử dụng trong điều trị đau cơ xương mãn tính, bao gồm cả sự khó chịu do viêm xương khớp và đau thắt lưng mãn tính.
Tình trạng tiểu không kiểm soát
Duloxetin không được chấp nhận trong điều trị đối với chứng tiểu không kiểm soát ở Hoa Kỳ vì mối lo ngại về khả năng nhiễm độc gan và các tình trạng tự sát ở bệnh nhân. Tuy nhiên, nó đã được chấp thuận cho chỉ định này ở Anh, nơi Duloxetin được khuyên dùng như một loại thuốc bổ sung trong điều trị chứng tiểu không kiểm soát do căng thẳng thay vì phẫu thuật.
Tính an toàn và hiệu quả của Duloxetin trong điều trị chứng són tiểu đã được đánh giá trong một loạt các phân tích tổng hợp cũng như hướng dẫn thực hành. Tuy nhiên, vào năm 2012, Hiệp hội Tiết niệu Châu Âu đã kết luận rằng Duloxetin có thể cải thiện nhưng không chữa khỏi chứng tiểu không kiểm soát và nó làm tăng tỷ lệ xảy ra các tác dụng phụ trên đường tiêu hóa (chủ yếu là buồn nôn và nôn) dẫn đến tỷ lệ bỏ điều trị cao.
Kể từ tháng 9 năm 2013, Viện Quốc gia về Lâm sàng và Sức khỏe Xuất sắc khuyến cáo rằng Duloxetin không được xem như là phương pháp điều trị đầu tay và chỉ được sử dụng như là liệu pháp thứ hai đối với những phụ nữ muốn tránh điều trị. Hơn nữa, phụ nữ nên được tư vấn về các tác dụng phụ của thuốc.
Vào năm 2017, một phân tích tổng hợp đã cho thấy các tác hại của Duloxetin đối với chỉ định này lớn hơn so với lợi ích đạt được.
Dược động học
Hấp thu
Duloxetin được hấp thu không hoàn toàn với sinh khả dụng trung bình là 50% (dao động từ 30 – 80%). Nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được khoảng 6 giờ sau khi uống và đạt trạng thái ổn định sau khoảng 3 ngày sử dụng liên tục.
Thức ăn không ảnh hưởng đến nồng độ huyết tương của Duloxetin nhưng làm kéo dài thời gian đạt nồng độ đỉnh khoảng từ 6 – 10 giờ, đồng thời làm giảm nhẹ mức độ hấp thu (AUC) khoảng 10%. Ngoài ra, sự hấp thu có thể kéo dài thêm 3 giờ và độ thanh thải tăng ⅓ khi dùng thuốc vào buổi tối, so với buổi sáng.
Phân bố
Thể tích phân bố biểu kiến của Duloxetin là 1620 – 1800 L. Thuốc có thể vượt qua hàng rào máu não và tích lũy trong vỏ não với nồng độ cao hơn huyết tương.
Tỷ lệ liên kết với protein huyết tương của Duloxetin lớn hơn 90%, chủ yếu với albumin và axit α1-glycoprotein.
Chuyển hóa
Các con đường chuyển đổi sinh học chính của Duloxetin liên quan đến quá trình oxy hóa vòng naphthyl, sau đó là sự liên hợp và quá trình oxy hóa tiếp theo. Cả CYP2D6 và CYP1A2 đều xúc tác quá trình oxy hóa vòng naphthyl trong ống nghiệm. Các chất chuyển hóa được tìm thấy trong huyết tương bao gồm 4-hydroxy Duloxetin glucuronide và 5-hydroxy, 6-methoxy Duloxetin sulfate.
Thải trừ
Thời gian bán thải trung bình của Duloxetin là 12 giờ (dao động từ 8 – 17 giờ). Theo đó, khoảng 70% liều Duloxetin được bài tiết qua nước tiểu chủ yếu dưới dạng chất chuyển hóa liên hợp, 20% khác qua phân dưới dạng nguyên vẹn.
Độc tính ở người
Các trường hợp tử vong khi sử dụng Duloxetin đã được báo cáo với liều 1000mg, liên quan đến cả hai loại thuốc hỗn hợp cũng như riêng Duloxetin. Không có thuốc giải độc nào tồn tại và thuốc khó có thể được đào thải bằng thẩm tách máu. Khuyến cáo chăm sóc hỗ trợ cùng với than hoạt và rửa dạ dày để giảm hấp thu. Nếu hội chứng serotonin xảy ra, điều trị cụ thể như kiểm soát nhiệt độ hoặc cyproheptadine có thể được bắt đầu.
Tính an toàn
Khả năng gây ung thư & gây đột biến
Duloxetin làm tăng tỷ lệ mắc ung thư tế bào gan và u tuyến ở chuột cái được cho ăn Duloxetin 140 mg / kg / ngày trong 2 năm, tương đương với 6 lần liều khuyến cáo tối đa cho người (MRHD). Đồng thời, không có tác dụng được báo cáo với liều 50mg / kg / ngày (2 lần MRHD) ở nữ hoặc 100 mg / kg / ngày ở nam (4 lần MRHD). Điều tra tương tự trên chuột cũng không cho thấy khả năng gây ung thư ở liều 27 mg / kg / ngày (2 lần MRHD) ở con cái và 36 mg / kg / ngày ở con đực (4 lần MRHD).
Ngoài ra, Duloxetin không có khả năng gây đột biến, cảm ứng trao đổi nhiễm sắc thể hoặc độc tính di truyền trong các cuộc điều tra độc chất học.
Độc tính sinh sản
Các nghiên cứu trên cả chuột đực và chuột cái đều không có tác dụng phụ lên sinh sản với liều lên đến 45 mg / kg / ngày (gấp 4 lần MRHD).
Phụ nữ con bú
Kết quả nghiên cứu ước tính có khoảng 25% liều Duloxetin trong huyết tương xuất hiện trong sữa mẹ và liều lượng ước tính hàng ngày ở trẻ sơ sinh có mẹ sử dụng Duloxetin là 0,14%.
Tương tác với thuốc khác
Khả năng các loại thuốc khác ảnh hưởng đến Duloxetin
Các chất ức chế CYP1A2
Khi Duloxetin được dùng đồng thời với fluvoxamine, một chất ức chế CYP1A2 mạnh, đối với các đối tượng nam (n = 14), AUC tăng hơn 5 lần, Cmax tăng khoảng 2,5 lần, và t1/2 của Duloxetin tăng khoảng 3 lần. Các loại thuốc khác ức chế chuyển hóa CYP1A2 bao gồm cimetidine và các chất kháng khuẩn quinolon như ciprofloxacin và enoxacin.
Các chất ức chế CYP2D6
Vì CYP2D6 tham gia vào quá trình chuyển hóa Duloxetin, việc sử dụng đồng thời Duloxetin với các chất ức chế mạnh CYP2D6 sẽ dẫn đến nồng độ Duloxetin cao hơn.
Benzodiazepines
Trong điều kiện trạng thái ổn định đối với Duloxetin (60 mg Q 12 giờ) và lorazepam (2 mg Q 12 giờ), dược động học của Duloxetin không bị ảnh hưởng khi dùng đồng thời.
Tương tự, trong điều kiện trạng thái ổn định đối với Duloxetin (20 mg qhs) và temazepam (30 mg qhs), dược động học của Duloxetin không bị ảnh hưởng khi dùng chung.
Duloxetin có khả năng ảnh hưởng đến các loại thuốc khác
Thuốc được chuyển hóa bởi CYP1A2
Các nghiên cứu tương tác thuốc trong ống nghiệm chứng minh rằng Duloxetin không làm giảm hoạt động của CYP1A2. Do đó, sự gia tăng chuyển hóa chất nền CYP1A2 (ví dụ, theophylline, caffeine) do cảm ứng không được dự đoán trước, mặc dù các nghiên cứu lâm sàng về cảm ứng chưa được thực hiện.
Tương tự, mặc dù Duloxetin là chất ức chế đồng dạng CYP1A2 trong các nghiên cứu in vitro, dược động học của theophylline, một chất nền CYP1A2, không bị ảnh hưởng đáng kể khi dùng đồng thời với Duloxetin (60 mg BID). Do đó, Duloxetin không có khả năng có ảnh hưởng đáng kể về mặt lâm sàng đối với sự chuyển hóa của chất nền CYP1A2.
Thuốc được chuyển hóa bởi CYP2D6
Duloxetin là chất ức chế vừa phải CYP2D6 và làm tăng AUC cũng như Cmax của các thuốc được chuyển hóa bởi CYP2D6. Do đó, nên thận trọng khi sử dụng đồng thời Duloxetin với các loại thuốc khác được chuyển hóa nhiều bởi isozyme này và có chỉ số điều trị hẹp.
Thuốc được chuyển hóa bởi CYP2C9
Duloxetin không ức chế hoạt động của enzyme in vitro của CYP2C9. Do đó, việc ức chế chuyển hóa các chất nền CYP2C9 không được dự đoán trước, mặc dù các nghiên cứu lâm sàng chưa được thực hiện.
Thuốc được chuyển hóa bởi CYP3A
Kết quả của các nghiên cứu trong ống nghiệm chứng minh rằng Duloxetin không ức chế hoặc gây ra hoạt động của CYP3A. Do đó, việc tăng hoặc giảm chuyển hóa các chất nền CYP3A (ví dụ, thuốc tránh thai và các chất steroid khác) do cảm ứng hoặc ức chế không được dự đoán trước, mặc dù các nghiên cứu lâm sàng chưa được thực hiện.
Thuốc được chuyển hóa bởi CYP2C19
Kết quả nghiên cứu in vitro chứng minh rằng Duloxetin không ức chế hoạt động của CYP2C19 ở nồng độ điều trị. Do đó, việc ức chế chuyển hóa các chất nền CYP2C19 không được dự đoán trước, mặc dù các nghiên cứu lâm sàng chưa được thực hiện.
Thuốc liên kết cao với protein huyết tương
Vì Duloxetin liên kết nhiều với protein huyết tương, việc sử dụng đồng thời cho một bệnh nhân đang dùng một loại thuốc khác có liên kết cao với protein có thể làm tăng nồng độ tự do của thuốc đó, có khả năng dẫn đến các tác dụng phụ.
Lưu ý khi sử dụng Duloxetin
Bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc chống trầm cảm cần được theo dõi chặt chẽ về tình trạng lâm sàng trở nên xấu đi và tình trạng tự tử, đặc biệt là khi bắt đầu điều trị bằng thuốc, hoặc tại thời điểm thay đổi liều, tăng hoặc giảm. Cần cân nhắc việc thay đổi liệu pháp điều trị, bao gồm cả việc có thể ngừng thuốc ở những bệnh nhân bị trầm cảm nặng hơn, liên tục hoặc tình trạng tự tử cấp cứu trầm trọng, khởi phát đột ngột hoặc không phải là một phần của các triệu chứng biểu hiện của bệnh nhân.
Các triệu chứng lo lắng, các cơn hoảng loạn, kích động, mất ngủ, cáu kỉnh, thù địch (hung hăng), bốc đồng, đứng ngồi không yên, hưng cảm đã được báo cáo ở bệnh nhân người lớn và trẻ em điều trị bằng thuốc chống trầm cảm.
Nếu quyết định ngừng thuốc, nên giảm dần thuốc càng nhanh càng tốt, nhưng cần lưu ý rằng việc ngừng điều trị đột ngột có thể liên quan đến một số triệu chứng cai thuốc nhất định.
Sự khởi phát của một giai đoạn trầm cảm chính có thể là biểu hiện ban đầu của rối loạn lưỡng cực. Các nhà nghiên cứu tin rằng (mặc dù không được thiết lập trong các thử nghiệm có đối chứng) việc điều trị chỉ bằng thuốc chống trầm cảm cho một giai đoạn như vậy có thể làm tăng khả năng khởi phát các đợt hỗn hợp hoặc hưng cảm ở những bệnh nhân có nguy cơ bị rối loạn lưỡng cực. Trong khi đó, Duloxetin không được sử dụng cho bệnh nhân bị rối loạn lưỡng cực.
Ở những bệnh nhân dùng chất ức chế tái hấp thu serotonin kết hợp với chất ức chế monoamine oxidase, đã có báo cáo về các phản ứng nghiêm trọng, đôi khi gây tử vong, bao gồm cứng khớp, rung giật cơ, tăng thân nhiệt, mất ổn định tự chủ với các dấu hiệu sinh tồn có thể biến động nhanh, và những thay đổi về trạng thái tâm thần bao gồm kích động cực độ, tiến triển đến mê sảng và hôn mê.
Duloxetin không được khuyến cáo ở bệnh nhân bị suy gan vì làm tăng nguy cơ tăng nồng độ transaminase trong huyết thanh. Hơn nữa, Duloxetin và rượu có thể tương tác để gây tổn thương gan, do đó thuốc cũng thường không được kê đơn cho những bệnh nhân sử dụng nhiều rượu.
Trong các thử nghiệm lâm sàng MDD, điều trị bằng Duloxetin có liên quan đến việc tăng huyết áp, trung bình 2 mmHg tâm thu và 0,5 mmHg tâm trương và tăng tần suất ít nhất một lần đo huyết áp tâm thu trên 140 mmHg so với giả dược. Nên đo huyết áp trước khi bắt đầu điều trị và đo định kỳ trong suốt quá trình điều trị.
Trong các thử nghiệm lâm sàng ở bệnh nhân bị rối loạn trầm cảm nặng có đối chứng với giả dược, co giật xảy ra ở 0,1% (1/1139) bệnh nhân được điều trị bằng Duloxetin và 0% (0/777) bệnh nhân được điều trị bằng giả dược. Do đó, Duloxetin nên được sử dụng cẩn thận ở những bệnh nhân có tiền sử rối loạn co giật.
Duloxetin có liên quan đến việc tăng nguy cơ giãn đồng tử, do đó nó nên được sử dụng thận trọng ở những bệnh nhân bị tăng nhãn áp góc hẹp có kiểm soát.
Vì Duloxetin bị thủy phân nhanh chóng trong môi trường axit thành naphthol, nên thận trọng khi sử dụng thuốc ở những bệnh nhân có các tình trạng có thể làm chậm quá trình làm rỗng dạ dày (ví dụ, một số bệnh nhân đái tháo đường).
Tăng nồng độ Duloxetin trong huyết tương, và đặc biệt là các chất chuyển hóa của nó, xảy ra ở những bệnh nhân bị bệnh thận giai đoạn cuối (cần lọc máu). Vì lý do này, thuốc không được khuyến cáo cho bệnh nhân bị bệnh thận giai đoạn cuối hoặc suy thận nặng (độ thanh thải creatinin < 30 mL / phút).
Một vài nghiên cứu của Duloxetin trong Y học
Duloxetin bảo vệ các tế bào u nguyên bào thần kinh của con người khỏi quá trình chết tế bào do stress oxy hóa thông qua con đường Akt / Nrf-2 / HO-1
Sự đóng góp của stress oxy hóa vào sinh lý bệnh của bệnh trầm cảm đã được mô tả trong nhiều nghiên cứu. Đặc biệt, sự gia tăng sản xuất các loại oxy phản ứng (ROS) do rối loạn chức năng ti thể có thể dẫn đến chết tế bào thần kinh.
Tế bào SH-SY5Y của khối u nguyên bào thần kinh ở người được sử dụng để khảo sát tác dụng bảo vệ thần kinh của thuốc chống trầm cảm Duloxetin chống lại stress oxy hóa do rotenone gây ra. Tế bào SH-SY5Y được xử lý trước bằng Duloxetin (1-5 µM) trong 24 giờ, sau đó tiếp xúc với rotenone trong 24 giờ (10 µM).
Chất ức chế phosphatidylinositol 3-kinase / protein kinase B (PI3K / Akt) LY294002 (10 µM) và chất ức chế heme oxygenase 1 (HO-1) kẽm protoporphyrin IX-ZnPP (5 µM) được thêm vào các mẫu cấy 1 giờ trước khi xử lý Duloxetin. Sau khi điều trị, khả năng sống sót của tế bào và sự tạo ROS đã được đánh giá. Chuyển vị hạt nhân liên quan đến yếu tố 2 (Nrf2) NF-E2 được đánh giá bằng phương pháp nhuộm huỳnh quang miễn dịch sau 4 và 8 giờ ủ Duloxetin.
Hơn nữa, biểu hiện mRNA Nrf2 và HO-1 được thực hiện sau 4-48 giờ điều trị bằng Duloxetin bằng qRT-PCR. Tiền xử lý bằng Duloxetin đối kháng với sự sản xuất quá mức do rotenone gây ra và sự chết tế bào trong các tế bào SH-SY5Y. Ngoài ra, xử lý trước 1 giờ với LY294002 đã loại bỏ tác dụng bảo vệ của Duloxetin. Duloxetin cũng gây ra sự chuyển vị hạt nhân của Nrf2 và sự biểu hiện của gen mục tiêu của nó, HO-1.
Cuối cùng, chất ức chế HO-1, ZnPP, đã ngăn chặn tác dụng bảo vệ của Duloxetin. Nhìn chung, những kết quả này chỉ ra rằng cơ chế hoạt động bảo vệ thần kinh của Duloxetin chống lại stress oxy hóa và quá trình chết tế bào có thể dựa trên con đường Akt / Nrf2 / HO-1.
Tài liệu tham khảo
- 1. Drugbank, Duloxetin, truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
- 2. Engel, D. F., de Oliveira, J., Lieberknecht, V., Rodrigues, A., de Bem, A. F., & Gabilan, N. H. (2018). Duloxetin Protects Human Neuroblastoma Cells from Oxidative Stress-Induced Cell Death Through Akt/Nrf-2/HO-1 Pathway. Neurochemical research, 43(2), 387–396. https://doi.org/10.1007/s11064-017-2433-3
- 3. Pubchem, Duloxetin, truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2022.
- 4. Bộ Y Tế (2012), Dược thư quốc gia Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội
Xuất xứ: Hoa Kỳ
Xuất xứ: Thổ Nhĩ Kỳ
Xuất xứ: Hoa Kỳ
Xuất xứ: Thổ Nhĩ Kỳ