Cefuroxime
Danh pháp
Tên chung quốc tế
Tên danh pháp theo IUPAC
(6R,7R)-3-(carbamoyloxymethyl)-7-[[(2Z)-2-(furan-2-yl)-2-methoxyiminoacetyl]amino]-8-oxo-5-thia-1-azabicyclo[4.2.0]oct-2-ene-2-carboxylic acid
Nhóm thuốc
Kháng sinh nhóm cephalosporin thế hệ 2
Mã ATC
J – Kháng khuẩn tác dụng toàn thân
J01 – Kháng khuẩn tác dụng toàn thân
J01D – Kháng khuẩn Beta – Lactam khác
J01DC – Các Cephalosporin thế hệ 2
J01DC02 – Cefuroxime
S – Các giác quan
S01 – Thuốc mắt
S01A – Thuốc chống nhiễm khuẩn
S01AA – Các kháng sinh
S01AA27 – Cefuroxime
Mã UNII
O1R9FJ93ED
Mã CAS
55268-75-2
Cấu trúc phân tử
Công thức phân tử
C16H16N4O8S
Phân tử lượng
424.4 g/mol
Cấu trúc phân tử
Cefuroxime là hợp chất cephalosporin 3-(carbamoyloxymethyl) có chuỗi bên 7-(2Z)-2-(furan-2-yl)-2-(methoxyimino)acetamido.
Các tính chất phân tử
Số liên kết hydro cho: 3
Số liên kết hydro nhận: 10
Số liên kết có thể xoay: 8
Diện tích bề mặt tôpô: 199Ų
Số lượng nguyên tử nặng: 29
Các tính chất đặc trưng
Điểm nóng chảy: 218-225 °C
Tỷ trọng riêng: 1.8±0.1 g/cm3
Độ tan trong nước: 0.284 mg/mL
Hằng số phân ly pKa: -1.1
Chu kì bán hủy: 1 – 2 giờ
Khả năng liên kết với Protein huyết tương: 33% – 50%
Dạng bào chế
Cefuroxim axetil: Dạng thuốc uống, liều và hàm lượng được biểu thị theo cefuroxim:
- Hỗn dịch uống: Cefuroxime 125 mg/5 ml; 250 mg/5 ml.
- Viên nén: Cefuroxime 125mg, 250 mg, Cefuroxim 500mg.
Cefuroxim natri: Dạng thuốc tiêm, liều và hàm lượng được biểu thị theo cefuroxim:
- Lọ 250 mg, 750 mg hoặc 1,5 g bột pha tiêm.
- Dung môi pha tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch: Nước cất pha tiêm.
- Dung môi pha truyền tĩnh mạch liên tục: Thuốc tiêm natri clorid 0,9%, thuốc tiêm dextrose 5%, thuốc tiêm dextrose 10%, thuốc tiêm dextrose 5% và natri clorid 0,9%, thuốc tiêm dextrose 5% và natri clorid 0,45%, thuốc tiêm natri lactat M/6.
Độ ổn định và điều kiện bảo quản
Bảo quản thuốc viên trong bao bì kín ở nhiệt độ phòng từ 15 – 30 °C, tránh ẩm.
Bảo quản bột khô trước khi pha thành hỗn dịch ở nhiệt độ từ 2 – 30 °C. Sau khi pha thành hỗn dịch, bảo quản ở nhiệt độ dưới 25 °C và thích hợp nhất là ở 2 – 8 °C. Sau 10 ngày, phải loại bỏ hỗn dịch đã pha còn thừa.
Lọ bột thuốc tiêm bảo quản ở 15 – 30 °C, tránh ánh sáng. Dung dịch tiêm chứa 90 – 100 mg/ml cefuroxim hoặc hỗn dịch tiêm bắp chứa 200 – 220 mg/ml cefuroxim natri sau khi pha sẽ ổn định trong 24 giờ ở nhiệt độ phòng và 48 giờ ở 2 – 8 °C. Dung dịch tiêm truyền pha trong dung dịch tiêm natri clorid 0,9% hoặc dung dịch tiêm dextrose 5% với nồng độ 1 – 30 mg cefuroxim natri/ml sẽ ổn định trong 24 giờ ở nhiệt độ phòng hoặc 7 ngày ở 2 – 8 °C hoặc ổn định trong 26 tuần ở nhiệt độ đông lạnh. Sau khi để đông lạnh, dung dịch rã đông ổn định trong 24 giờ ở nhiệt độ phòng hoặc 7 ngày ở nhiệt độ 2 – 8 °C.
Không nên dùng dung dịch tiêm natri bicarbonat để pha loãng cefuroxim.
Kháng sinh aminoglycosid (gentamicin, kanamycin, neltimicin, streptomycin, amikacin, tobramycin) tương kỵ với cefuroxim vì vậy không trộn lẫn cefuroxim natri với các kháng sinh này trong bất cứ túi/chai dịch truyền nào đồng thời cũng không truyền đồng thời trên 1 dây truyền dịch hoặc qua 2 dây truyền khác nhau qua vị trí chữ Y.
Filgrastim, fluconazol, protamin, rapacuronium cũng đã được báo cáo là tương kỵ với cefuroxim axetil.
Nguồn gốc
Cefuroxim thế hệ mấy? Cefuroxime là một loại kháng sinh cephalosporin thế hệ hai được sử dụng để điều trị các loại nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra. Nó được phát hiện và phát triển bởi các nhà nghiên cứu tại công ty dược phẩm đa quốc gia Squibb (hiện nay là Bristol-Myers Squibb) vào cuối những năm 1970. Cefuroxime được chấp thuận cho sử dụng lâm sàng lần đầu vào năm 1978 và sau đó đã trở thành một trong những loại kháng sinh quan trọng trong điều trị nhiễm trùng nội tiết và ngoại tiết.
Dược lý và cơ chế hoạt động
Cefuroxim là một loại kháng sinh thuộc nhóm cephalosporin thế hệ hai, được sản xuất thông qua quá trình tổng hợp hóa học. Trong dạng tiêm, nó thường tồn tại dưới dạng muối natri, trong khi dạng uống là este acetyloxyethyl của cefuroxim. Cefuroxim axetil là một dạng tiền chất của loại thuốc này, tức là nó không có khả năng kháng khuẩn cho đến khi nó bị thủy phân trong cơ thể dưới sự tác động của enzym esterase, chuyển thành cefuroxim mới có khả năng kháng khuẩn.
Cefuroxim hoạt động bằng cách ức chế quá trình tổng hợp thành tế bào vi khuẩn, chủ yếu là đối với vi khuẩn đang trong giai đoạn phát triển và phân chia. Thuốc này tác động bằng cách gắn vào các protein gắn với penicilin (PBP), những protein này đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc của màng tế bào vi khuẩn và tham gia vào quá trình tổng hợp thành tế bào.
Khi cefuroxim kết hợp với PBP, quá trình tổng hợp thành tế bào bị ức chế, dẫn đến sự yếu đi và không bền của thành tế bào khi phải chịu áp lực thẩm thấu. Hiệu quả của cefuroxim đối với các loại kháng sinh khác nhau phụ thuộc vào tương tác của nó với các PBP cụ thể trong vi khuẩn.
Tương tự như các kháng sinh beta-lactam khác, hiệu quả kháng khuẩn của cefuroxim phụ thuộc vào thời gian. Do đó, mục tiêu của chế độ liều là tối ưu hóa khoảng thời gian mà vi khuẩn tiếp xúc với cefuroxim.
Thời gian mà nồng độ của thuốc trong máu vượt quá ngưỡng tối thiểu để ức chế sự phát triển của vi khuẩn (T > MIC) là một tham số dược động học quan trọng liên quan chặt chẽ đến hiệu quả của việc sử dụng cefuroxim. Đối với cefuroxim, cần đảm bảo rằng T > MIC đạt ít nhất 40 – 50% của khoảng thời gian giữa các lần tiêm hoặc lần uống thuốc để đảm bảo sự thành công trong điều trị nhiễm trùng.
Phổ kháng khuẩn
Cefuroxim có một phổ kháng khuẩn đặc trưng với các đồng loại khác như cefaclor và cefamandol. Trong điều kiện thử nghiệm “in vitro”, cefuroxim đã thể hiện hiệu suất tốt hơn đối với vi khuẩn Gram âm so với các cephalosporin thế hệ 1, nhưng nó có phổ kháng hẹp hơn so với các cephalosporin thế hệ 3.
Cefuroxim thể hiện tính bền vững cao hơn khi tiếp xúc với enzym beta lactamase so với cefamandol, điều này giúp nó hiệu quả hơn trong việc ức chế các chủng vi khuẩn tiết ra beta lactamase như Escherichia coli, Haemophilus influenzae, Enterobacter, Neisseria, và Klebsiella. Đáng chú ý, cefuroxim không có tác dụng trên một số loại vi khuẩn kỵ khí như Bacteroides fragilis, khác biệt với cefoxitin, một kháng sinh cùng nhóm cephalosporin thế hệ 2.
Đối với vi khuẩn Gram dương, cefuroxim thể hiện khả năng ức chế Staphylococcus aureus (bao gồm cả chủng sản xuất penicillinase và không sản xuất penicilinase), cũng như Staphylococcus epidermidis. Tuy nhiên, các chủng tụ cầu kháng với các loại kháng sinh penicillin khác nhau như methicillin và oxacillin đều kháng với cefuroxim. Cefuroxim cũng có hiệu quả đối với các chủng của Streptococcus (bao gồm cả liên cầu nhóm alpha tan máu và beta tan máu), nhưng đa số các chủng Enterococci, bao gồm cả E. faecalis, đều kháng lại cefuroxim. Listeria monocytogenes cũng được biết là kháng cefuroxim.
Trong trường hợp vi khuẩn Gram âm, cefuroxim có khả năng ức chế hầu hết các loại cầu khuẩn Gram âm và nhiều loại trực khuẩn Gram âm, bao gồm các vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae. Cefuroxim thể hiện hiệu quả đối với nhiều chủng thuộc họ Enterobacteriaceae như Citrobacter diversus, C. freundii, Escherichia coli, Enterobacter aerogenes, Klebsiella pneumoniae, Providencia stuartii, Proteus mirabilis, Salmonella, và Shigella. Tuy nhiên, đa số các chủng Providencia rettgeri, Morganella morganii, Enterobacter cloacae, Proteus vulgaris, Legionella, Campylobacter, Pseudomonas, và Serretia đã kháng cefuroxim.
Cefuroxim cũng thể hiện hiệu suất cao đối với vi khuẩn H. parainfluenzae, Haemophilus influenzae (bao gồm cả các chủng đã kháng lại ampicilin), và Moraxella catarrhalis. Nó cũng có tác dụng tốt đối với Neisseria gonorrhoeae và N. meningitidis.
Đối với vi khuẩn kỵ khí, cefuroxim có tác dụng trên Actinomyces, Lactobacillus, Fusobacterium, Eubacterium, Peptococcus, Peptostreptococcus, và Propionibacterium. Tuy nhiên, nó không tác động lên Clostridium difficile, và đa số các chủng Bacteroides fragilis đã kháng cefuroxim.
Kháng thuốc
Sự kháng thuốc của vi khuẩn đối với cefuroxim chủ yếu diễn ra qua các cơ chế sau: Thay đổi các protein gắn với penicillin (PBP) mục tiêu, sản xuất enzym beta-lactamase, hoặc làm giảm khả năng thẩm thấu của cefuroxim qua màng tế bào vi khuẩn.
Ứng dụng trong y học
Thuốc Cefuroxim 500mg trị bệnh gì? Cefuroxim có hai dạng chính: cefuroxim axetil dạng uống và cefuroxim natri dạng tiêm.
Cefuroxim axetil dạng uống thường được sử dụng để điều trị các nhiễm khuẩn nhẹ đến vừa ở đường hô hấp. Các trường hợp bao gồm viêm tai giữa (do S. pneumoniae, H. influenzae, M. catarrhalis kể cả chủng sản xuất beta-lactamase hoặc do S. pyogenes), viêm amidan (do S. pneumoniae và H. influenzae), viêm xoang tái phát, viêm họng tái phát (do S. pyogenes và liên cầu beta tan máu nhóm A), viêm phế quản cấp có bội nhiễm (do S. pneumoniae và H. influenzae) hoặc cơn bùng phát của viêm phế quản mạn tính và viêm phổi mắc phải tại cộng đồng.
Tuy nhiên, cefuroxim chỉ được coi là lựa chọn thay thế khi amoxicillin hoặc amoxicillin kết hợp với acid clavulanic không hiệu quả hoặc có chống chỉ định. Ngoài ra, cefuroxim axetil cũng được sử dụng để điều trị bệnh lậu không biến chứng và các biểu hiện ban đỏ loang của bệnh Lyme do Borrelia burgdorferi.
Cefuroxim natri dạng tiêm thường được sử dụng để điều trị các nhiễm khuẩn nghiêm trọng hơn, bao gồm nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới (bao gồm cả viêm phổi), nhiễm khuẩn xương và khớp, nhiễm khuẩn da và mô mềm, nhiễm khuẩn máu, nhiễm khuẩn tiết niệu – sinh dục, và viêm màng não do các vi khuẩn nhạy cảm gây ra. Tuy nhiên, trong trường hợp viêm màng não, các kháng sinh thuộc cephalosporin thế hệ 3 như ceftriaxon và cefotaxim thường được ưu tiên chọn hơn cefuroxim.
Khi tình trạng nhiễm trùng của bệnh nhân đã ổn định sau 48 – 72 giờ sử dụng kháng sinh tiêm, có thể xem xét chuyển đổi sang sử dụng kháng sinh uống (cefuroxim axetil). Ngoài ra, cefuroxim natri cũng được sử dụng để phòng ngừa nhiễm khuẩn trong các phẫu thuật tim mạch và lồng ngực, phẫu thuật xương khớp, phẫu thuật tiêu hóa và phẫu thuật sản phụ khoa.
Dược động học
Hấp thu
Khi được uống, cefuroxim axetil được hấp thu thông qua đường tiêu hóa và nhanh chóng chuyển thành cefuroxim trong máu thông qua quá trình thủy phân trên niêm mạc ruột. Độ hấp thu của cefuroxim axetil qua đường uống thay đổi, phụ thuộc vào dạng bào chế và sự có mặt của thức ăn trong dạ dày. Hiệu suất hấp thu tốt nhất thường đạt được khi uống thuốc trong bữa ăn. Sinh khả dụng sau khi uống viên nén cefuroxim axetil lúc đói thường khoảng 37%, nhưng có thể đạt 52% nếu uống sau khi ăn hoặc trong bữa ăn.
Nồng độ cefuroxim trong huyết tương có sự biến đổi tùy thuộc vào dạng bào chế của thuốc. Nồng độ đỉnh của cefuroxim trong huyết tương dao động và thay đổi tùy thuộc vào dạng viên nén hay dạng hỗn dịch. Chẳng hạn, nồng độ đỉnh trong huyết tương sau khi uống hỗn dịch chứa 250 mg cefuroxim axetil thường đạt mức cao nhất vào khoảng 3 giờ sau khi uống. Nồng độ đỉnh trong huyết tương của hỗn dịch thường đạt trung bình 71% so với nồng độ đỉnh trong huyết tương của viên nén. Do đó, việc sử dụng viên nén và hỗn dịch cefuroxim axetil không thể thay thế lẫn nhau dựa trên cường độ mg/mg.
Cefuroxim natri dạng tiêm, khi tiêm vào cơ bắp hoặc tĩnh mạch, đạt nồng độ đỉnh trong huyết tương khoảng 27 microgam/ml sau 45 phút khi tiêm cơ bắp 750 mg và khoảng 50 microgam/ml sau 15 phút khi tiêm tĩnh mạch 750 mg. Cefuroxim duy trì mức nồng độ điều trị trong huyết tương sau liều tiêm trong khoảng 8 giờ.
Phân bố
Khoảng 33% đến 50% lượng cefuroxim trong huyết tương kết hợp với protein huyết tương. Cefuroxim phân bố rộng rãi đến các tổ chức và dịch trong cơ thể, bao gồm cả tổ chức tuyến tiền liệt, dịch màng phổi, đờm, dịch tiết phế quản, xương, mật, dịch viêm nhiễm, dịch màng bụng, hoạt dịch, và thủy dịch.
Thể tích phân bố biểu kiến ở người lớn khỏe mạnh thường nằm trong khoảng từ 9,3 đến 15,8 lít/1,73 m2. Một lượng nhỏ cefuroxim có thể xâm nhập qua hàng rào máu não khi màng não không bị viêm, nhưng chỉ đạt được nồng độ điều trị trong dịch não tủy khi tiêm tĩnh mạch trong trường hợp có viêm màng não. Cefuroxim cũng có khả năng chuyển qua quá trình thẩm phân máu và qua sữa mẹ.
Chuyển hóa và thải trừ
Cefuroxim không trải qua quá trình chuyển hóa và thường được loại bỏ dưới dạng không biến đổi qua cơ chế lọc tại thận và bài tiết tại ống thận. Nửa đời loại trừ của thuốc trong huyết tương khoảng từ 1 đến 2 giờ, nhưng có thể kéo dài ở trường hợp suy thận hoặc ở trẻ sơ sinh. Trong trường hợp suy thận, nửa đời loại trừ có thể dao động từ 1,9 đến 16,1 giờ tùy thuộc vào mức độ suy thận. Thẩm phân phúc mạc và thẩm phân máu có thể loại được cefuroxim ra khỏi hệ tuần hoàn.
Độc tính ở người
Độc tính của cefuroxim ở người có thể xuất hiện khi có tình trạng quá liều, thể hiện qua các triệu chứng như buồn nôn, nôn mửa, và tiêu chảy. Tuy nhiên, quá liều cefuroxim có thể gây ra những phản ứng tăng cường kích thích hệ thần kinh cơ và cả cơn co giật, đặc biệt là ở những người có suy thận. Trong quá trình điều trị, cần phải chú ý đến khả năng quá liều của các loại thuốc, sự tương tác giữa thuốc và các biến đổi dược động học ở người bệnh.
Tính an toàn
Các nghiên cứu trên động vật như chuột nhắt và thỏ không phát hiện bất kỳ dấu hiệu tổn thương đến khả năng sinh sản hoặc sự có hại cho bào thai do cefuroxim. Sử dụng cefuroxim để điều trị viêm thận – bể thận ở phụ nữ mang thai thường không dẫn đến các tác dụng không mong muốn cho trẻ sơ sinh sau khi tiếp xúc với thuốc trong tử cung của người mẹ. Các loại thuốc cephalosporin thường được xem là an toàn khi sử dụng trong thai kỳ.
Tuy nhiên, do thiếu thông tin từ các nghiên cứu kiểm soát đối chứng với phụ nữ mang thai và sự biến đổi không luôn dự đoán được từ nghiên cứu trên động vật, việc sử dụng cefuroxim trong thai kỳ nên được xem xét cẩn thận và chỉ khi thực sự cần thiết.
Cefuroxim được bài tiết ra sữa mẹ ở nồng độ thấp. Tuy nguy cơ gây tác dụng không mong muốn (đối với hệ vi khuẩn trong đường tiêu hóa, tác động trực tiếp, và khả năng ảnh hưởng đến kết quả nuôi cấy vi khuẩn khi có sốt), đối với trẻ sơ sinh được bú mẹ vẫn chưa được đánh giá đầy đủ. Khả năng tích tụ cefuroxim ở trẻ sơ sinh là có thể xảy ra. Vì vậy, việc sử dụng thuốc cho phụ nữ đang cho con bú cần xem xét cẩn thận nguy cơ và lợi ích, đồng thời cần theo dõi sát trẻ trong quá trình mẹ được điều trị bằng cefuroxim.
Tương tác với thuốc khác
Tăng tác dụng của cefuroxim: Sử dụng probenecid ở liều cao có thể làm giảm quá trình thải cefuroxim qua thận, dẫn đến tăng nồng độ cefuroxim trong huyết tương và kéo dài thời gian tác dụng của nó.
Tăng độc tính: Sử dụng cefuroxim đồng thời với các loại thuốc kháng sinh aminoglycoside hoặc các thuốc lợi tiểu mạnh (như furosemide) có thể làm tăng khả năng gây hại cho thận, tuy nhiên, tương tác này thường được mô tả chủ yếu với cephalothin, một loại kháng sinh cephalosporin thế hệ 1.
Giảm tác dụng của các hormone sinh dục nữ: Việc sử dụng cefuroxim axetil thông qua đường uống có thể ảnh hưởng đến vi khuẩn chí ở ruột, gây ra sự giảm tái hấp thu estrogen. Điều này có thể dẫn đến giảm tác dụng của các loại thuốc tránh thai đường uống chứa cả estrogen và progesterone.
Lưu ý khi sử dụng Cefuroxime
Trước khi bắt đầu điều trị bằng cefuroxim, cần tiến hành kiểm tra kỹ về tiền sử dị ứng của bệnh nhân đối với cephalosporin, penicillin hoặc các loại thuốc khác.
Cefuroxim có thể gây ra phản ứng quá mẫn đa dạng như sốt, ngứa, đỏ da, hội chứng Stevens-Johnson, mày đay, hội chứng hoại tử thượng bì nhiễm độc, hồng ban đa dạng, phản ứng giống bệnh huyết thanh, phù mạch và thậm chí phản ứng phản vệ (tỷ lệ < 1%).
Bởi vì có khả năng phản ứng quá mẫn chéo xảy ra giữa các bệnh nhân dị ứng với các loại kháng sinh thuộc nhóm beta-lactam, nên cần phải chuẩn bị kỹ càng để điều trị các trường hợp có phản ứng quá mẫn (bao gồm cả các biện pháp như adrenalin, corticoid tiêm, duy trì thông khí và liệu pháp oxy) khi sử dụng cefuroxim cho bệnh nhân trước đây đã có tiền sử dị ứng với penicilin.
Cefuroxim natri và cefuroxim axetil khi tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp có thể gây ra đau tại vị trí tiêm. Cũng đã được báo cáo về viêm tĩnh mạch huyết khối ở một số bệnh nhân sau khi sử dụng cefuroxim natri đường tiêm tĩnh mạch.
Mặc dù cefuroxim hiếm khi gây biến đổi chức năng thận, việc kiểm tra chức năng thận khi điều trị bằng cefuroxim vẫn được đề xuất, đặc biệt ở những bệnh nhân nặng đang dùng liều tối đa của kháng sinh.
Thận trọng khi sử dụng cefuroxim đồng thời với các thuốc lợi tiểu mạnh, vì có thể ảnh hưởng bất lợi đến chức năng thận. Đã được báo cáo tăng nhiễm độc thận khi dùng đồng thời các kháng sinh aminoglycosid và cephalosporin.
Cần xem xét việc chỉnh liều cefuroxime tiêm ở bệnh nhân suy thận tạm thời hoặc mạn tính. Với liều thường dùng, nồng độ kháng sinh trong huyết thanh có thể tăng cao và kéo dài.
Sử dụng cefuroxim trong thời gian dài có thể gây ra sự phát triển quá mức của các chủng không nhạy cảm. Bệnh nhân cần được theo dõi cẩn thận và nếu có sự bùng phát nghiêm trọng trong quá trình điều trị, việc ngừng sử dụng thuốc cần được xem xét.
Cũng đã có báo cáo về viêm đại tràng màng giả do Clostridium difficile xảy ra sau khi sử dụng các kháng sinh phổ rộng, vì vậy cần đặc biệt quan tâm đến chẩn đoán và điều trị cho bệnh nhân xuất hiện tiêu chảy nặng do sử dụng kháng sinh.
Khi kê đơn kháng sinh phổ rộng cho những người có vấn đề về đường tiêu hóa, đặc biệt là viêm đại tràng, cần phải cân nhắc một cách cẩn thận.
Một số loại kháng sinh cephalosporin (bao gồm cefuroxim) có thể gây ra co giật, đặc biệt là ở bệnh nhân có suy thận mà không có điều chỉnh giảm liều kháng sinh. Nếu có bất kỳ triệu chứng co giật nào xuất hiện trong quá trình điều trị, việc ngừng thuốc và sử dụng các loại thuốc điều trị co giật thích hợp là cần thiết.
Liều dùng cefuroxim cho trẻ em? Hiệu quả và tính an toàn của liều dùng Cefuroxim 125mg đối với bệnh nhân dưới 3 tháng tuổi vẫn chưa được xác định một cách đầy đủ.
Một vài nghiên cứu của Cefuroxime trong Y học
Tác dụng của kháng sinh tiêm nội nhãn cefuroxime dự phòng vết thương viêm mủ nội nhãn sau đục thủy tinh thể
Để đánh giá tác động của việc tiêm kháng sinh dự phòng nội nhãn cefuroxime lên vết thương sau phẫu thuật viêm mủ nội nhãn sau phẫu thuật đục thủy tinh thể, chúng tôi đã tiến hành phân tích tổng hợp.
Một cuộc xem xét kỹ lưỡng các tài liệu đến tháng 7 năm 2022 cho thấy có 1 167 197 người tham gia phẫu thuật đục thủy tinh thể khi bắt đầu nghiên cứu; 1 004 425 trong số những đối tượng này được tiêm cefuroxime nội viện, trong khi 162 772 không được dùng kháng sinh làm đối chứng.
Sử dụng các phương pháp phân đôi và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên hoặc cố định, tỷ lệ chênh lệch (OR) với khoảng tin cậy (CI) 95% được ước tính để đánh giá tác động của việc tiêm cefuroxime kháng sinh dự phòng nội nhãn lên vết thương sau phẫu thuật viêm mủ nội nhãn sau phẫu thuật đục thủy tinh thể.
Khi so sánh việc không dùng kháng sinh ở những người tham gia đã phẫu thuật đục thủy tinh thể, việc tiêm cefuroxime vào trong khoang làm giảm đáng kể vết thương sau phẫu thuật viêm mủ nội nhãn (OR, 0,14; 95% CI, 0,07-0,29, P = 0,001) với độ không đồng nhất cao (I2 = 95%) . Khi so sánh những người tham gia không dùng kháng sinh sau phẫu thuật đục thủy tinh thể, vết thương sau phẫu thuật viêm nội nhãn do tiêm cefuroxime nội nhãn thấp hơn đáng kể.
Mặc dù không có nghiên cứu nào trong số 22 nghiên cứu trong phân tích tổng hợp có nghiên cứu với cỡ mẫu nhỏ, tuy nhiên, vẫn nên tiến hành thận trọng khi phân tích kết quả.
Tài liệu tham khảo
- Drugbank, Cefuroxime, truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
- Wang, M., Liu, Y., & Dong, H. (2023). Effect of cefuroxime intracameral injection antibiotic prophylactic on postoperative endophthalmitis wound post-cataract: A meta-analysis. International wound journal, 20(5), 1376–1383. https://doi.org/10.1111/iwj.13984
- Pubchem, Cefuroxime, truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2023.
- Bộ Y Tế (2012), Dược thư quốc gia Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Anh
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Anh
Xuất xứ: Úc
Xuất xứ: Áo
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Cyprus