Cefixime
Danh pháp
Tên chung quốc tế
Tên danh pháp theo IUPAC
(6R,7R)-7-[[(2Z)-2-(2-amino-1,3-thiazol-4-yl)-2-(carboxymethoxyimino)acetyl]amino]-3-ethenyl-8-oxo-5-thia-1-azabicyclo[4.2.0]oct-2-ene-2-carboxylic acid
Nhóm thuốc
Kháng sinh cephalosporin thế hệ 3
Mã ATC
J – Kháng khuẩn tác dụng toàn thân
J01 – Kháng khuẩn tác dụng toàn thân
J01D – Kháng khuẩn Beta – Lactam khác
J01DD – Các Cephalosporin thế hệ 3
J01DD08 – Cefixime
Mã UNII
XZ7BG04GJX
Mã CAS
79350-37-1
Cấu trúc phân tử
Công thức phân tử
C16H15N5O7S2
Phân tử lượng
453.5 g/mol
Cấu trúc phân tử
Cefixime là một kháng sinh cephalosporin thế hệ thứ ba mang vinyl và (2Z)-2-(2-amino-1,3-thiazol-4-yl)-2-[(carboxymethoxy)imino]acetamido lần lượt ở vị trí 3 và 7 của khung cephem.
Các tính chất phân tử
Số liên kết hydro cho: 4
Số liên kết hydro nhận: 12
Số liên kết có thể xoay: 8
Diện tích bề mặt tôpô: 238Ų
Số lượng nguyên tử nặng: 30
Các tính chất đặc trưng
Điểm nóng chảy: 218-225 °C
Tỷ trọng riêng: 1.9±0.1 g/cm3
Độ tan trong nước: 55.11mg/L
Hằng số phân ly pKa: 4.07
Chu kì bán hủy: 3 – 4 giờ
Khả năng liên kết với Protein huyết tương: 65%
Dạng bào chế
Viên nén hoặc viên bao phim: Cefixim 100mg viên nén, 200 mg hoặc 400 mg cefixim khan.
Viên nang: Cefixim 100mg cho trẻ; Cefixim 200mg khan.
Bột cốm pha hỗn dịch: 100 mg cefixim khan/5 ml và 200 mg cefixim khan/5ml.
Thuốc được dùng dưới dạng cefixim trihydrat, hàm lượng và liều lượng được biểu thị theo cefixim khan: 1,12 g cefixim trihydrat tương đương với khoảng 1,0 g cefixim khan.
Độ ổn định và điều kiện bảo quản
Bảo quản thuốc viên và bột khô để pha hỗn dịch trong lọ nút kín ở nhiệt độ 20 – 25 °C. Hỗn dịch khi đã pha, có thể để ở nhiệt độ phòng hoặc trong tủ lạnh đến 14 ngày, không để đông băng, sau khoảng thời gian trên, bỏ phần hỗn dịch không dùng hết. Lắc kỹ hỗn dịch trước khi dùng.
Nguồn gốc
Cefixim 200mg là thuốc gì? Cefixime là một loại kháng sinh cephalosporin thế hệ thứ ba được phát hiện và phát triển bởi tập đoàn dược phẩm Shionogi & Co., Ltd. (trước đây là Shionogi Pharmaceuticals). Cefixime lần đầu tiên được đưa ra thị trường vào năm 1989 và hiện được sử dụng rộng rãi để điều trị nhiễm khuẩn.
Dược lý và cơ chế hoạt động
Cefixim 200mg có tác dụng gì? Cefixim là một loại kháng sinh cephalosporin thế hệ 3, được sử dụng thông qua đường uống, có khả năng tiêu diệt vi khuẩn. Cơ chế diệt khuẩn của cefixim tương tự như các cephalosporin khác, bằng cách gắn vào các protein đích (protein gắn penicilin) và gây ức chế quá trình tổng hợp mucopeptid trong tế bào vi khuẩn. Sự kháng cefixim của vi khuẩn có thể do giảm ái lực của cefixim đối với protein đích hoặc cơ chế giảm tính thấm của màng tế bào đối với thuốc.
Cefixim có độ bền vững cao đối với sự thủy phân của beta-lactamase được mã hóa bởi gen nằm trên plasmid và chromosome. Tính bền vững với beta-lactamase của cefixim cao hơn so với cefaclor, cefoxitin, cefuroxim, cephalexin, và cephradin.
Phổ kháng khuẩn:
- Vi khuẩn ưa khí Gram dương:
Cefixim có hiệu quả đối với một số vi khuẩn Gram dương như Streptococcus pyogenes (liên cầu khuẩn tán huyết beta nhóm A), S. agalactiae (liên cầu khuẩn nhóm B), liên cầu khuẩn nhóm C, F và G. Một số chủng S. pneumoniae có tác dụng kém hơn so với một số cephalosporin uống khác như cefdinir, cefpodoxim, cefprozil và cefuroxim. Các chủng S. pneumoniae kháng penicillin được xem là kháng cefixim. Đa số các liên cầu khuẩn nhóm D và S. viridans cũng thường được coi là kháng cefixim.
Tuy nhiên, Cefixim không có tác dụng in vitro đối với tụ cầu tiết hoặc không tiết penicilinase như Staphylococcus aureus, S. epidermidis, S. saprophyticus, và Staphylococcus kháng methicillin. Trong khi đó, trực khuẩn ưa khí Gram dương như Corynebacterium và Listeria monocytogenes thường cũng kháng cefixim.
- Vi khuẩn ưa khí gram âm:
Cefixim có tác dụng đối với Neisseria meningitidis và N. gonorrhoeae kể cả tiết hoặc không tiết penicilinase. In vitro, thuốc cũng có tác dụng đối với N. gonorrhoeae kháng penicillin qua trung gian nhiễm sắc thể hoặc kháng tetracyclin qua trung gian plasmid.
Cefixim cũng tác dụng in vitro đối với đa số Haemophilus influenzae tiết hoặc không tiết beta-lactamase và H. parainfluenzae. So với cefaclor, cephalexin, cefuroxim, hoặc amoxicillin kết hợp với kali clavulanat, Cefixim có tác dụng tốt hơn đối với H. influenzae tiết beta-lactamase, nhưng tác dụng bằng hoặc kém hơn một chút so với ciprofloxacin, ceftriaxon hoặc co-trimoxazol.
Tuy nhiên, Cefixime in vitro cũng tác dụng đối với các chủng H. influenzae kháng nhiều thuốc (co-trimoxazol, ampicilin, tetracyclin, chloramphenicol, cefaclor và/hoặc erythromycin). Một số chủng H. influenzae không tiết beta-lactamase nhưng kháng ampicillin và cephalosporin thế hệ 2 cũng giảm nhạy cảm với cefixim.
Cefixim cũng có tác dụng in vitro đối với Moraxella catarrhalis, kể cả khi kháng ampicilin, cefaclor, cephalexin. Nhiều chủng Pseudomonas cũng đã phát triển khả năng kháng cefixim.
- Vi khuẩn kỵ khí: Đa số các Bacteroides spp., các chủng Bacteroides fragilis và các chủng Clostridium (bao gồm C. difficile) kháng cefixim.
- Chlamydia và Mycoplasma: Chlamydia trachomatis và Ureaplasma urealyticum đã phát triển khả năng kháng cefixim.
- Xoắn khuẩn (Spirochetes): Cefixim có một số tác dụng đối với Borrelia burgdorferi, nguyên nhân gây bệnh Lyme, nhưng nồng độ cần thiết để đạt hiệu quả là khá cao (0,8 microgam/ml).
Kháng thuốc:
Cefixim được đánh giá là có độ bền vững cao, không bị thủy phân bởi nhiều loại beta-lactamase thông qua trung gian plasmid và nhiễm sắc thể. Tuy nhiên, thuốc có thể bị thủy phân bởi một số beta-lactamase của các vi khuẩn như Enterobacter, Klebsiella oxytoca, Proteus vulgaris, Pseudomonas cepacia, Citrobacter freundii, Enterobacter cloacae, Flavobacterium và Bacteroides fragilis.
Sự kháng cefixim của các tụ cầu (cocci) có thể do thuốc có ái lực yếu đối với PBP2 của vi khuẩn. Ngoài ra, việc Enterococcus và Listeria monocytogenes kháng thuốc là do cefixim có ái lực kém đối với các PBP của vi khuẩn. Trong khi đó, Citrobacter freundii và Enterobacter kháng cefixim do các yếu tố ngăn cản thuốc thấm vào vi khuẩn và do tiết ra các beta-lactamase. Pseudomonas và Acinetobacter kháng cefixim do các yếu tố thấm qua màng tế bào vi khuẩn.
Cefixim có khả năng kích thích sản xuất beta-lactamase ở một số chủng Morganella morganii, nhưng sau khi giải phóng các beta-lactamase đó, thuốc vẫn tác dụng in vitro đối với các chủng này.
Khác với một số cephalosporin thế hệ 3 vẫn có tác dụng đối với Staphylococci, cefixim thường không có tác dụng trên các vi khuẩn này. Cefixim không có hoạt tính in vitro đối với Staphylococci (tiết hoặc không tiết beta-lactamase) như Staphylococcus aureus, S. epidermidis, và S. saprophyticus.
Cũng giống như các cephalosporin khác, cefixim không có tác dụng diệt khuẩn trên Staphylococci đã kháng oxacilin (kháng methicillin). Hầu hết các chủng Enterococci, Staphylococci và Listeria spp. không còn nhạy cảm với tác dụng của cefixim. Enterobacter spp., Pseudomonas aeruginosa và Bacteroides spp. đã kháng cefixim. Cefixim có hoạt tính in vitro hạn chế đối với các vi khuẩn kỵ khí; hầu hết các chủng Clostridia (bao gồm C. difficile) đã kháng thuốc.
Cefixim cũng không có hoạt tính với một số vi khuẩn ưa khí Gram âm như Achromobacter xylosoxidans và Flavobacterium meningosepticum. Đối với Chlamydia và Mycoplasma, Cefixim cũng không có hoạt tính đối với Chlamydia trachomatis và Ureaplasma urealyticum.
Ứng dụng trong y học
Cefixim là một kháng sinh cephalosporin thế hệ 3 có ứng dụng quan trọng trong y học. Với khả năng diệt khuẩn hiệu quả, cefixim đã trở thành một công cụ hữu ích trong điều trị các nhiễm trùng do vi khuẩn nhạy cảm.
Một trong những ứng dụng chính của cefixim là điều trị nhiễm trùng đường hô hấp. Các bệnh lý như viêm phế quản, viêm phổi, viêm xoang và viêm tai giữa thường được gặp trong y học hàng ngày. Cefixim được sử dụng hiệu quả để điều trị các bệnh này do nhiều vi khuẩn Gram âm nhạy cảm như Haemophilus influenzae, Moraxella catarrhalis và Streptococcus pneumoniae. Đặc biệt, trong một số chủng Streptococcus pneumoniae kháng penicilin, cefixim vẫn duy trì khả năng tác động, giúp giảm thiểu nguy cơ kháng thuốc.
Cefixim cũng là lựa chọn điều trị hiệu quả trong các bệnh nhiễm trùng đường tiểu như viêm bàng quang, viêm niệu đạo và viêm thận cấp. Nó có tác dụng tốt đối với các vi khuẩn như Escherichia coli, Klebsiella pneumoniae và Proteus mirabilis, một số trong số các loại vi khuẩn gây bệnh thường gặp trong đường tiểu.
Đối với phụ nữ mang thai, việc điều trị nhiễm trùng trong thai kỳ đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng vì tác động đến thai nhi. Tuy nhiên, cefixim đã được sử dụng an toàn trong một số trường hợp cần thiết, dưới sự theo dõi của bác sĩ.
Ngoài ra, cefixim còn được sử dụng trong điều trị nhiễm trùng da và mô mềm, như viêm phúc mạc, viêm nang lông, và viêm da sau chấn thương. Cefixim cũng thể hiện hiệu quả trong việc kiểm soát các nhiễm trùng đường tiêu hóa, như tiêu chảy do vi khuẩn.
Dược động học
Hấp thu
Sau khi uống một liều đơn cefixim, chỉ có khoảng 30-50% liều được hấp thu qua đường tiêu hoá, bất kể uống trước hoặc sau bữa ăn. Tuy nhiên, tốc độ hấp thu của cefixime có thể bị giảm khi uống cùng thức ăn. Dạng hỗn dịch uống của thuốc được hấp thu tốt hơn so với dạng viên.
Tốc độ hấp thu của cefixim là tương đối chậm. Khi uống Cefixim 200mg liều dùng duy nhất, nồng độ cao nhất trong huyết thanh đạt khoảng 2-3 microgam/ml, 3,7-4,6 microgam/ml (đối với liều 400 mg), và đạt sau khi uống từ 2-6 giờ.
Ở người khỏe mạnh dùng liều 100 mg – 2 g dưới dạng viên nang, dung dịch hoặc hỗn dịch uống, nồng độ cao nhất trong huyết thanh (đỉnh huyết thanh) và diện tích dưới đường cong (AUC) tăng khi liều tăng, nhưng không tỷ lệ thuận với liều; hấp thu qua đường tiêu hóa giảm khi tăng liều.
Liều Cefixim trẻ em từ 4-8 mg/kg thì nồng độ cefixim huyết thanh cũng không tỷ lệ thuận với liều.
Ở người cao tuổi dùng liều 400 mg/ngày uống 1 lần trong 5 ngày, nồng độ cefixim cao nhất trong huyết thanh tăng khoảng 20-26% và AUC tăng cao hơn 40-42% so với người từ 18-35 tuổi, tuy vậy không có ý nghĩa lâm sàng.
Phân bố
Khoảng 65% cefixim trong máu gắn với protein huyết tương. Thông tin về sự phân bố của cefixim trong các mô và dịch của cơ thể vẫn còn hạn chế. Sau khi uống, thuốc được phân bố vào đờm, amidan, niêm mạc xoang hàm, mật, mủ tai giữa, dịch vết bỏng, dịch tuyến tiền liệt. Thuốc cũng có khả năng qua màng nhau thai và có thể đạt nồng độ tương đối cao trong mật và nước tiểu.
Chuyển hóa và thải trừ
Nửa đời của cefixim trong huyết tương thường khoảng 3 đến 4 giờ và có thể kéo dài khi bị suy thận. Nửa đời huyết thanh của cefixim không phụ thuộc vào dạng bào chế và liều.
Khoảng 20% liều uống (hoặc 50% liều hấp thu) được đào thải ở dạng không biến đổi qua nước tiểu trong vòng 24 giờ. Có khoảng 60% liều uống đào thải không qua thận. Hiện chưa có bằng chứng về chuyển hóa, nhưng có thể một phần thuốc được đào thải từ gan vào phân.
Độc tính ở người
Các tác dụng phụ không mong muốn của cefixim cũng tương tự như với các cephalosporin khác. Thường thì cefixim được dung nạp tốt, và các tác dụng không mong muốn thường thoáng qua, ở mức độ nhẹ và vừa. Ước tính tỷ lệ gặp tác dụng không mong muốn có thể lên tới 50% số người bệnh dùng thuốc, nhưng chỉ có khoảng 5% số người bệnh cần phải ngừng thuốc.
Trong trường hợp quá liều cefixim, có thể xuất hiện triệu chứng co giật. Do không có thuốc điều trị đặc hiệu, việc điều trị chủ yếu tập trung vào giảm nhẹ triệu chứng. Khi có triệu chứng quá liều, phải ngừng thuốc ngay và tiến hành xử trí như sau: rửa dạ dày, và có thể sử dụng thuốc chống co giật nếu có chỉ định lâm sàng. Do cefixim không loại qua thận qua quá trình thẩm phân, không cần chạy thận nhân tạo hay thực hiện lọc màng bụng.
Tính an toàn
Hiện chưa có đủ dữ liệu nghiên cứu về việc sử dụng cefixim ở phụ nữ mang thai, trong giai đoạn chuyển dạ và khi đang đẻ. Vì vậy, chỉ nên sử dụng cefixim cho những trường hợp này khi thật sự cần thiết.
Hiện tại, vẫn chưa có đủ dữ liệu nghiên cứu khẳng định rõ cefixim có phân bố vào sữa ở phụ nữ cho con bú hay không. Vì vậy, khi sử dụng cefixim cho phụ nữ cho con bú, cần thận trọng và có thể xem xét tạm ngừng cho con bú trong thời gian dùng thuốc.
Tương tác với thuốc khác
Probenecid tăng nồng độ đỉnh và diện tích dưới đường cong (AUC) của cefixim, giảm độ thanh thải qua thận và thể tích phân bố của thuốc.
Khi dùng cùng cefixim, các thuốc chống đông như warfarin làm tăng thời gian prothrombin và có thể kèm theo chảy máu.
Việc uống carbamazepine cùng cefixim làm tăng nồng độ carbamazepin trong huyết tương.
Khi uống cùng cefixim, nifedipin làm tăng sự hấp thu của cefixim, thể hiện bằng sự tăng nồng độ đỉnh và AUC.
Tác dụng của cefixime có thể tăng cường khi dùng cùng với các tác nhân gây acid uric niệu.
Cefixim có thể làm giảm hoạt tính của vaccin thương hàn do đó không nên sử dụng đồng thời.
Lưu ý khi sử dụng Cefixime
Trước khi bắt đầu điều trị bằng cefixim, cần tiến hành điều tra kỹ về tiền sử dị ứng của người bệnh đối với penicilin và các cephalosporin khác, vì có sự quá mẫn chéo giữa các kháng sinh nhóm beta-lactam, bao gồm cephalosporin, penicilin và cephamycin.
Cần thận trọng khi sử dụng cefixim ở người có tiền sử bệnh đường tiêu hóa và viêm đại tràng, nhất là khi dùng kéo dài, vì có nguy cơ làm phát triển quá mức các vi khuẩn kháng thuốc. Đặc biệt, Clostridium difficile ở ruột có thể làm ỉa chảy nặng, và khi gặp trường hợp này cần ngừng thuốc và điều trị bằng các kháng sinh khác như metronidazol hoặc vancomycin. Ngoài ra, ỉa chảy trong 1 – 2 ngày đầu thường là do thuốc và nếu nhẹ không cần ngừng thuốc. Cefixim cũng có khả năng thay đổi vi khuẩn ở ruột.
Giống như các kháng sinh khác, sử dụng cefixim trong thời gian dài có thể làm tăng sự phát triển quá mức các vi khuẩn chí ruột, gây bội nhiễm hoặc nhiễm khuẩn trầm trọng bởi các vi khuẩn không nhạy cảm. Bội nhiễm vi khuẩn Gram dương đã được báo cáo xảy ra ở bệnh nhân dùng cefixim điều trị viêm tai giữa hoặc nhiễm khuẩn đường niệu. Vì vậy, cần theo dõi cẩn thận người bệnh dùng cefixim để kịp thời điều trị thích hợp nếu có bội nhiễm xảy ra.
Điều chỉnh liều và/hoặc số lần dùng thuốc cần thiết ở những người bệnh suy thận, kể cả những người đang lọc máu do nồng độ cefixim trong huyết tương ở người suy thận cao và kéo dài hơn so với những người có chức năng thận bình thường.
Đối với Cefixim 100mg cho trẻ dưới 6 tháng tuổi, hiện chưa có đủ dữ liệu về độ an toàn và hiệu lực của cefixim.
Dạng hỗn dịch chứa natri benzoat, cần sử dụng rất thận trọng đối với trẻ sơ sinh, do acid benzoic (của benzoat) là một chất chuyển hóa của benzyl alcohol và một lượng lớn benzyl alcohol (≥ 99 mg/kg/ngày) có liên quan với ngộ độc gây tử vong (Hội chứng thở ngáp cá – Gasping syndrome) ở trẻ sơ sinh. Nghiên cứu trên động vật và in vitro đã cho thấy benzoat có khả năng giải phóng bilirubin từ vị trí gắn kết protein.
Đối với người cao tuổi, thông thường không cần điều chỉnh liều, trừ khi có suy giảm chức năng thận (độ thanh thải creatinin < 60 ml/phút).
Một vài nghiên cứu của Cefixime trong Y học
Tỷ lệ nhạy cảm trên toàn thế giới của Neisseria gonorrhoeae phân lập với cefixime và cefpodoxime
Bối cảnh: Nhiễm trùng Neisseria gonorrhoeae (NG) là một vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng. Các cephalosporin phổ mở rộng (ESC) thế hệ thứ ba đã được sử dụng làm phương pháp điều trị đầu tay cho nhiễm trùng NG trong gần ba thập kỷ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, những thất bại điều trị bằng ESC thế hệ thứ ba đường uống đã được báo cáo trên toàn thế giới.
Nghiên cứu này nhằm mục đích ước tính tỷ lệ nhạy cảm của NG với cefixime và cefpodoxime trên toàn thế giới bằng cách phân tích dữ liệu từ tất cả các nghiên cứu đã công bố có liên quan.
Phương pháp/phát hiện chính: Hai nhà nghiên cứu đã tìm kiếm độc lập năm cơ sở dữ liệu để xác định các nghiên cứu về tính nhạy cảm của NG với cefixime và cefpodoxime được công bố từ ngày 1 tháng 1 năm 1984 đến ngày 15 tháng 10 năm 2012. Một mô hình hiệu ứng cố định đã được sử dụng để thực hiện phân tích nhóm và thử nghiệm χ2 đã được sử dụng để thực hiện so sánh phân nhóm. Xu hướng xuất bản được đánh giá bằng bài kiểm tra tương quan xếp hạng Begg.
Tỷ lệ nhạy cảm gộp của các chủng NG phân lập với cefixime là 99,8% (KTC 95%: 99,7%-99,8%). Tỷ lệ nhạy cảm với cefixime của NG phân lập từ nam giới thấp hơn đáng kể so với bệnh nhân không có thông tin về giới tính hoặc từ nam và nữ; tỷ lệ mẫn cảm của NG phân lập từ châu Á thấp hơn đáng kể so với từ các lục địa khác; và tỷ lệ nhạy cảm của các chủng NG được thu thập trước hoặc trong năm 2003 cao hơn đáng kể so với sau năm 2003. Tỷ lệ nhạy cảm gộp của các chủng NG phân lập với cefpodoxime là 92,8% (KTC 95%: 89,0%-95,3%), thấp hơn so với cefixime (92,8% so với 99,8%, χ2 = 951,809, P<0,01).
Kết luận: Tỷ lệ nhạy cảm của các chủng NG phân lập với cefixime thay đổi theo giới tính của bệnh nhân và vị trí địa lý mà các chủng NG được thu thập và giảm dần theo thời gian. Tỷ lệ nhạy cảm thấp hơn được báo cáo của NG phân lập với cefixime và các thất bại điều trị liên quan, cũng như sự xuất hiện của các chủng NG kháng cephalosporin kêu gọi kiểm soát nhiễm NG hiệu quả hơn và phát triển các loại kháng sinh mới.
Tài liệu tham khảo
- Drugbank, Cefixime, truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2023.
- Pubchem, Cefixime, truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2023.
- Yu, R. X., Yin, Y., Wang, G. Q., Chen, S. C., Zheng, B. J., Dai, X. Q., Han, Y., Li, Q., Zhang, G. Y., & Chen, X. (2014). Worldwide susceptibility rates of Neisseria gonorrhoeae isolates to cefixime and cefpodoxime: a systematic review and meta-analysis. PloS one, 9(1), e87849. https://doi.org/10.1371/journal.pone.0087849
- Bộ Y Tế (2012), Dược thư quốc gia Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Ấn Độ
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Romania
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Cyprus
Xuất xứ: Cyprus