Không tìm thấy sản phẩm nào khớp với lựa chọn của bạn.

Anthralin

Biên soạn và Hiệu đính

Dược sĩ Phan Hữu Xuân Hạo – Khoa Dược, Trường Y Dược – Đại học Duy Tân.

Danh pháp

Tên chung quốc tế

Anthralin

Tên đồng nghĩa

Dithranol

Tên danh pháp theo IUPAC

1,8-dihydroxy-10H-anthracen-9-one

Nhóm thuốc

Thuốc chống vảy nến

Mã ATC

D – Da liễu

D05 – Thuốc trị vảy nến

D05A – Thuốc trị vảy nến dùng tại chỗ

D05AC – Dẫn chất Antracen

D05AC01 – Dithranol

Phân loại nguy cơ cho phụ nữ có thai

Nhóm C

Mã UNII

U8CJK0JH5M

Mã CAS

1143-38-0

Cấu trúc phân tử

Công thức phân tử

C14H10O3

Phân tử lượng

226.23 g/mol

Cấu trúc phân tử

Anthralin là một hợp chất anthracene, được thay thế bởi nhóm -OH cho hydro ở C-1 và C-8, và với một nhóm oxo ở C-9.

Cấu trúc phân tử anthralin
Cấu trúc phân tử anthralin

Các tính chất phân tử

Số liên kết hydro cho: 2

Số liên kết hydro nhận: 3

Số liên kết có thể xoay: 0

Diện tích bề mặt tôpô: 57.5 Ų

Số lượng nguyên tử nặng: 17

Các tính chất đặc trưng

Điểm nóng chảy: 178 – 182°C

Điểm sôi: 464.1 ± 45.0°C ở 760mmHg

Tỷ trọng riêng: 1.4 ± 0.1 g/cm3

Phổ hồng ngoại: Đạt cực đại tại 2925cm-1

Cảm quan

Anthralin có dạng bột kết tinh màu cam, không mùi, không vị và không tan trong nước.

Dạng bào chế

Thuốc mỡ: 0,1%; 1%.

Bột nhão: 0,1%; 1%.

Kem: 0,1%; 0,25%; 0,5%.

Một số dạng bào chế Anthralin
Một số dạng bào chế Anthralin

Độ ổn định và điều kiện bảo quản

Các dạng bào chế của anthralin nên được bảo quản kín trong bao bì gốc của nhà sản xuất, ở nhiệt độ phòng dưới 30°C.

Nguồn gốc

Năm 1876, Balmanno Squire, bác sĩ phẫu thuật của Bệnh viện Bệnh da Anh đã báo cáo việc sử dụng axit chrysophanic, một sản phẩm tự nhiên có nguồn gốc từ bột Goa, như một phương pháp điều trị hiệu quả cho bệnh vẩy nến. Ông cũng lưu ý về tình trạng kích ứng da và sự nhuộm màu nâu, thậm chí đến ngày nay vẫn còn là những nhược điểm điều trị chính.

Việc sử dụng bột Goa trong y tế đã được Fayrer ở Calcutta chú ý đến trong giới y học và dược phẩm vào năm 1874. Theo đó, loại bột này được biết đến ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới dưới nhiều tên gọi khác nhau (bột Goa ở Ấn Độ; poh de Bahia ở Trung Quốc và Malaysia; và bột araroba ở Brazil) và được sử dụng để điều trị nhiễm nấm da.

Da Silva Lima ở Brazil, khi đọc bài báo của Fayrer, đã nhận ra đây là cùng một chất được sản xuất ở tỉnh Bahia của Brazil từ một cây araroba (từ “araroba” có nghĩa là màu nâu vàng). Ông lưu ý rằng nó được chiết xuất từ tủy của thân và cành, đồng thời những người thợ làm công việc chặt cây và đập nhựa cây phải bảo vệ khuôn mặt của họ khỏi những tác động gây khó chịu của nó.

Bột Goa được xuất khẩu sang các thuộc địa khác của Bồ Đào Nha (Brazil khi đó là thuộc địa) như Mô-dăm-bích, sau đó được tái xuất sang phần còn lại của Ấn Độ nên có tên là bột Goa.

Bột Goa được Kemp đặt tên là chrysarobin (araroba màu vàng) ở Bombay vào năm 1863. Một mẫu được Attfield phân tích ở London vào năm 1875, và ông phát hiện ra rằng 85% bột hòa tan trong benzen có chứa axit chrysophanic. Chất này đã được các nhà hóa học và bác sĩ biết đến, được chiết xuất từ cây đại hoàng và được sử dụng như một loại thuốc tẩy.

Squire nghĩ rằng đây là thành phần hoạt động và đã sử dụng benzen để tinh chế bột Goa. Tuy nhiên, vào năm 1878, Liebermann và Seidler đã chỉ ra rằng thành phần hoạt tính chống vẩy nến trong bột Goa không phải là anthraquinone, axit chrysophanic, mà là một sản phẩm khử của nó, được biết đến trong y văn Đức là chrysarobin.

Chế phẩm chống vẩy nến tổng hợp đầu tiên có liên quan, anthralin, được sản xuất tại Đức bởi Galewsky và được đặt tên là Cignolin. Ông phát hiện ra rằng công thức hiệu quả nhất chứa 0,05% đến 0,1% anthralin trong axeton, hoặc bao gồm 0,5% axit salicylic và chất xác định cacbonis rượu (LCD) trong thuốc mỡ. Đồng thời, Unna đã điều tra một số dẫn xuất của anthrone do Friedrich Bayer and Company cung cấp, tuy nhiên chỉ có anthralin và 1-hydroxy, 9-anthrone được tìm thấy là có đặc tính chống vẩy nến.

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu sâu rộng trong hơn 60 năm nhưng vẫn chưa có một dẫn xuất anthrone nào hiệu quả hơn anthralin được phát hiện.

Dược lý và cơ chế hoạt động

Anthralin là một dẫn xuất anthraquinon tự nhiên, là tác nhân chống vẩy nến và chống viêm. Theo đó, anthralin có khả năng kiểm soát sự phát triển của da bằng cách giảm sự tổng hợp DNA và hoạt động phân bào ở lớp biểu bì tăng sản, bình thường hóa tốc độ tăng sinh tế bào và sừng hóa.

Ở người bệnh vảy nến, anthralin ức chế sự tăng sinh của tế bào sừng, ngăn chặn hoạt động của tế bào lympho T và thúc đẩy sự biệt hóa tế bào. Hơn nữa, hiệu quả của anthralin như một chất chống vảy nến một phần là do khả năng thúc đẩy quá trình peroxy hóa lipid và làm giảm nồng độ của các phân tử kết dính nội mô, được phát hiện là tăng cao ở bệnh nhân vảy nến.

Ngoài ra, các nghiên cứu gần đây cho thấy khả năng ngăn chặn sự hoạt hóa tế bào lympho T và bình thường hóa sự biệt hóa tế bào sừng có thể xảy ra do tác động trực tiếp lên ty thể.

Ứng dụng trong y học

Anthralin được biến đến như một loại thuốc có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh vảy nến. Với các chế phẩm gồm kem bôi, thuốc mỡ và dầu gội đầu, khả năng hỗ trợ điều trị bệnh vảy nến của anthralin bao gồm cả vảy nến toàn thân và vảy nến da đầu. Mặc dù thuốc có tác dụng chậm hơn trong việc kiểm soát tình trạng bệnh lý này (thường là vài tuần) so với glucocorticoid steroid, nhưng anthralin không có khả năng gây phản ứng trở lại khi ngừng thuốc.

Ngoài ra, cũng có một số bằng chứng dự kiến cho thấy anthralin có thể hữu ích cho chứng rụng tóc từng mảng.

Kem bôi Anthralin

Kem bôi anthralin là một antimitotic tại chỗ, có tác dụng ngăn cản sự phân bào, làm chậm sự sinh sản của tế bào da và bình thường hóa hoạt động của DNA trong các tế bào da. Đây là một hoạt động rất quan trọng giúp hạn chế sự phát triển của các tế bào vảy nến trên da, kiểm soát được tình trạng tăng sinh tế bào, từ đó kìm hãm bệnh vảy nến.

Thuốc mỡ Anthralin

Thuốc mỡ anthralin là một loại thuốc mỡ không chứa steroid có đặc tính tương tự như vitamin D. Theo đó, tác dụng chính của thuốc là làm chậm quá trình tăng sinh các tế bào da ở bệnh vảy nến, loại bỏ các mảng vảy bám, tái tạo tế bào da và sản sinh tế bào da mới. Ngoài ra, hiệu quả của thuốc mỡ anthralin có thể tăng cao nếu được sử dụng kèm với biện pháp trị liệu ánh sáng, sử dụng tia cực tím như laser excimer.

Dầu gội Anthralin

Tương tự như thuốc mỡ và kem bôi, dầu gội anthralin cũng có đặc tính và tác dụng là giảm sự phân bào, ngăn cản sự tăng sinh các tế bào da đầu. Theo đó, dầu gội anthralin giúp cải thiện tình trạng vảy nến da đầu thông qua cơ chế tái tạo và làm mềm da, giúp giảm tình trạng bong tróc vảy nến.

Dược động học

Anthralin được dùng tại chỗ. Thuốc thâm nhập vào vùng da bị tổn thương và các tổn thương vảy nến nhanh hơn và ở mức độ lớn hơn so với da bình thường. Nguyên nhân này có thể là do sự tăng sinh mạch của các tổn thương vảy nến.

Mức độ hấp thu toàn thân của thuốc sau khi bôi chưa được xác định và không có dấu vết của chất chuyển hóa anthraquinon được phát hiện trong nước tiểu của những bệnh nhân được điều trị trong một nghiên cứu lâm sàng hạn chế. Đồng thời, anthralin cũng không ức chế hoạt động của enzym microsom gan.

Độc tính ở người

Hiện tại vẫn chưa có bằng chứng về bất kỳ độc tính dài hạn nào của anthralin liên quan đến việc tiếp xúc với da hoặc các vấn đề toàn thân.

Một số nghiên cứu dài hạn trên chuột đã chứng minh anthralin có khả năng gây khối u trên da chuột. Tuy nhiên khả năng gây ung thư này vẫn chưa được đánh giá kỹ lưỡng và cũng chưa được quan sát thấy ở người tại thời điểm này.

Tính an toàn

Anthralin được chống chỉ định với người có tình trạng đỏ da toàn thân, người bệnh vẩy nến cấp hoặc vẩy nến mụn mủ toàn thân, typ Zumbusch và viêm da.

Các nghiên cứu hiện tại vẫn chưa xác định liệu anthralin có thể gây hại cho thai nhi khi người mẹ dùng thuốc trong thời kỳ mang thai hay không. Do đó, chỉ nên sử dụng anthralin trong thời kỳ mang thai khi được yêu cầu rõ ràng.

Tương tác với thuốc khác

Sử dụng anthralin đồng thời với các thuốc gây mẫn cảm với ánh sáng có thể làm tăng tác dụng mẫn cảm với ánh sáng.

Sử dụng đồng thời với acid ascorbic (vitamin C) hoặc acid oxalic có thể làm tăng độ ổn định của anthralin.

Lưu ý khi sử dụng Anthralin

Anthralin có thể gây cảm giác bỏng rát, đặc biệt quanh vùng da có thương tổn. Do đó, nên bảo vệ vùng da bình thường bằng các loại gel hoặc kem dưỡng ẩm để tránh bị ảnh hưởng bởi thuốc.

Sử dụng cẩn thận ở những chỗ nếp gấp da, trên mặt, ở bộ phận sinh dục, đặc biệt không bôi gần mắt vì có thể gây kích ứng nghiêm trọng. Nếu vô ý để thuốc dính vào mắt, có thể bị viêm kết mạc, giác mạc hoặc mờ đục giác mạc.

Các dạng chế phẩm của anthralin (kể cả dạng dầu gội) đều có thể làm nhuộm màu quần áo, tay và tóc. Do đó, nên mặc quần áo cũ và mang bao tay khi sử dụng thuốc. Đồng thời, không nên để thuốc trên da quá lâu hoặc bôi thuốc rồi nằm lên giường, sofa…

Một vài nghiên cứu của Anthralin trong Y học

Điều trị bệnh vẩy nến dạng mảng bằng laser excimer 308nm kết hợp với anthralin hoặc calcipotriol

Mục đích: Sự kết hợp giữa laser excimer và thuốc dùng ngoài chưa được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng. Nghiên cứu so sánh giữa các bệnh nhân này đánh giá tỷ lệ đáp ứng của bệnh vẩy nến thể mảng sau khi điều trị bằng thuốc bôi tại chỗ (anthralin hoặc calcipotriol), chỉ dùng laser, và điều trị kết hợp với thuốc bôi và laser.

Treatment of plaque-type psoriasis with the 308 nm excimer laser in combination with dithranol or calcipotriol
Treatment of plaque-type psoriasis with the 308 nm excimer laser in combination with dithranol or calcipotriol

Phương pháp: Tổng số 61 bệnh nhân có mảng vảy nến nằm ở các vùng cơ thể đối xứng (PASI ≥ 6) đã được sàng lọc, 59 người đã đăng ký, 54 người hoàn thành điều trị và 45 người hoàn thành 6 tháng theo dõi.

Điều trị bằng laser excimer được thực hiện hai lần mỗi tuần cho đến khi giải quyết được hoặc tối đa là 15 lần điều trị. Mỗi loại thuốc mỡ được bôi lên một trong các tổn thương thử nghiệm, chúng phải cách xa nhau ít nhất 10 cm. Hiệu quả được đánh giá bằng điểm PASI đã sửa đổi.

Kết quả: Vào cuối đợt điều trị, chỉ có một bệnh nhân trong cả hai phác đồ điều trị tại chỗ đáp ứng tiêu chuẩn khỏi bệnh một phần (PASI điều chỉnh ≤ 2). Các liệu pháp kết hợp dẫn đến 23 trường hợp khỏi một phần ở cả hai nhóm điều trị. Bốn khu vực được điều trị bằng calcipotriol, tương ứng sáu khu vực được điều trị bằng anthralin dẫn đến sự thanh thải toàn bộ vào cuối giai đoạn điều trị.

Mức giảm trung bình của điểm PASI được điều chỉnh khi kết hợp cao hơn so với điều trị tại chỗ (49,8% calcipotriol + excimer so với 22,9% calcipotriol, 49,7% anthralin + excimer so với 26,8% anthralin). Sau sáu tháng, tổng độ thanh thải của 30,5% anthralin + excimer.

Kết luận: Điều trị vảy nến thể mảng bằng tia laser kết hợp với điều trị tại chỗ là một liệu pháp an toàn và hiệu quả. Kết quả lâu dài tốt nhất có thể đạt được bằng cách áp dụng anthralin và laser excimer.

Tài liệu tham khảo

  1. 1. Drugbank, Anthralin, truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2022.
  2. 2. Rogalski, C., Grunewald, S., Schetschorke, M., Bodendorf, M. O., Kauer, F., Simon, J. C., & Paasch, U. (2012). Treatment of plaque-type psoriasis with the 308 nm excimer laser in combination with dithranol or calcipotriol. International journal of hyperthermia : the official journal of European Society for Hyperthermic Oncology, North American Hyperthermia Group, 28(2), 184–190. https://doi.org/10.3109/02656736.2011.647942
  3. 3. Pubchem, Anthralin, truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2022.
  4. 4. Bộ Y Tế (2012), Dược thư quốc gia Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội

 

Không tìm thấy sản phẩm nào khớp với lựa chọn của bạn.