Acid Tiaprofenic
Danh pháp
Tên chung quốc tế
Tên danh pháp theo IUPAC
2-(5-benzoylthiophen-2-yl)propanoic acid
Nhóm thuốc
Thuốc chống viêm không steroid ( NSAIDs)
Mã ATC
M — Hệ cơ xương
M01 — Thuốc chống viêm và kháng khuẩn không steroid
M01A — Thuốc chống viêm và kháng khuẩn không steroid
M01AE — Dẫn xuất của acid propionic
M01AE11 — Acid tiaprofenic
Mã UNII
1LS1T6R34C
Mã CAS
33005-95-7
Cấu trúc phân tử
Công thức phân tử
C 14 H 12 O 3 S
Phân tử lượng
260,31 g/mol
Cấu trúc phân tử
Acid tiaprofenic là một xeton thơm được thay thế thiophene ở C-2 bằng benzoyl và ở C-4 bằng nhóm 1-cacboxyetyl.
Là một thành viên của thiophenes, một acid monocacboxylic và một xeton thơm.
Các tính chất phân tử
Số liên kết hydro cho: 1
Số liên kết hydro nhận: 4
Số liên kết có thể xoay: 4
Diện tích bề mặt tôpô: 82,6 Ų
Số lượng nguyên tử nặng: 18
Các tính chất đặc trưng
Điểm nóng chảy: 96oC
Độ hòa tan trong nước: 3,24e-02g/L
Khả năng liên kết protein: 90%
Thời gian bán hủy: 1.5 đến 2.5 giờ
Cảm quan
Dạng bột kết tinh trắng, có khả năng hòa tan được trong nước với độ hòa tan 3,24e-02g/L
Dạng bào chế
Viên nén Tiaprofenic acid 100mg, 300mg
Độ ổn định và điều kiện bảo quản của Tiaprofenic acid
Cần bảo quản các viên nén Tiaprofenic acid ở ngoài tầm với trẻ em và bảo quản chúng ở nơi khô ráo với điều kiện nhiệt độ < 30oC.
Nguồn gốc
Tiaprofenic acid đã được cấp bằng sáng chế vào năm 1969 và được chấp thuận cho sử dụng trong y tế vào năm 1981.
Tiaprofenic acid có sẵn ở dạng phối hợp và dạng giải phóng kéo dài.
Nó là một đồng phân của Suprofen.
Dược lý và cơ chế hoạt động
Acid tiaprofenic là một loại thuốc chống viêm không steroid thuộc nhóm acid arylpropionic (profen), được sử dụng để điều trị đau, đặc biệt là đau khớp.
Thuốc này hoạt động bằng cách ngăn chặn việc sản xuất một chất trung gian hóa học (prostaglandin) trong cơ thể để làm giảm các triệu chứng đau với chấn thương hoặc một số bệnh.
Ứng dụng trong y học của Tiaprofenic acid
Tiaprofenic acid được chỉ định dùng trong điều trị các trường hợp: Viêm khớp mức độ thấp, viêm khớp, viêm cột sống dính, đau lưng, rối loạn cơ xương như đau cơ xơ, viêm màng hoạt dịch, viêm cột sống và các tình trạng viêm mô mềm khác, bong gân và căng thẳng, viêm và đau sau phẫu thuật, và các chấn thương mô mềm khác.
Các nghiên cứu đã khảo sát tác động của acid tiaprofenic lên sụn khớp thông qua các thí nghiệm in-vitro và ex-vivo sử dụng mô hình động vật và mẫu sụn khớp. Đặc biệt, các thí nghiệm ex-vivo trên chondrocyte của con người cũng đã được tiến hành.
Trong các thí nghiệm này, acid tiaprofenic được sử dụng ở nồng độ tương đương với liều điều trị. Kết quả cho thấy, acid tiaprofenic không có tác động giảm sinh tổng hợp các proteoglycan và không ảnh hưởng đến quá trình biệt hóa của các proteoglycan được tiết ra.
Sự phân hủy của các tập hợp proteoglycan cũng bị ức chế.
Những kết quả này cho thấy acid tiaprofenic có tác dụng trung tính hoặc có thể có lợi đối với sụn khớp trong điều kiện thử nghiệm.
Dược động học
Hấp thu
Sau khi uống 90 phút, nồng độ thuốc đạt tối đa. Sinh khả dụng đạt 90%.
Phân bố
Khả năng liên kết với protein huyết tương khoảng 97 – 98%.
Chuyển hóa
Tiaprofenic acid chuyển hóa thành hai chất chuyển hóa chính khoảng 10% liều dùng được bài tiết qua nước tiểu và có hoạt tính dược lý không cao.
Hợp chất ban đầu được bài tiết gần như dưới dạng acylglucuronid.
Đào thải
60% thuốc được đào thải qua nước tiểu, khoảng 40% còn lại được bài tiết trong mật.
Độc tính của Tiaprofenic acid
Một số triệu chứng bao gồm đau đầu, buồn nôn, nôn, đau bụng trên, xuất huyết tiêu hóa, các trường hợp tiêu chảy hiếm gặp, mất phương hướng, kích động, bất tỉnh, buồn ngủ, chóng mặt, ù tai, ngất xỉu và thỉnh thoảng co giật. Trong trường hợp ngộ độc đáng kể, suy thận cấp và tổn thương gan có thể xảy ra.
Tương tác của Tiaprofenic acid với thuốc khác
Cần điều chỉnh liều lượng khi sử dụng thuốc hạ đường huyết, phenytoin và thuốc lợi tiểu. Một số thuốc sulfonylurea, khi kết hợp với thuốc hạ đường huyết uống, đã được báo cáo là có thể làm tăng nguy cơ hạ đường huyết bằng cách ức chế quá trình chuyển hóa và kéo dài thời gian bán thải.
Khi sử dụng NSAID kết hợp với thuốc chống đông máu, đã được xem là không an toàn vì có thể làm tăng nguy cơ chảy máu. Các loại thuốc như Heparin, thuốc đối kháng vitamin K (như warfarin), thuốc ức chế kết tập tiểu cầu (như ticlopidine, clopidogrel), thuốc ức chế huyết khối (như dabigatran) và thuốc ức chế yếu tố Xa trực tiếp (như apixaban, rivaroxaban, edoxaban) đều có nguy cơ tăng khi kết hợp với NSAID. Trong trường hợp không thể tránh được sự kết hợp này, bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ.
Việc sử dụng các NSAID khác, bao gồm thuốc ức chế chọn lọc cyclooxygenase-2, và salicylat liều cao cùng lúc với phẫu thuật cần được tránh để giảm nguy cơ tác dụng phụ, đặc biệt là rối loạn tiêu hóa.
Corticosteroid cần được sử dụng thận trọng khi phẫu thuật cùng lúc, vì nó có thể làm tăng nguy cơ loét hoặc chảy máu đường tiêu hóa.
Sự kết hợp giữa nicorandil và NSAID cũng có nguy cơ tăng các biến chứng nặng như loét đường tiêu hóa, thủng và xuất huyết.
Sử dụng cùng lúc phẫu thuật với glycosid trợ tim và sulphonamid cũng cần được thận trọng. Việc sử dụng NSAID có thể làm trầm trọng tình trạng suy tim, giảm tỷ lệ thụ tinh và tăng nồng độ glycosid tim trong huyết tương.
Khi sử dụng phẫu thuật cùng lúc với methotrexate, cần theo dõi giảm thải trừ methotrexate và tránh sử dụng cùng lúc với methotrexate liều cao. Thận trọng cần được thực hiện khi sử dụng methotrexate liều thấp.
Việc sử dụng cùng lúc tenofovir disoproxil fumarate và NSAID có thể tăng nguy cơ suy thận.
NSAID đã được báo cáo làm giảm thải trừ lithium, có thể làm tăng nồng độ lithium trong huyết tương ở bệnh nhân đang điều trị bằng phẫu thuật. Do đó, cần theo dõi nồng độ lithium ở những bệnh nhân này.
Không nên sử dụng aspirin và các NSAID khác ít nhất trong 8-12 ngày sau khi sử dụng mifepristone, vì chúng có thể làm giảm tác dụng của mifepristone.
Khi sử dụng phẫu thuật cùng lúc với thuốc lợi tiểu, cần thận trọng vì chúng có thể làm giảm tác dụng lợi tiểu và hạ huyết áp của thuốc lợi tiểu, đồng thời tăng nguy cơ suy thận và/hoặc tăng kali huyết. Sử dụng NSAID cùng lúc với thuốc lợi tiểu có thể tăng nguy cơ gây độc cho thận.
Việc sử dụng NSAID cùng lúc với tacrolimus có thể tăng nguy cơ nhiễm độc thận.
Khi sử dụng NSAID cùng lúc với zidovudine, có nguy cơ tăng nguy cơ nhiễm độc huyết học. Đã có bằng chứng về sự gia tăng nguy cơ mắc bệnh máu khó đông và tụ máu ở bệnh nhân HIV dương tính được điều trị đồng thời bằng zidovudine và ibuprofen.
Nên thận trọng khi sử dụng phẫu thuật cùng lúc với thuốc ức chế men chuyển và thuốc đối kháng thụ thể Angiotensin II.
Suy giảm chức năng thận, bao gồm suy thận cấp, có thể xảy ra ở những bệnh nhân có chức năng thận bị tổn thương, chẳng hạn như bệnh nhân mất nước hoặc cao tuổi.
Lưu ý khi dùng Tiaprofenic acid
Lưu ý và thận trọng chung
Lưu ý trong rối loạn hô hấp
Cần thận trọng khi sử dụng NSAID ở bệnh nhân hoặc có tiền sử hen phế quản vì NSAID đã được báo cáo là gây co thắt phế quản ở những bệnh nhân này.
Xuất huyết tiêu hóa, loét và thủng
Chảy máu đường tiêu hóa (GI), loét hoặc thủng, có thể gây tử vong, đã được báo cáo với tất cả các NSAID bất cứ lúc nào trong quá trình điều trị, có hoặc không có triệu chứng cảnh báo hoặc tiền sử biến cố đường tiêu hóa nghiêm trọng.
Bệnh nhân có tiền sử nhiễm độc đường tiêu hóa, đặc biệt là khi cao tuổi, nên báo cáo bất kỳ triệu chứng bụng bất thường nào (đặc biệt là chảy máu đường tiêu hóa) sớm trong quá trình điều trị.
Cần thận trọng ở những bệnh nhân đồng thời dùng thuốc làm tăng nguy cơ loét hoặc chảy máu, chẳng hạn như corticosteroid đường uống, thuốc chống đông máu như warfarin, thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc, thuốc kháng tiểu cầu như aspirin hoặc nicorandil.
Phản ứng da liễu
Các phản ứng da nghiêm trọng, một số trong đó có thể gây tử vong, bao gồm viêm da tróc vảy, hội chứng Stevens-Johnson và hoại tử biểu bì độc hại, đã được báo cáo rất hiếm khi với NSAID. Bệnh nhân có nguy cơ cao nhất đối với các phản ứng này là những người điều trị sớm, với sự khởi đầu của phản ứng xảy ra trong phần lớn các trường hợp trong tháng đầu điều trị. Nên ngừng phẫu thuật khi xuất hiện lần đầu tiên phát ban da, tổn thương niêm mạc hoặc bất kỳ dấu hiệu quá mẫn cảm nào khác.
Suy tim mạch, thận và gan
Việc sử dụng NSAID có thể dẫn đến giảm sự hình thành tuyến tiền liệt, suy thận phụ thuộc liều. Bệnh nhân có nguy cơ cao nhất đối với phản ứng này là những người có chức năng thận suy giảm, suy tim, rối loạn chức năng gan, những người dùng thuốc lợi tiểu và người già. Cần theo dõi chức năng thận ở những bệnh nhân này.
Ảnh hưởng đến hệ thống tim mạch và mạch máu não
Theo dõi và tư vấn thích hợp được khuyến cáo cho bệnh nhân có tiền sử tăng huyết áp và/hoặc suy tim sung huyết nhẹ đến trung bình vì tình trạng giữ nước và phù nề đã được báo cáo với liệu pháp NSAID.
Thử nghiệm lâm sàng và dữ liệu dịch tễ học cho thấy rằng việc sử dụng một số NSAID (đặc biệt là ở liều cao và điều trị lâu dài) có thể liên quan đến tăng nguy cơ biến cố huyết khối động mạch (ví dụ: nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ). Không có đủ dữ liệu để loại trừ nguy cơ như vậy đối với acid tiaprofenic.
Không sử dụng thuốc này cho trẻ em.
Lưu ý cho phụ nữ đang mang thai
Mặc dù các nghiên cứu trên động vật không cho thấy bằng chứng về tác dụng gây quái thai, nhưng sự an toàn trong khi mang thai và cho con bú không thể được giả định đối với con người và nói chung là giống nhau đối với các NSAID khác. NSAID không nên được sử dụng trong hai tam cá nguyệt đầu của thai kỳ hoặc trong khi chuyển dạ và sinh nở trừ khi lợi ích tiềm năng cho bệnh nhân lớn hơn nguy cơ tiềm ẩn cho thai nhi.
Lưu ý cho bà mẹ đang cho con bú
Mức độ thuốc được tìm thấy trong sữa mẹ đã được nghiên cứu, và tổng phơi nhiễm hàng ngày ở trẻ sơ sinh rất thấp, khoảng 0,2% liều mẹ, không có ý nghĩa dược lý. Nên ngừng cho con bú hoặc điều trị cho bà mẹ nếu cần thiết.
Lưu ý khi lái xe và vận hành máy móc
Các tác dụng không mong muốn như chóng mặt, buồn ngủ, mệt mỏi và rối loạn thị giác có thể xảy ra sau khi dùng NSAID. Nếu bị ảnh hưởng, bệnh nhân không nên lái xe hoặc vận hành máy móc.
Một vài nghiên cứu về Tiaprofenic acid trong Y học
Liều duy nhất acid tiaprofenic đường uống để giảm đau cấp tính sau phẫu thuật ở người lớn
Bối cảnh: acid tiaprofenic là một loại thuốc chống viêm không steroid (NSAID). Nó được phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới, với các chỉ định điều trị viêm xương khớp, viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, rối loạn quanh khớp, căng cơ và bong gân. Tổng quan này tìm cách đánh giá hiệu quả và độ an toàn của acid tiaprofenic đường uống trong cơn đau cấp tính sau phẫu thuật, sử dụng các nghiên cứu lâm sàng trên bệnh nhân bị đau đã xác định và với kết quả được đo chủ yếu trong hơn 6 giờ bằng các phương pháp tiêu chuẩn. Loại nghiên cứu này đã được sử dụng trong nhiều thập kỷ để chứng minh rằng thuốc có đặc tính giảm đau.
Mục tiêu: Để đánh giá hiệu quả của acid tiaprofenic đường uống liều duy nhất trong cơn đau cấp tính sau phẫu thuật và bất kỳ tác dụng phụ nào liên quan.
Chiến lược tìm kiếm: Chúng tôi đã tìm kiếm Cochrane CENTRAL, MEDLINE, EMBASE và Cơ sở dữ liệu giảm đau Oxford cho các nghiên cứu đến tháng 6 năm 2009.
Tiêu chí lựa chọn: Các thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng giả dược đối với acid tiaprofenic dùng đường uống liều duy nhất ở người lớn bị đau cấp tính từ trung bình đến nặng sau phẫu thuật.
Thu thập và phân tích dữ liệu: Hai tác giả đánh giá độc lập chất lượng thử nghiệm và trích xuất dữ liệu. Chúng tôi đã lên kế hoạch sử dụng diện tích bên dưới đường cong “giảm đau theo thời gian” để xác định tỷ lệ những người tham gia sử dụng acid tiaprofenic giảm ít nhất 50% cơn đau trong vòng 4 đến 6 giờ, sử dụng các phương trình đã được kiểm chứng; sử dụng số cần xử lý để có lợi (NNT); tỷ lệ người tham gia sử dụng thuốc giảm đau cấp cứu trong một khoảng thời gian xác định; thời gian sử dụng thuốc giảm đau cấp cứu; thông tin về các sự kiện bất lợi và rút tiền.
Kết quả chính: Không phải một trong số mười một nghiên cứu được xác định bởi các tìm kiếm và kiểm tra chi tiết đã nghiên cứu acid tiaprofenic đường uống so với giả dược ở những bệnh nhân bị đau sau phẫu thuật và do đó không có kết quả.
Kết luận của các tác giả: Trong trường hợp không có bằng chứng về hiệu quả của acid tiaprofenic đường uống trong cơn đau cấp tính sau phẫu thuật, việc sử dụng nó trong chỉ định này hiện tại không được chứng minh. Bởi vì các thử nghiệm chứng minh rõ ràng hiệu quả giảm đau trong các nghiên cứu cơ bản nhất về đau cấp tính còn thiếu, nên việc sử dụng trong các chỉ định khác nên được đánh giá cẩn thận. Với số lượng lớn các loại thuốc hiện có thuộc nhóm này và các nhóm tương tự có hiệu quả, không có chương trình nghiên cứu khẩn cấp nào cho loại thuốc đặc biệt này.
Tài liệu tham khảo
- Drugbank, Tiaprofenic acid , truy cập ngày 31/05/2023.
- Pubchem, Tiaprofenic acid, truy cập ngày 31/05/2023.
- Moore, R. A., Derry, S., Moore, M., & McQuay, H. J. (2009). Single dose oral tiaprofenic acid for acute postoperative pain in adults. Cochrane Database of Systematic Reviews, (4).
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam