Tác giả: Christine Hamori, Paul Banwell, Red Alinsod
nhathuocngocanh.com – Bài viết Giảm môi âm hộ thông qua kỹ thuật tạo hình môi lớn được trích từ chương 6 sách Phẫu thuật Thẩm mỹ vùng kín : Chỉ định, Kỹ thuật thực hiện và Áp dụng lâm sàng.
Những điểm chính
Tạo hình môi lớn thường được chỉ định rộng rãi trên lâm sàng với kết quả tốt sau phẫu thuật.
- Loại bỏ vùng da thừa, chùng nhão ở môi lớn hầu như không làm tổn thương các mạch máu lớn, dây thần kinh hay độ nhạy cảm của da.
- Chảy máu là một biến chứng tiềm ẩn cần chú ý trong quá trình thực hiện lọc bỏ các miếng đệm mỡ, vì quy trình này cần cắt đốt các mạch lớn.
- Kiểm soát tình trạng đau sau phẫu thuật thường khó khăn với thủ thuật lọc bỏ các miếng đệm mỡ.
- Các nghiên cứu cho thấy RF đơn cực tần số cao và đốt điện là những công cụ hữu ích trong phẫu thuật giảm môi lớn âm hộ.
- Tạo hình môi bé và môi lớn có thể thực hiện thành hai giai đoạn khác nhau trên 1 bệnh nhân. Khi thực hiện bởi các Bs phẫu thuật đã được đào tạo bài bản, có thể kết hợp hai giai đoạn này trong cùng một cuộc mổ ở những bệnh nhân đủ điều kiện và sức chịu đựng cho cuộc phẫu thuật lớn.
Môi lớn, được cấu tạo phần lớn bởi tổ chức mỡ, là cấu trúc đôi nằm đối xứng hai bên lỗ âm đạo kéo dài từ đáy gò mu tới gần hậu môn-trực tràng. Các biến thể giải phẫu liên quan đến chiều dài và thể tích của môi lớn phần lớn là bình thường và hiếm khi được coi là bất thường bệnh lý. Chiều dài dao động từ 7-12 cm, trung bình là 9.3 cm. Các yếu tố di truyền và môi trường có thể góp phần vào sự khác biệt về kích thước và hình dạng của môi lớn. Theo thời gian, môi lớn có thể bị sa hoặc chảy xệ do lão hóa hoặc sau phẫu thuật điều trị béo phì (Hình 6-1). Ngược lại, việc tích tụ các chất béo dư thừa (do di truyền hoặc do béo phì) có thể làm tăng kích thước và kéo dài môi lớn, dẫn tới mất cân đối. Cuối cùng, tình trạng lỏng lẻo tổ chức dưới da ở những bệnh nhân sau giảm cân lượng lớn có thể khá nghiêm trọng, cần tới phẫu thuật tạo hình hoặc RF để thu nhỏ môi.
Kích thước môi lớn thường là vấn đề nan giải của một số phụ nữ, điển hình là hiện tượng lộ ra dưới các lớp quần áo bó, đồ bơi hoặc khi quan hệ. Điều này có thể ảnh hưởng tới chức năng khi quan hệ tình dục, vệ sinh kém và đặc biệt là tình trạng khó chịu cho bệnh nhân. Ví dụ như những người hay đi xe đạp, cưỡi ngựa, chèo thuyền… Từ trước tới nay chúng ta vẫn luôn đề cập đến một hình ảnh dễ liên tưởng tới vấn đề này của phụ nữ, đó là hình ảnh bàn chân lạc đà. Mặc dù là biệt ngữ không chính thống, song nhiều website hay bài báo vẫn đưa cụm này vào để bình luận về hình ảnh của những người nổi tiếng, nhân vật quan trọng và cho rằng đây là vấn đề của họ. Tuy nhiên trên thực tế thì đây lại là điều hoàn toàn bình thường.
Tuy nhiên, có 1 số phụ nữ khi mới sinh ra đã có phần tổ chức mỡ dưới da rất ‘đầy đặn’ ở môi lớn. Các vấn đề về tính cân đối cũng như các triệu chứng (nếu có) xuất phát từ môi lớn quá khổ sẽ đều cần được chăm sóc y tế đầy đủ.
Chỉ định và chống chỉ định
Tạo hình môi là một thủ thuật thẩm mỹ được thực hiện nhằm mục đích giảm kích thước của môi lớn phì đại, giúp cải thiện vẻ ngoài thẩm mỹ của vùng âm hộ. Quy trình này bao gồm loại bỏ phần da thừa của môi lớn và những miếng đệm mỡ ‘dư thừa’; chúng tương tự như phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ âm hộ sửa đổi nhưng không bao gồm nạo vét hạch bẹn. Đôi khi, phẫu thuật này được chỉ định để giải quyết tình trạng phù bạch huyết bẩm sinh của âm hộ. Giảm môi âm hộ này thường được thực hiện trên môi bé và hiện nay là cả môi lớn của những người phụ nữ sau sinh nở hoặc có vùng âm hộ đã lão hóa theo thời gian. Phì đại môi lớn nguyên phát là kết quả của sự dư thừa thể tích do tích tụ chất béo ở môi lớn, trong khi dư môi lớn thứ phát là do tình trạng mất thể tích, dẫn tới chùng/nhão da vùng môi lớn.
Tạo hình môi lớn được thực hiện với mục đích thẩm mỹ, chức năng hoặc cả hai và ít phổ biến hơn tạo hình môi bé. Giảm môi lớn được chỉ định cho bệnh nhân phì đại môi âm hộ ở tất cả các lứa tuổi khác nhau và dành cho những bệnh nhân béo phì sau các liệu trình giảm cân nghiêm ngặt. Ở Mỹ, nhu cầu về phẫu thuật tạo hình môi lớn tương đương với môi bé.
Chống chỉ định bao gồm các tổn thương ở âm hộ chưa được chẩn đoán và loạn dưỡng âm hộ, các tổn thương do nhiễm khuẩn đang hoạt động như herpes hoặc HPV. Chống chỉ định tương đối bao gồm những bệnh nhân đang trong liệu trình giảm cân nghiêm ngặt, vì những bệnh nhân này phẫu thuật sau đó giảm cân có thể dẫn tới tình trạng lỏng lẻo tổ chức dưới da nhiều hơn, lại cần tới chỉnh sửa. Tốt nhất là nên giảm cân trước phẫu thuật.
Đánh giá bệnh nhân
Bệnh nhân được khám ở cả 2 tư thế đứng và sản khoa để đánh giá được tốt nhất giải phẫu liên quan và xác nhận ngoại hình lý tưởng mà cô ấy mong muốn. Mức độ lỏng lẻo của môi lớn sẽ được đánh giá và chụp ảnh lại để lên kế hoạch phẫu thuật. Bệnh nhân cũng có thể được đánh dấu ngay trong lúc khám để xác định đúng mức độ lỏng lẻo của da, tính bất đối xứng và vị trí của các đường rạch, đường khâu sau này. Trong quá trình đánh giá, bệnh nhân sẽ được đưa cho 1 tấm gương để thảo luận trực tiếp với bệnh nhân về tình trạng và hướng xử trí của họ. Bệnh nhân có thể chỉ ra những khu vực gây khó chịu, mất thẩm mỹ đối với cá nhân họ và yêu cầu lượng tổ chức cần loại bỏ. Bằng cách khám trực tiếp, Bs sẽ ước chừng ngoại hình sau phẫu thuật của bệnh nhân và xem xem có thể đạt được yêu cầu như bệnh nhân mong muốn không. Tốt nhất nên giải thích kỹ, rằng việc loại bỏ quá mức môi lớn có thể kéo lỗ âm đạo rộng ra hơn mức bình thường do tình trạng co kéo sau phẫu thuật, ảnh hưởng tới chức năng tinh dục của bệnh nhân. Nếu điều này không ảnh hưởng tới sinh hoạt của họ, vẫn có thể chấp nhận yêu cầu và phầu thuật. Tuy nhiên, loại bỏ lượng mô vừa đủ là tốt nhất, đặc biệt những bệnh nhân có yêu cầu cao về mặt thẩm mỹ.
Nên khám sức khỏe tổng quát và thử thai ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Các xét nghiệm máu, chẳng hạn như CBC và chất điện giải, thường không cần thiết ở phụ nữ khỏe mạnh. Các thăm khám khác sẽ tùy theo từng trường hợp cụ thể.
Lên kế hoạch và chuẩn bị
Sau khi thảo luận, bác sĩ phẫu thuật và bệnh nhân sẽ thống nhất được kế hoạch, và ghi lại bằng các bản vẽ và / hoặc hình ảnh về phần tổ chức sẽ được cắt bỏ. Sau khi hoàn tất các thủ tục, bệnh nhân cần ký vào một cam kết đồng thuận về phẫu thuật sắp sửa được thực hiện trên cơ thể mình.
Mô tả kỹ thuật
Vô cảm
Bệnh nhân được hướng dẫn bôi kem gây tê tại chỗ (EMLA hoặc hỗn hợp thuốc gây tê tại chỗ) lên vùng phẫu thuật khoảng 2 giờ trước khi bắt đầu phẫu thuật. Trước khi bắt đầu khoảng 15-30 phút, nên áp máy điện di thuốc tê qua da để đẩy các phần tử lớn xuống dưới da, tạo điều kiện vô cảm tốt cho cuộc mổ.
Nên chuẩn bị khoảng 10 ml thuốc gây tê cục bộ với epinephrine, đưa qua da bằng kim 30G để tránh hiện tượng thuốc giảm đau phân bố không đều. Thuốc an thần dạng uống hoặc tiêm bắp được dùng kết hợp với thuốc giải lo âu như Valium hoặc Ativan trước phẫu thuật. Thuốc gây tê cục bộ phủ liposome tác dụng kéo dài, chẳng hạn như Exparel, có thể sử dụng để kiểm soát cơn đau sau phẫu thuật; tác dụng trong 72 giờ hoặc hơn. Nếu dùng Exparel, không nên dùng cùng lido, vì nó sẽ phá vỡ liposome và làm giảm thời gian tác dụng của Exparel.Đánh dấuHình. 6-2 đánh dấu vùng phẫu thuật. Đánh dấu 1 đường thẳng bắt đầu từ điểm trên cùng mũ âm vật, đi thẳng theo rãnh môi lớn (giữa măt ngoài môi lớn và mặt trong mũ âm vật. Đường thẳng được đánh dấu tới mức ngang lỗ âm đạo. Một nửa đường elip được dựng với cạnh lớn nhất là đường thẳng chúng ta vừa vẽ, sao cho đường bán elip này ‘bao phủ’ toàn bộ môi lớn. Thực hiện đánh dấu bên còn lại một hình bán elip đối xứng với đường vừa rồi. Có thể điều chỉnh kích thước hình elip để chừa lại 1 phần, tránh làm rộng lỗ âm đạo sau phẫu thuật.
Tư thế bệnh nhân
Bệnh nhân được đặt ở tư thế sản khoa, chân được gác trên giá đỡ, đảm bảo sự thoải mái và máu được lưu thông tốt. Nên đặt đệm lót dưới gối và bắp chân hơn là đặt ở gót chân đơn thuần.
Kỹ thuật
Các thiết bị và dụng cụ phẫu thuật được sử dụng trong phẫu thuật giảm môi lớn bao gồm dụng cụ hút mỡ, dao mổ, dao điện, la-ser tiếp xúc và RF. Hút mỡ thường sử dụng nhất trong những ca có phì đại môi lớn, nhưng hậu quả để lại phần da thừa hoặc tổ chức dưới da lỏng lẻo sau phẫu thuật. Kết quả sau hút mỡ thường không quá khả quan vì lượng mô mỡ ở môi lớn thường không quá nhiều, dẫn tới việc sử dụng hút mỡ vừa không hiệu quả (thường áp dụng cho tổ chức nhiều mỡ) vừa không giải quyết được tình trạng da thừa và chảy xệ. Phần lớn các trường hợp tạo hình môi lớn đều cần thực hiện các công đoạn là lấy bỏ tổ chức mỡ dưới da và lọc bỏ phần da chùng nhão, da thừa. Do đó, hút mỡ nên được kết hợp với giảm môi âm hộ tiêu chuẩn, còn trong trường hợp giảm môi âm hộ có tạo hình (cắt bỏ nhiều) thì có thể không cần hút mỡ đi kèm. Bốc hơi trực tiếp hoặc lọc bỏ lượng mỡ thừa bên dưới là một ưu điểm của giảm môi âm hộ chuyên biệt (có tạo hình). Tuy nhiên, hút mỡ vùng gò mu hoặc môi lớn trong quá trình phẫu thuật có thể dẫn tới tình trạng phù nề, mất cân đôi hoặc thậm chí làm sai lệch giải phẫu và kéo dài thời gian lành vết mổ sau này.
Ở những bệnh nhân có môi lớn to bất thường, giảm môi có thể bằng cách cắt bỏ lượng mỡ dưới da có hoặc không kèm theo hút mỡ, cắt phần tổ chức da thừa hoặc cả hai. Vì hút mỡ có thể dẫn tới tình trạng chùng và thừa da, nên ưu tiên các kỹ thuật giảm môi âm hộ kinh điển trước khi nghĩ tới hút mỡ. Các kỹ thuật chính bao gồm kỹ thuật cắt theo chiều dọc (thẳng) hoặc cắt thẳng có sửa đổi, kiểu wedge hình quả bóng, bắt đầu từ phía trên môi lớn hai bên, đi dọc xuống dưới tới mức ngang đáy chậu. Phần tổ chức dư thừa của môi lớn có thể loại bỏ bằng cách cắt theo chiều dọc, đường cắt hình quả bóng của phần môi phì đại ở giữa và tái tạo mép bằng chỉ tự tiêu. Đường rạch dọc theo chiều dài của môi lớn, từ vị trí cao nhất của phức họp mũ âm vật, tới ngang vị trí của lỗ âm đạo. Kỹ thuật này có thể thực hiện ngay tại phòng khám bằng gây tê tại chỗ, với tổng thời gian thực hiện từ 60 tới 90 phút. Nó để lại 1 vết sẹo dọc có thể nhìn thấy được ở trên đầu môi lớn, tuy nhiên vết sẹo này có thể giấu dưới lớp lông mu.
Một cách tiếp cận đạt tính thẩm mỹ cao và tinh tế hơn là đường rạch dọc có sửa lại bờ từ do bằng chỉ monofilament nhiều lớp. Với cách này, phần bên trong mặt trong hình lưỡi liềm của môi lớn được cắt chính xác trên rãnh giữa môi lớn và môi bé, với đường cắt hướng lên trên, qua ngay vị trí cao nhất của môi lớn. Vết mổ lúc này nằm giữa môi lớn và môi bé, khó có thể phát hiện được. Phẫu thuật tạo hình môi lớn có thể được thực hiện trong phòng phẫu thuật hoặc phòng thủ thuật với gây tê tại chỗ. Các Bs phẫu thuật môi âm hộ giàu kinh nghiệm có thể thực hiện 98% các trường hợp tạo hình môi (lớn + bé) ngay tại phòng thủ thuật với gây tê cục bộ. Quy trình này được thực hiện trong khoảng 60 -90 phút (Hình 6-3). Trong kỹ thuật này, RF đầu nhỏ sẽ được sử dụng để cắt bỏ tổ chức. Tuy nhiên cũng có thể dùng laser CO2, laser 980-diode hoặc dao điện, tuy nhiên các loại dao này không chính xác bằng RF. Cắt bỏ bằng dao lạnh cũng có thể được áp dụng. Sau khi đã rạch da, phần tổ chức dưới da nên xử lý bằng dao điện để tiện cầm máu hơn.
Chúng ta chỉ cần cắt bỏ phần da thừa ở những bệnh nhân không có quá nhiều tổ chức mỡ dưới da. Thông thường, chỉ có 1 lượng nhỏ chất béo nằm dưới da môi lớn, và ngay dưới lớp mỡ mỏng đó sẽ là tổ chức cân mạc. Tuy nhiên, 1 số trường hợp có phần chất béo dưới da nhiều, không cân đối thì chúng ta có thể sử dụng RF để bốc hơi chúng hoặc đốt điện để ‘gọt’ mỏng tổ chức và ‘cố định’ tổ chức phía dưới. Trong các trường hợp đặc biệt, có khi phải đi qua lớp cân mạc dưới da để loại bỏ lượng mỡ nếu việc lấy bỏ phần chất béo phía trên là chưa đủ. Việc này yêu cầu vô cảm tốt hơn, thủ thuật phải được thực hiện tại các trung tâm phẫu thuật lớn có kíp gây mê giàu kinh nghiệm, vì các đệm mỡ chứa nhiều đầu dây thần kinh nên khó có thể ‘quản lý’ tốt nếu chỉ ở phòng khám.
Web (một hoặc cả hai bên) nằm giữa môi lớn và môi bé có thể được xử lý ngay trong phẫu thuật giảm môi. Trong quá trình thực hiện PTTH môi âm hộ toàn diện này, có thể kết hợp tạo hình môi lớn với giảm mũ âm vật và tạo hình môi bé. Khử biểu mô ở mặt ngoài mũ âm vật có thể kết hợp với các kỹ thuật bổ trợ như Z plasty để điều chỉnh nếp da thừa giữa môi lớn và môi bé. Kỹ thuật này yêu cầu phải nối được hãm âm vật với môi lớn. Do đó cần để lại đoạn hãm âm vật dài khoảng 1-2 cm dưới âm vật để tạo ‘sự chuyển tiếp’ mềm mại từ mũ âm vật tới hãm âm vật và tới môi lớn. Phương pháp này giúp ‘làm phẳng’ phần mũ âm vật ‘nhô’ ra ngoài. Các thiết bị như Ellman RF (Ellman International, Hicksville, NY) đã chứng minh được tính ưu việt của chúng trong PTTM tạo hình môi lớn, giúp tối thiểu hóa tác động nhiệt từ dụng cụ phẫu thuật và đồng thời thúc đẩy quá trình lành vết mổ. Hơn nữa, sự chính xác gần như tuyệt đối khi sử dụng thiết bị này phù hợp cho các phẫu thuật tổ chức nhỏ như phức hợp mũ âm vật, đồng thời tránh được tổn thương mô và thần kinh. Năng lượng RF cũng có thể sử dụng để ‘gọt’ tổ chức mỡ dư thừa ở dưới da, giúp giảm kích thước môi lớn và để thu nhỏ mặt ngoài mũ âm vật, giúp tạo sự chuyển tiếp ‘mềm mại’ và giảm độ ‘nhô’ của mũ, tương tự như laser CO2. Cách tiếp cận kết hợp này, được gọi là phẫu thuật tạo hình môi âm hộ toàn diện, chỉ nên được chỉ định và thực hiện bởi các Bs PTTM có kinh nghiệm, trên những bệnh nhân thực sự thích hợp.
Đóng mép vết mổ sao cho chúng chịu ít lực nhất là phần quan trọng nhất trong quá trình phẫu thuật môi (Hình 6-3 D). Đóng da theo từng lớp giúp ngăn ngừa các khoang chết, đồng thời giúp giảm thiểu các vết bầm tím, chảy máu, abscess, và sẹo lớn. Lớp sâu nhất có thể được đóng lại bằng các mối khâu rời hoặc mũi đệm vắt lộn trong. Nên dùng chỉ tự tiêu monocryl 3-0 hoặc 4-0 là tốt nhất, vì chúng giúp hạn chế tình trạng tự tiêu quá nhanh như khi dùng Vicryl. Tiếp đó, lớp dưới da nên dùng chỉ tiêu chậm như Vicryl hoặc Monocryl 4-0 hoặc 5-0 mối rời để có thể kiểm soát được toàn bộ khoảng chết và đồng thời giúp cải thiện thẩm mỹ. Còn lớp ngoài cùng thì nên dùng chỉ Vicryl mối rời để ngăn tình trạng chọc vào niêm mạc của các đầu chỉ monocryl sắc nhọn. Các đường khâu dưới da có thể lành lại trong 6 tuần sau phẫu thuật. Tuy nhiên đường khâu sau mổ có thể bị cứng, do đó nên mát xa hàng ngày trong vòng 2-4 tuần kết hợp với bôi estrogen tại chỗ để ‘làm mềm’ vết khâu. Tuy nhiên điều này có thể mất tới 3 tháng.
Matlock đã phát triển một cách tiếp cận khác — một phương pháp tạo hình tầng sinh môn sửa đổi — để giảm độ ‘nhô’ của da môi lớn lỏng lẻo. Mục tiêu của phương pháp này là kéo xuống và làm phẳng môi âm hộ lồi lõm, mang lại một lỗ âm đạo ‘trẻ trung’ hơn với hình chữ V thay cho hình chữ U ở phần dưới cùng của lỗ. Một số bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ đã sử dụng một phương pháp bổ sung để kéo môi lớn lên trên bằng cách thực hiện phẫu thuật tạo hình gò mu hoặc phẫu thuật tạo hình bụng sửa đổi (kéo lên trên) để giảm độ ‘nhô’ của vùng âm hộ phía dưới. Các quy trình này nên được thực hiện trước khi phẫu thuật tạo hình môi lớn để tạo điều kiện đánh giá chính xác tình trạng môi lớn và ước đoán lượng mô cần loại bỏ. Hút mỡ ở gò mu sẽ được thực hiện sau, trong một quy trình riêng biệt vì việc làm này sẽ dẫn tới phù nề gò mu và có thể ảnh hưởng tới cả môi lớn.
Thủ thuật bổ sung
Thủ thuật bổ sung có thể được thực hiện trong quá trình phẫu thuật tạo hình môi âm hộ bao gồm tạo hình tầng sinh môn, và tạo hình lỗ âm đạo (từ chữ U thành chữ V). Nhược điểm của phương pháp này là tình trạng đau khi giao hợp trong thời gian ngắn sau phẫu thuật. Phẫu thuật tạo hình môi bé và thu nhỏ mũ âm vật có thể được thực hiện sau khi giảm môi lớn. Tốt nhất là phẫu thuật từ môi lớn tới môi bé và cuối cùng là mũ âm vật để có thể đánh giá được tính cân đối và tính toán được lượng tổ chức ở môi bé cần loại bỏ. Giảm môi lớn có xu hướng ‘kéo’ môi bé và giúp làm phẳng 1 phần của chúng. Việc giảm môi âm hộ ở mức vừa phải sẽ tốt hơn là cắt bỏ toàn bộ, bởi vì hiện tượng kéo môi bé sang hai bên (sau giảm môi lớn) khiến chúng trông nhỏ hơn hoặc gần như không nhìn thấy trong một số trường hợp.
Chăm sóc sau phẫu thuật
Các hướng dẫn chăm sóc sau phẫu thuật tương tự như các thủ thuật khác. Bệnh nhân được hướng dẫn hạn chế các hoạt động có thể làm căng vết mổ để ngăn ngừa bục chỉ sớm hoặc rách vết khâu. Nên chú ý không dạng hai chân quá mức để tránh tình trạng căng vết mổ. Bệnh nhân có thể đi bộ, nhưng nên tuyệt đối hạn chế các hoạt động mạnh như tập thể dục, đạp xe, cưỡi ngựa và bất kỳ môn thể thao nào phải vận động cường độ cao. Nên áp dụng các biện pháp làm mát như chườm lạnh để giúp giảm sưng nề tổ chức và giảm đau. Nên đặt một túi đá nên vùng phẫu thuật (cứ đặt 20 phút thì nghỉ 20 phút) trong 5 ngày tới 1 tuần sau phẫu thuật.
Vệ sinh và chăm sóc vết mổ hàng ngày: rửa bằng nước và xà phòng sau đó lau khô. Bệnh nhân không nên chà xát vùng kín, bơi, tắm quá lâu, hoặc ngồi trong bồn tắm. Việc này sẽ làm yếu các mũi khâu, tăng nguy cơ bục chỉ. Nên thoa kem estradiol hàng ngày ở vùng phẫu thuật để giúp chữa lành và ngăn không cho quần áo dính vào vết mổ.
Sử dụng kem bôi âm đạo estrogen có thể giúp thúc đẩy quá trình lành vết mổ, nhưng chưa có nghiên cứu có nhóm chứng nào chứng minh tính ưu việt của chúng. Một số bác sĩ phẫu thuật ủng hộ việc bôi kem collagen để hỗ trợ chữa lành vết thương. Thuốc kháng sinh sau phẫu thuật đã được sử dụng rộng rãi, nhưng không có sự thống nhất về thời gian và loại kháng sinh sử dụng. Hầu hết các bệnh nhiễm trùng xảy ra đều có nguồn gốc từ đường tiết niệu. Nếu cần dùng kháng sinh, thì nên dùng kháng sinh phổ rộng trong 7 đến 10 ngày sau phẫu thuật. Bệnh nhân được khám lại 2 và 6 tuần sau phẫu thuật. Các hoạt động như tập thể dục và quan hệ tình dục có thể bắt đầu lại từ 6 đến 8 tuần sau phẫu thuật.
Kết quả
Di Saia đã thực hiện một ca giảm môi bé và môi lớn ở một phụ nữ 42 tuổi muốn cải thiện thẩm mỹ. Bs đã lên kế hoạch phẫu thuật thành 2 giai đoạn, bắt đầu giảm môi lớn trước. Bệnh nhân sau phẫu thuật xuất hiện khối máu tụ và đã được xử trí. Tình trạng quá mẫn cảm ở vùng tiếp xúc của cơ quan sinh dục sẽ hết sau khoảng 4 đến 6 tuần, nên giải thích với họ ngay sau phẫu thuật. Tạo hình môi bé được thực hiện 4 tháng sau đó, và 6 tuần sau phẫu thuật, bệnh nhân đã cảm thấy hài lòng với kết quả. Trong một báo cáo trường hợp hiếm gặp, Miklos và Moore đã thực hiện đồng thời phẫu thuật tạo hình môi lớn và bé ở một phụ nữ có biểu hiện phì đại môi âm hộ toàn bộ. Cuộc phẫu thuật diễn ra thành công, và không có biến chứng nghiêm trọng.
Trong loạt bài của tôi được báo cáo vào năm 2011, 100 phụ nữ với độ tuổi trung bình là 45 đã được PTTH môi âm hộ bằng kỹ thuật tạo hình đường cong (chương 5) vơi sự hài lòng là 98% và không có biến chứng nào nghiêm trọng. Có hai bệnh nhân không hài lòng với kết quả và yêu cầu cắt bỏ thêm mô. Thủ thuật một lần nữa được thực hiện và cả hai bệnh nhân đều vô cùng hài lòng với kết quả hậu phẫu. Hai bệnh nhân khác đã phải khâu lại vết mổ (do bục chỉ) nhưng không có dấu hiệu nhiễm trùng và mất máu chỉ khoảng 10 ml. Tất cả các quy trình trong loạt bài này được thực hiện tại phòng khám bằng tê tại chỗ. Không cần tiêm tĩnh mạch và tất cả các loại thuốc đều được dùng dưới dạng kem, uống hoặc tiêm bắp. Thể tích thuốc tê tại chỗ trung bình được sử dụng là 4 ml cho phẫu thuật tạo hình môi bé, 7 ml cho phẫu thuật tạo hình môi lớn và 15 ml cho liệu pháp kết hợp 2 kỹ thuật này. Chảy máu nhiều hơn (50 đến 100 ml) khi có kèm kỹ thuật lọc bỏ tổ chức mỡ. Không có bệnh nhân nào xuất hiện tình trạng giao hợp đau kéo dài. Không có tác dụng phụ của gây mê nào xảy ra ngoại trừ trường hợp hiếm gặp xuất hiện phản xạ phế vị (thoáng qua) sau phẫu thuật. Những bệnh nhân này được cho là có tình trạng giảm thể tích, tuy nhiên có thể bù trừ tốt bằng đường uống mà không cần can thiệp gì thêm.
Nói chung, phẫu thuật môi âm hộ gặp khá ít biến chứng với tỉ lệ bệnh nhân hài lòng cao. Trong loạt bài của tôi, tình trạng tách vết mổ và yêu cầu các thủ thuật chỉnh sửa thường xảy ra với phẫu thuật tạo hình môi bé nhiều hơn môi lớn. Các bệnh nhân thường thấy tự tin và thoải mái hơn sau phẫu thuật tạo hình môi lớn. Kết quả có thể rất ấn tượng về mặt thẩm mỹ khi phẫu thuật môi lớn được kết hợp với phẫu thuật môi bé và phẫu thuật tạo hình âm đạo / tầng sinh môn (Hình 6-4 và 6-5) và lọc bỏ lớp mỡ dưới da ở 1 số trường hợp (Hình 6-6 và 6-7).
Biến chứng
Các biến chứng sau phẫu thuật liên quan đến tạo hình môi bao gồm đau mức độ nhẹ đến trung bình, chảy máu, bầm tím, phù nề (thoáng qua) và quá mẫn cảm (thoáng qua) trong 4 trong 6 tuần. Chườm lạnh và thuốc an thần đường uống giúp giảm phù nề và khó chịu. Lượng máu mất trung bình cho phẫu thuật tạo hình môi lớn là 5 đến 10 ml. Biến chứng chảy máu mà tác giả Di Saia quan sát thấy sau giai đoạn một của phẫu thuật tạo hình môi âm hộ không ảnh hưởng tới quá trình liền vết mổ. Trong loạt bài của tôi, biến chứng phổ biến nhất là bục chỉ sớm ở 5% bệnh nhân do hoạt động thể chất kéo căng mép vết mổ, do đó cần phải khâu lại. Việc tuân thủ nghiêm ngặt chế độ chăm sóc sau phẫu thuật trong khoảng 4 đến 6 tuần là rất quan trọng.
Việc thít quá chặt các mối khâu rời có thể dẫn đến rách mép môi, với các đường ngang có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Tình trạng này càng trở nên tồi tệ hơn trong giai đoạn phù nề vết mổ. Lông mu mọc dài nằm giữa rãnh môi lớn và bé có thể gây khó chịu và cần phải điều trị. Phương pháp triệt lông bằng ánh sáng xung cường độ cao / bằng laser có thể giải quyết vấn đề này ở những người không cạo lông mu. Đây không phải là vấn đề đối với những phụ nữ thường xuyên cạo hoặc tẩy lông vùng kín.