Tác giả: Christine Hamori, Paul Banwell, Red Alinsod
nhathuocngocanh.com – Bài viết Giảm môi âm hộ thông qua kỹ thuật tạo hình bờ tự do được trích từ chương 5 sách Phẫu thuật Thẩm mỹ vùng kín : Chỉ định, Kỹ thuật thực hiện và Áp dụng lâm sàng.
Những điểm chính
- Hầu hết các Bs phụ khoa đều chỉ định phẫu thuật cắt bờ tự do để giải quyết vấn đề thẩm mỹ vùng kín. Trong một cuộc khảo sát, phần lớn (52.7%) các Bs phẫu thuật lựa chọn phương pháp phẫu thuật này, kỹ thuật wedge chỉ đứng thứ hai với 36.1% số ca thực hiện.
- Mặc dù kỹ thuật tạo hình bờ tự do ít xuất hiện những biến chứng liên quan tới liền vết mổ hơn, nhưng chúng để lại một đường sẹo dài ngay vị trí bờ tự do đôi khi gây co kéo vết mổ và đau kéo dài, đặc biệt khi quan hệ. Kỹ thuật wedge cũng để lại sẹo tương tự nhưng nằm ngang thay vì nằm dọc như cắt bờ tự do. Tuy nhiên tình trạng đau vết mổ sau phẫu thuật ở kỹ thuật này là cực kỳ hiếm, và ưu điểm nữa là khả năng ‘giấu’ đường sẹo đi khéo léo. Sau 6 tháng thường hiếm khi thấy được sẹo ở cả 2 kỹ thuật này.
- Tùy thuộc mong muốn bệnh nhân, đặc điểm bệnh lý như mức độ và vị trí của môi bé bị phì đại cũng như ưu nhược điểm của từng kỹ thuật để lựa chọn sao cho phù hợp. Nói chung, cắt bờ tự do là con đường thuận tiện nhất đạt đến hình thể giải phẫu mà bệnh nhân mong muốn, nhưng chúng thường để lại sẹo và/hoặc bờ tự do không tự nhiên. Nhưng để nói, kỹ thuật wedge không thể giảm môi âm hộ một cách toàn diện như cắt bờ tự do được.
- Hầu hết phụ nữ đều muốn loại bỏ phần niêm mạc tăng sắc tố, nhưng một số lại thích giữ phần niêm mạc này để trông tự nhiên hơn và chỉ yêu cầu Bs giảm phần môi bé dư thừa. Tuy nhiên, kỹ thuật tạo hình bờ tự do mới có thể cắt bỏ nhiều và chính xác hơn so với wedge.
- Các bằng chứng mới ủng hộ việc sử dụng sóng cao tần trong giảm môi âm hộ để cải thiện tính an toàn, độ chính xác, chức năng và thẩm mỹ. Tuy nhiên kỹ thuật này cần được thực hiện bởi Bs đã được đào tạo bài bản và có kinh nghiệm.
Tạo hình môi âm hộ, đôi khi được gọi là giảm môi âm hộ, là một phẫu thuật phụ khoa nhằm giảm kích thước và đôi khi kết hợp với tạo hình môi lớn hoặc môi bé. Đây hiện là một trong những phẫu thuật thẩm mỹ vùng kín được thực hiện nhiều nhất theo thống kê hàng năm. Như chúng ta đã biết, nếp gấp da ở hai bên, nằm giữa môi lớn và tiền đình âm đạo được gọi là môi bé hoặc mnymphae. Môi bé là vị trí cực kỳ nhạy cảm với nhiều thụ thể cảm giác và tổ chức mô liên kết có khả năng cương cứng, đây cũng là vị trí gây kích thích trong khi quan hệ tình dục. Môi bé có sự đa dạng về các biến thể giải phẫu (về chiều dài, độ dày, tính đối xứng, độ ‘nhô’ và hình chiếu của chúng). Hiếm khi, môi bé ‘nhô’ ra ngoài hơn 3cm so với bờ tự do của môi lớn và nếu vượt qua ranh giới này thì được gọi là môi bé phì đại, mất tiêu chuẩn về tính thẩm mỹ. Nguyên nhân của phì đại môi bé âm hộ có thể do nhiều yếu tố, bao gồm chứng phì đại bẩm sinh, và phì đại vô căn mắc phải do quan hệ hoặc có thể do thủ dâm, sinh con qua đường âm đạo, tắc nghẽn bạch huyết, phản ứng viêm (viêm da vùng kín), do chứng tiểu không tự chủ, do tăng cân hoặc do hor-mone androgen ngoại sinh.
Năm 1984, Hodgkinson và Hait đã mô tả 3 trường hợp lâm sàng có bất thường về kích thước và hình dạng môi bé. Nghiên cứu của họ đã được xuất bản và cũng là báo cáo đầu tiên về các trường hợp phẫu thuật giảm môi âm hộ chọn lọc nhằm mục đích cải thiện tính thẩm mỹ CQSDN theo quan điểm của phụ nữ phương Tây. Hiện nay, các kỹ thuật phẫu thuật thẩm mỹ môi bé bao gồm cắt thẳng (thỉnh thoảng gọi là kỹ thuật cắt cụt – cắt toàn bộ), cắt bỏ hình elip (đôi khi còn gọi là kỹ thuật trim), kỹ thuật wedge (cắt hình chêm), kỹ thuật wedge sửa đổi (cắt hình chữ V), khử biểu mô, tạo hình môi bằng laser và tạo hình môi bằng RF. Tuy nhiên, với bất kỳ kỹ thuật nào, việc quan trọng nhất là bảo tồn được cấu trúc mạch máu và thần kinh. Ngoài ra, tùy theo yêu cầu của bệnh nhân, phẫu thuật tạo hình môi âm hộ đôi khi cần phải bảo tồn bờ tự do, màu sắc, kết cấu của mép môi âm hộ. Bệnh nhân sẽ được thực hiện phẫu thuật này tại bệnh viện hoặc các phòng khám tư nhan, với phương pháp vô cảm là gây tê tại chỗ (0.25% Marcaine hoặc 1% lidocain với 1:100000 epinephrine), an thần hoặc gây mê toàn thân.
Năm 2005, chúng tôi đã báo cáo một phẫu thuật xâm lấn tối thiểu được gọi là Barbie look (Hình 5-1). Đây là một thuật ngữ trong ngành được sử dụng cho những bệnh nhân được phẫu thuật ở Los Angeles, những người yêu cầu cắt bỏ toàn bộ hoặc gần như toàn bộ môi bé. Các kỹ thuật khác như rim look và hybrid look cũng được mô tả (Hình 5-2 và 5-3).
Kỹ thuật rim look bản chất là cắt bỏ môi bé theo một đường cong dọc theo bờ tự do (phần tăng sắc tố nhiều nhất) để cải thiện tính cân đối và hình thể giải phẫu của chúng. Còn kỹ thuật hybrid look đề cập đến một phương pháp tiếp cận từ đường giữa, liên quan đến việc loại bỏ gần như toàn bộ môi bé và bảo tồn một lượng mô nhỏ (ngay dưới môi lớn), một hình thể được coi là giải phẫu tiêu chuẩn. Có thể thực hiện một đường cắt chính xác qua tổ chức niêm mạc môi bé bằng cách sử dụng 1 đầu RF. Tuy nhiên kỹ thuật nêm thì không thể loại bỏ chính xác phần tổ chức dư thừa ước đoán như kỹ thuật hybrid look.
Kỹ thuật Barbie look, tuy nhiên, chỉ được ‘yêu thích’ ở một số khu vực, chủ yếu là Bờ Tây hơn là Bờ Đông, và ở phía Nam hơn là phía Bắc. Trong một nghiên cứu trên 238 phụ nữ phẫu thuật giảm môi âm hộ, thì tới 98% tìm cách giảm môi bé xuống ngang bằng hoặc dưới môi lớn để thu được hình thể giải phẫu ‘tối ưu’. Trong khảo sát của chúng tôi, trong số 200 bệnh nhân thì không có một ai muốn giữ lại phần bờ tự do ‘thừa’ và tăng sắc tố cả.
Thay vào đó, tất cả các bệnh nhân đều yêu cầu cắt bỏ, đặc biệt là vùng tăng sắc tố. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, rất ít người yêu cầu Bs phẫu thuật giữ lại phần bờ tự do tăng sắc tố ở môi bé. Trong nghiên cứu của Millos và Moore trên 550 phụ nữ, 97% muốn loại bỏ phần niêm mạc tăng sắc tố này và chỉ giữ lại phần niêm mạc màu hồng, và đặc biệt là sau khi cắt bỏ phần niêm mạc đó, phần bờ viền còn lại cũng mềm mại hơn.
Kỹ thuật Wedge nên được chỉ định cho những phụ nữ muốn giữ lại phần niêm mạc tăng sắc tố hoặc phần viền tự nhiên của môi bé. Tuy nhiên, việc cắt theo hình nêm toàn bộ tổ chức (kỹ thuật ban đầu) và kỹ thuật wedge sửa đổi sẽ giúp bảo tồn hệ thống mạch máu thần kinh, đường sẹo và tránh được việc cắt bỏ quá mức dẫn tới sẹo co kéo sau mổ. Năm 1998, Alter đã giới thiệu kỹ thuật wedge sửa đổi, bao gồm việc cắt tổ chức hình nêm ở vị trí trung tâm và ở bên ngoài (hockey stick V), một đường cắt hình Z 90 độ, một đường cắt hình nêm phía dưới và Kỹ thuật zigzag Maas và Hage.
Kỹ thuật wedge trung tâm mở rộng kết hợp với wedge bên ngoài (hockey stick V) nhằm mục đích loại bỏ phần mũ âm vật thừa hai bên (đôi khi gọi là tai chó). Cách tiếp cận này giúp giảm tỉ lệ tách mép vết mổ, tránh hình thành các xoang hoặc đường dò, giải quyết được phần mũ âm vật dư thừa và giảm đau sau phẫu thuật, mặc dù không phải tất cả bệnh nhân đều đến viện khám để Bs có thống kê đầy đủ. Việc bổ sung thêm kỹ thuật Z-plasty 90 độ cùng với wedge trung tâm giúp phân tán lực đồng đều dọc trên đường khâu, hạn chế tối đa tình trạng co kéo vết mổ. Trong cách tiếp cận wedge phía dưới, phần tổ chức hình nêm được lại bỏ ở phía dưới môi bé, và phần cuống phía trên sẽ được sử dụng để tái cấu trúc môi. Kỹ thuật zigzac của Maas và Hage thực chất là một biến tấu tự kỹ thuật wedge. Bản chất chúng là các đường rạch tạo thành hình chữ W ở vị trí nhô ra ngoài nhiều nhất của môi bé, sau đó được nối lại với nhau bằng các mối nối đan chéo. Nhược điểm của các phẫu thuật tạo hình môi âm hộ ‘kiểu wedge’ này là cấp máu cho phần còn lại của môi thay đổi tùy theo phần hình nêm được cắt bỏ và sức căng đường khâu chủ yếu tập trung ở vùng bờ tự do. Tạo hình môi âm hộ kiểu wedge làm tăng nguy cơ chậm lành vết mổ, hình thành các lỗ ở môi bé (nếu bục chỉ) và các khoảng trống hình tam giác lộn ngược khi các mép vế mổ bị co kéo. Những biến chứng này chưa được báo cáo trong các trường hợp cắt thẳng (cắt cụt) được thực hiện bởi những Bs có chuyên môn. Nên nhớ, hai bên môi âm hộ có thể thực hiện các kỹ thuật khác nhau tùy thuộc vào tình trạng lâm sàng mỗi bên.
Trong quá trình khử biểu mô, cả mặt trong và mặt ngoài đều phải được đánh dấu để phân định các khu vực khử biểu mô (vì phần tổ chức loại bỏ ở 2 mặt có thể hơi khác nhau đôi chút), và phần biểu mô này có thể loại bỏ bằng dao hoặc laser. Quy trình này sẽ được thực hiện trong khoảng 30 phút. Kỹ thuật này nên được áp dụng trong trường hợp chỉ phải cắt bỏ 1 lượng nhỏ môi bé. Tuy nhiên, nếu phải cắt bỏ lượng lớn, dùng cách này có thể dẫn tới thừa bờ tự do, làm tăng độ dày môi bé, thậm chí bục chỉ hoặc hoại tử vết mổ. Tạo hình môi bằng laser không nên chỉ định trong trường hợp muốn sửa chữa bờ tự do môi bé sau khi đã cắt bờ này (Kỹ thuật tạo hình bờ tự do – trim). Mặc dù tạo hình môi bằng laser có thể được áp dụng trong kỹ thuật khử biểu mô, nhưng chúng làm tăng nguy cơ hình thành các nang biểu bì.
Kỹ thuật Alinsod trong tạo hình môi bé bằng RF
Trong thập kỷ trước, phẫu thuật thẩm mỹ vùng kín bằng sóng cao tần đã dần trở nên phổ biến. PTTM vùng kín bằng RF được thực hiện và báo cáo lần đầu tiên vào năm 2005 và được trình bày vào năm 2006 tại cuộc họp của Học viện Phụ khoa Thẩm mỹ Hoa Kỳ. Kỹ thuật này đặc biệt thích hợp cho phẫu thuật tạo hình môi âm hộ, vì mức độ lan tỏa nhiệt tối thiểu chỉ từ 20 đến 40 (am khi thủ thuật được thực hiện với đầu nối hair-tips). Với lượng nhiệt này, bệnh nhân sẽ không bị bỏng tổ chức hoặc xuất hiện các phỏng huyết thanh, sẹo sau phẫu thuật cũng không bị lộ. Cả hai ưu điểm này đều đã khẳng định tính an toàn của RF trong các phẫu thuật khu vực nhỏ, đặc biệt là vùng kín ở nữ. RF cũng cho phép tạo lông ở các bờ viền không đều và làm mềm cũng như làm phẳng tai chó.
Phẫu thuật cắt và rạch bằng RF có thể được thực hiện trên tất cả các kỹ thuật được mô tả ở trên. Tuy nhiên, nó được sử dụng thường xuyên nhất với kỹ thuật cắt thẳng (cắt cụt). Kỹ thuật này được mô tả chi tiết ngay dưới đây.
Chỉ định và chống chỉ định
Phẫu thuật giảm môi bé âm hộ có thể được thực hiện vì lý do chức năng hoặc thẩm mỹ hoặc cả 2. Chỉ định liên quan chức năng của chúng bao gồm khó giữ vệ sinh sạch sẽ (ví dụ do giấy vệ sinh dính vào), thường xuyên cọ sát với da mu, đùi, kích ứng khi mặc quần áo chật, đau khi đi xe đạp hoặc các hoạt động thể thao tương tự, và môi âm hộ vướng vào dây kéo khóa quần. Nhiều phụ nữ cần tới phẫu thuật để cải thiện tính thẩm mỹ, đặc biệt là phàn nàn về ‘khối phồng’ dưới quần áo của họ hoặc do ngại ngùng khi quan hệ tình dục. Vì liên quan đến cả việc phục hồi chức năng và thẩm mỹ, các thủ thuật này đều được coi là cả can thiệp điều trị lẫn thủ thuật thẩm mỹ tùy thuộc vào nhu cầu. Không có chống chỉ định tuyệt đối cho phẫu thuật này, tuy nhiên, các chống chỉ định tương đối bao gồm bệnh nhiễm trùng phụ khoa đang hoạt động và bệnh lý ác tính.
Đánh giá bệnh nhân
Việc tư vấn cho bệnh nhân nên được thực hiện vài ngày trước phẫu thuật nhưng cũng có thể ở ngay trong ngày phẫu thuật (qua internet hoặc các phương tiện truyền thông khác). Ví dụ, 1 VĐV điền kinh có thể phàn nàn về tình trạng môi âm hộ không đều khiến họ xấu hổ và đau đớn khi tập luyện. Tình trạng sa niêm mạc trực tràng trước đây của cô đã được giải quyết triệt để, nhưng hậu quả để lại là một bên môi bị lệch so với bên còn lại, và bệnh nhân luôn có cảm giác 1 bên bị kéo ra sau (sẹo co kéo từ phẫu thuật trực tràng) khiến cô cảm thấy khó chịu. Cô ấy yêu cầu phẫu thuật cắt gần hoàn toàn môi âm hộ, chỉ để lại 1 phần nhỏ để trông tự nhiên hơn. Khám lâm sàng thấy môi bé bên trái có kích thước gấp đôi bên phải và dày hơn, bờ tự do cũng sẫm màu hơn. Cô ấy cũng muốn loại bỏ phần sẫm màu này.
Mũ âm vật không gây khó chịu cho bệnh nhân, nhưng cô ấy không muốn mũ âm vật quá to so với phần còn lại của âm hộ sau phẫu thuật. Cô được khuyên nên tạo hình luôn vùng này để trông cân đối hơn. Bs chú ý nên khám lâm sàng trong tư thế nằm và đứng, quan sát và chụp ảnh trước phẫu thuật để ước đoán và thảo luận với bệnh nhân về hình thể ngoài ‘tối ưu’ mà họ có thể thực hiện phẫu thuật.
Lên kế hoạch và chuẩn bị
Sau khi thảo luận kỹ với bệnh nhân, quyết định phẫu thuật được đưa ra và ghi lại bằng các bản vẽ hoặc hình ảnh trực quan. Bệnh nhân sẽ được kiểm tra sức khỏe tổng quát, tình trạng dị ứng, mang thai, những biểu hiện lo lắng, khả năng chịu đựng cơn đau, nhận thức về các giai đoạn cuộc phẫu thuật và yêu cầu sự đồng thuận với tất cả các điểm trên.
Vô cảm
Khoảng 2 giờ trước khi phẫu thuật, bệnh nhân sẽ được bôi kem tê tại chỗ (EMLA hoặc thuốc gây tê dạng hỗn hợp) lên các vị trí phẫu thuật. Trước phẫu thuật 15 tới 30 phút, bệnh nhân sẽ được đặt tấm điện di thuốc tê qua da để ‘đẩy’ toàn bộ các đại phân tử (thuốc tê) xuống dưới lớp da nhằm mục đích giảm đau thật tốt cho cuộc mổ (Hình 5-4). Thuốc an thần đường uống hoặc tiêm bắp được dùng kết hợp với thuốc giải lo âu như Valium.
Đánh dấu
Đánh dấu vùng mổ bắt đầu từ phía ngoài, ngay dưới hãm âm vật và mở rộng xuống dưới âm đạo như hình 5.5. Vì phần tổ chức mặt ngoài 1/3 trên môi bé thường bị co kéo nhiều hơn nên đường đánh dấu sẽ thuôn dần từ vị trí dưới hãm âm vật 1.5 cm xuống dưới, sao cho tới ngang lỗ âm vật thì gần như không còn phần môi bé còn lại nào nữa. Mặt trong của môi bé được đánh dấu tương tự, môi bé phía còn lại cũng được đánh dấu sao cho hai bên cân xưng nhau. Nếu bệnh nhân yêu cầu môi bé có thể nhô ra ngoài một chút so với môi lớn, Bs sẽ đánh dấu lùi ra ngoài sao cho phù hợp. Nên thận trọng trong bước này vì để lại môi bé nhiều vẫn còn tốt hơn là cắt đi quá nhiều. Nên cắt bỏ mặt trong nhiều hơn 1 chút và mặt ngoài rộng hơn 1 chút so với vị trí đánh dấu để sau này sẹo có thể được giấu ở mặt trong môi bé.
Tư thế bệnh nhân
Bệnh nhân được đặt ở tư thế sản khoa, với giá đỡ chân đủ để đảm bảo sự thoải mái và giúp lưu thông máu tốt. Nên đặt miếng đệm dưới đầu gối và bắp chân thay vì chỉ đặt đệm ở gót chân.
Mô tả kỹ thuật
Vùng âm hộ được sát khuẩn bằng Betadine hoặc các chất sát khuẩn tương đương. Bệnh nhân sẽ được trải xăng vô trùng. Thường cần đánh dấu lại vùng phẫu thuật sau các bước chuẩn bị vì dung dịch sát khuẩn có thể làm mờ vết đánh dấu ban đầu. Khoảng 4-7 mL thuốc tê được tiêm ngay dưới da ở tất cả các khu vực được đánh dấu. Nên dùng kim cỡ nhỏ để gây tê. Áp dụng kỹ thuật vi phân (phân bố từng lượng nhỏ thuốc tê lên vùng phẫu thuật) để tránh hiện tượng biến dạng mô. Khu vực phẫu thuật nên được kiểm tra lại xem đã vô cảm tốt chưa trước khi tiến hành đường rạch đầu tiên.Hình. 5-6 A và B, Đường cắt bằng RF.
Đường rạch được bắt đầu từ vị trí dưới hãm âm vật 1-1.5 cm, đi từ trên xuống dưới, kết thúc ở ngang lỗ âm đạo hoặc đáy chậu tùy thuộc vào vị trí bám của phần dưới môi bé (Hình 5-6, A và B). Vào thời điểm viết sách này, chỉ có ở Hoa Kỳ mới có hệ thống phẫu thuật Pelleve (Ellman International, Hicksville, NY) có các tay cầm đầu nhỏ (hair tips) mới có thể rạch được chính xác điểm đã đánh dấu. Mode để cắt có công suất 10-15W, mode Coag và Blend với công suất 20-25W sẽ được sử dụng để cầm máu. Một chế độ khác nữa là Hemo mode, với công suất cao có thể giúp kiểm soát chảy máu và hữu ích cho việc ‘chải’ các nếp nhăn, các vị trí mô không đều, giúp chúng phẳng và mịn hơn. Về cơ bản, mô có thể được cắt bỏ bằng cách thực hiện các đường rạch từ phía trong và phía ngoài về phía bờ tự do của môi bé. Kỹ thuật này sẽ tạo một đường ống nhỏ làm cho bờ tự do của môi bé dính vào với nhau khi chúng ngả về phía sau.
Sử dụng dao diện tiêu chuẩn và laser 980-diode đều không hiệu quả vì khả năng cầm máu (gây đông máu) của chúng có thể gây biến dạng và hình thành các nếp gấp, đoạn nhăn nhúm ở môi bé. Sau khi đã cầm máu được, có thể tiến hành chỉnh sửa (Hình 5-6,C). Đường rạch hình chữ ‘A’, còn được gọi là đường rạch Alinsod, được thực hiện ngay bên dưới hoặc phía ngoài hãm âm vật để giấu đường mổ vào phía trong (Hình 5-6, D và E). Điều này giúp tránh được hình dạng tai chó sau phẫu thuật và giấu được sẹo. Đây là phần khó nhất của kỹ thuật này và đòi hỏi tư duy chiến lược để đạt được kết quả tốt. Có thể cân đối hai bên, căn chỉnh và khớp các cạnh lại với nhau bằng cách sử dụng một hair tips siêu nhỏ ở các vị trí chủ chốt, để đường mổ chính xác tuyệt đối. Giai đoạn này có thể để bệnh nhân quan sát vùng phẫu thuật, chỉnh sửa lại những gì họ muốn. Sau đó có thể kết thúc phẫu thuật.
Trong thực hành lâm sàng, chúng tôi luôn cố gắng thực hiện phẫu thuật chỉ cần gây tê tại chỗ để bệnh nhân có thể yêu cầu ‘chỉnh sửa’ lại những gì họ muốn. Sau phẫu thuật bắt đầu đóng vết mổ theo lớp (Hình 5-6, F). Có thể dùng chỉ tự tiêu monofilament 4-0 hoặc 5-5 như Monocryl để khâu lớp trong cùng.
Loại sợi này có thời gian tự tiêu lâu, điều khó đạt được ở các loại chỉ đa sợi như chỉ khâu tổng hợp tự tiêu, như loại axit polyglycolic sẽ có sợi polyglactin 910 (ví dụ, Vicryl) và các loại chỉ khâu chế tạo từ axit polyglycolic khác được xử lý để tự tiêu nhanh (ví dụ, Vicryl Rapide). Vicryl là loại chỉ có thể lựa chọn để khâu mối rời lớp cuối cùng, vì chúng không chọc vào các mô xung quanh. Chỉ khâu catgut không nên sử dụng trong các phẫu thuật này, vì chúng làm tăng nguy cơ phản ứng quá mẫn tại chỗ với các vật liệu có nguồn gốc từ ruột. Ngoài ra cũng có thể khâu bằng các kim nhỏ như SH thuôn nhọn. Kim nhỏ hơn thì hữu dụng hơn, tuy nhiên không nên sử dụng kim cắt vì có thể gây thêm tổn thương mô.
Các nguyên tắc khâu đóng vết mổ cần được tuân thủ nghiêm. Đầu tiên, các kho-ang sâu hơn với các mạch lớn phải được đóng lại nhẹ nhàng để tránh hình thành áp xe hoặc khối máu tụ. Chỉ khâu lỏng lẻo nhưng vẫn phải đảm bảo tổ chức được liên kết với nhau để có thể liền vết thương, đồng thời không gây co kéo quá mức. Không nên để lớp da bị cuốn vào vì nó có thể hình thành các nang vùi. Các mũi khâu lớp sâu có thể là mối rời, nhưng tốt nhất khâu đệm ngược vì chúng sẽ giúp căn chỉnh các mép tốt hơn. Thứ hai, một lớp chỉ khâu dưới da 4-0 hoặc 5-0 Vicryl hoặc Monocryl sẽ giữ các mép sát với nhau. Cuối cùng, một số mối khâu chỉ 4-0 được đặt một cách ‘chiến lược’ dọc theo chiều dài của bờ tự do môi bé hai bên. Bệnh nhân sẽ được xem kết quả cuối cùng và đưa ra phản hồi cũng như đề xuất của mình. Nếu cô ấy hài lòng, có thể tiêm thuốc tê tại chỗ để kéo dài tác dụng giảm đau sau mổ.
Chăm sóc sau phẫu thuật
Bệnh nhân sẽ được thực hiện quy trình chăm sóc sau phẫu thuật tiêu chuẩn. Không tập thể dục, nâng vật nặng hoặc hoạt động tình dục trong 6 tuần sau mổ, tuy nhiên được phép đi bộ nhẹ nhàng và chậm rãi. Vùng phẫu thuật nên được làm sạch hàng ngày bằng xà phòng và nước sau đó thấm khô và không được chà xát. Không được ngâm mình trong các bồn nước và không được phép sử dụng bồn tắm Sitz. Việc này có thể làm lỏng tổ chức, ‘yếu’ vết mổ và có thể dẫn tới hở vết mổ. Bệnh nhân được hướng dẫn bôi kem estradiol lên môi bé hàng ngày để thúc đẩy quá trình lành vết mổ. Kem collagen cũng đã được sử dụng sau phẫu thuật để hỗ trợ chữa lành; tuy nhiên thực hành lâm sàng ít dùng. Bệnh nhân có thể đi lại hoặc hoạt động nhẹ để kích thích quá trình lành vết mổ. Ngoài ra, khi ngồi bệnh nhân nên khép chân hoặc vắt chéo để làm giảm căng đường khâu nối. Nên tái khám sau 2 và 6 tuần sau phẫu thuật.
Các chỉ khâu bắt đầu tự tiêu từ khoảng ngày thứ 10-14. Bệnh nhân có thể có cảm giác ngứa và chảy dịch tương đối nhiều. Lúc này có thể hướng dẫn họ bôi kem diphen-hydramine để hạn chế tình trạng đó. Nhiều bệnh nhân cho rằng chảy dịch là dấu hiệu nhiễm trùng nhưng thực chất thì không hẳn. Ở tuần thứ 4, các mép vết thương thường đã đóng hẳn lại, bệnh nhân được phép tắm và có thể hoạt động lại như thường. Đến khoảng tuần 6-8, quá trình lành vết mổ đã hoàn tất, bệnh nhân có thể trở về sinh hoạt như thường. Họ có thể bắt đầu quan hệ tình dục lại sau thời gian này, khi các mép vết mổ đã lành hẳn.
Kết quả thường khá hài lòng (hình 5-7), nhưng một tỷ lệ nhỏ các trường hợp sẽ cần phẫu thuật chỉnh sửa để làm ‘mịn’ các cạnh không đồng đều hoặc ‘cắt tai chó’.
Kết quả
Nhiều nghiên cứu cho thấy mức độ hài lòng cao ở những phụ nữ trải qua phẫu thuật tạo hình môi âm hộ được thực hiện bằng cách sử dụng các kỹ thuật kể trên. Trong số 177 bệnh nhân được tạo hình môi âm hộ và / hoặc thu nhỏ mũ âm vật, 97,2% nói chung hài lòng với kết quả. Trichot và cộng sự đã tiến hành đánh giá hồi cứu 21 bệnh nhân được tạo hình môi âm hộ với tái tạo cuống vạt (86%) và phần còn lại được cắt bỏ toàn bộ môi bé (14%). Trong số 18 người trả lời khảo sát, tất cả đều hài lòng với kết quả của họ (xếp hạng trung bình 8,7 / 10; 10 = xếp hạng cao nhất).
Thu nhỏ môi lớn với môi bé được thực hiện một cách an toàn và hiệu quả, kết hợp với phẫu thuật thu nhỏ mũ âm vật, đã được thực hiện thành công trên 100 bệnh nhân trong 6 năm qua. Trong năm 2011, chúng tôi đã chứng minh những lợi ích của phương pháp phẫu thuật kết hợp tại Đại hội phẫu thuật thẩm mỹ. Phẫu thuật kết hợp cũng được báo cáo là an toàn và hiệu quả trong hai báo cáo trường hợp. Di Saia đã báo cáo một trường hợp phẫu thuật theo hai giai đoạn. Bệnh nhân đã được giảm môi lớn trước, sau đó xuất hiện khối máu tụ, Bs đã phải can thiệp điều trị và sau 5 tháng, bệnh nhân mới được thực hiện phẫu thuật giảm môi bé. Bệnh nhân hài lòng với kết quả phẫu thuật sau 6 tuần hoàn thành trị liệu. Gần đây hơn, Miklos và Moore đã mô tả liệu pháp phẫu thuật nối tiếp ở bệnh nhân có phì đại môi lớn và môi bé. Đối với phẫu thuật tạo hình môi âm hộ đồng thời và phẫu thuật tạo hình môi lớn, tôi khuyên bạn nên thực hiện phẫu thuật tạo hình môi lớn trước để ước tính chính xác hơn lượng môi bé cần phải cắt bỏ. Sau khi giảm môi bé, môi lớn hai bên sẽ có xu hướng co kéo môi bé xuống; do đó thực hiện phẫu thuật tạo hình môi bé trước có thể dẫn tới hiện tượng overcorrect (cắt quá mức).
Rezai và Jansson đã thực hiện một ng-hiên cứu so sánh giữa cắt bỏ hình chữ W phần nhô ra ngoài nhiều nhất của môi bé (50 bệnh nhân) so với phẫu thuật tạo hình môi khử biểu mô (50 bệnh nhân). Bệnh nhân ở cả hai nhóm đều có sự cải thiện về triệu chứng gây kích thích, quan hệ tình dục và vệ sinh, và giảm thiểu các tr.chứng khác 6 tháng sau phẫu thuật. Trong số những bệnh nhân được phẫu thuật cắt bỏ hình chữ W, 5 bệnh nhân không hài lòng với phần bờ tự do của môi bé. Ở 8 bệnh nhân, xuất hiện tình trạng mất cảm giác (2 năm sau mới có lại). Trong một nghiên cứu khác trên 21 bệnh nhân được phẫu thuật kiểu wedge và tái tạo cuống vạt trên, 95,2% hài lòng với kết quả phẫu thuật, trong khi 85,7% cho rằng kết quả thẩm mỹ là tốt hoặc rất tốt.
Alter đã thực hiện kỹ thuật wedge trung tâm cải tiến, cùng với giảm mũ âm vật hai bên, với kiểu thiết kế hockey stick hai bên ở 407 bệnh nhân. Trong số 166 bệnh nhân trả lời bảng câu hỏi khảo sát của anh ấy, điểm trung bình là 9,2 / 10 (10 = hài lòng nhất), với sự cải thiện về sự tự tin, đời sống tình dục và sự khó chịu tương ứng là 93%, 71% và 95% .Tỷ lệ biến chứng thấp đáng kể (4%), và 98% cho biết họ sẽ phẫu thuật lại nếu sau 1 thời gian tình trạng này lại xuất hiện. Tương tự, Solanki và cộng sự đã quan sát thấy kết quả thuận lợi về mặt thẩm mỹ và chức năng ở 12 bệnh nhân trải qua phẫu thuật giảm môi âm hộ bằng kỹ thuật Maas và Hage (đường cắt hình chữ W đan chéo). Chỉ có một bệnh nhân xuất hiện khối máu tụ (gây đau tức) 2 giờ sau phẫu thuật, và một bệnh nhân bị bí tiểu sau phẫu thuật và phải đặt ống thông tiểu qua đêm. Với kỹ thuật Maas và Hage, các đường cắt hình chữ Z đối lập được khép lại bằng một đường khâu zigzac không căng chạy xiên qua mép môi bé. Phương pháp phẫu thuật này làm giảm khả năng tách vết mổ và co kéo mép môi sau, có thể dẫn đến thắt lỗ âm đạo. Các bệnh nhân hài lòng với kết quả thẩm mỹ trông tự nhiên của họ và không có phẫu thuật chỉnh sửa nào được thực hiện sau 14 tuần sau phẫu thuật.
Rouzier và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu trên 163 phụ nữ đã phẫu thuật giảm môi. 98 bệnh nhân đã trả lời bảng câu hỏi của họ. Tỷ lệ hài lòng là 83% đối với kết quả phẫu thuật nói chung, 89% và 93% đối với kết quả thẩm mỹ và chức năng tương ứng. Bốn bệnh nhân (khoảng 4%) nói rằng họ sẽ không muốn phẫu thuật lại nữa. Tách vết mổ xảy ra ở 7% trường hợp. Kinh nghiệm và kỹ năng của bác sĩ phẫu thuật là điều quan trọng hàng đầu khi thực hiện phẫu thuật wedge hoặc cắt thẳng, bởi vì, hầu hết các Bs phẫu thuật đều phải thông thạo các kỹ thuật xử lý trên phẫu trường nhỏ nếu muốn tham gia vào một ca giảm môi âm hộ.Biến chứngCác tác dụng ngoại ý liên quan đến giảm môi âm hộ nói chung là rất thấp, dao động từ 2,65% đến 4% và cao nhất là 6%. Các biến chứng liên quan bao gồm nhiễm trùng sau phẫu thuật, khối máu tụ, nhiễm trùng, môi bé không đối xứng, chậm liền vết mổ, tiêuhoặc đứt chỉ khâu sớm, cắt quá ít hoặc quá nhiều tổ chức, bí tiểu, co kéo da, đau tại vùng phẫu thuật muộn và đau khi quan hệ. Tình trạng đau khi quan hệ xảy ra khi mối khâu môi bé phạm phải lỗ âm đạo. Trong một báo cáo trường hợp, kỹ thuật wedge có liên quan đến biến chứng chảy máu sau phẫu thuật và quá nhạy cảm thoáng qua trong 4 đến 6 tuần sau phẫu thuật.
Kỹ thuật tạo vạt làm tăng nguy cơ hoại tử mô, trong khi từng loại chỉ khâu khác nhau có ảnh hưởng nhất định tới tình trạng tách vết mổ. Một đường khâu bằng chỉ tự tiêu, mối vắt sẽ có nguy cơ làm xấu phần bờ tự do của môi bé sau phẫu thuật hơn là một mối khâu vùi. Chỉ có số ít các trường hợp cần phải phẫu thuật chỉnh sửa lại sau lần phẫu thuật đầu tiên, nhưng tình trạng cắt bỏ quá ít hoặc quá nhiều vẫn luôn tiềm ẩn trong bất kỳ ca phẫu thuật nào. Có lẽ biến chứng rắc rối nhất xảy ra khi cắt bỏ toàn bộ môi bé hoặc môi bé co lại nhiều hơn dự kiến sau phẫu thuật, dẫn đến việc tạo hình kiểu Barbie thay vì kiểu rim hoặc hybrid như dự kiến.
Các nghiên cứu PTTH môi âm hộ cho thấy tỷ lệ hài lòng cao về kết quả thẩm mỹ, chức năng và cải thiện tâm lý xã hội, bao gồm cả sự tự tin. Khi có nhiều sự lựa chọn trong việc thực hiện phẫu thuật, các nhà lâm sàng có càng nhiều cơ hội để áp dụng thủ thuật phù hợp, hoặc có thể kết hợp chúng với nhau 1 cách khéo léo để đạt mục tiêu điều trị. Mặc dù kỹ thuật tạo hình bờ tự do được báo cáo có ít biến chứng liên quan tới lành vết mổ hơn, nhưng nó để lại một đường khâu ở ngoại vi có thể dẫn đến sẹo co kéo và đau mạn tính sau phẫu thuật. Những tác dụng phụ này cực kỳ hiếm, vì phức hợp âm hộ rất dễ hồi phục, hiếm khi để lại sẹo lâu dài. Một số chuyên gia lựa chọn kỹ thuật wedge làm tiêu chuẩn, trong khi 1 số khác thì áp dụng khử biểu mô là kỹ thuật chính trong các ca điều trị của họ.
Do chưa có sự thống nhất về tiêu chuẩn chăm sóc theo quy trình, các kỹ thuật nên được lựa chọn tùy thuộc tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. Các kỹ thuật được chọn cho mỗi bệnh nhân sẽ dựa trên những ưu và nhược điểm của thủ thuật, mức độ và vị trí của phì đại môi bé, cũng như yêu cầu thẩm mỹ của bệnh nhân. Một số phụ nữ thích giữ phần bờ tự do tăng sắc tố và chỉ yêu cầu giảm kích thước môi, trong khi những người khác muốn loại bỏ bờ tự do này. So với các quy trình giảm môi âm hộ khác, phẫu thuật tạo hình môi bằng RF được thực hiện bởi 1 BS có trình độ chuyên môn tốt sẽ đạt độ an toàn, chính xác cao, giúp cải thiện chức năng và thẩm mỹ cho bệnh nhân theo đúng yêu cầu của họ.