Tê Giác (Tê Ngưu Giác/Hương Tê Giác)
Danh pháp
Tên khoa học
Rhinoceros unicornis L. (Họ Tê giác – Rhinocerotidae)
Rhinoceros sondaicus Desmarest
Tên khác
Tê ngưu giác, hương tê giác
Nguồn gốc
Sừng tê giác, với danh pháp khoa học là Corna Rhinoceri, đến từ các loài tê giác đa dạng bao gồm tê giác Ấn Độ (Rhinoceros unicornis L.), tê giác Java (Rhinoceros sondaicus Desmarest), tê giác Sumatra (Rhinoceros sumatrensis Cuvier), tê giác đen (Rhinoceros bicornis L.), và tê giác trắng miền nam (Rhinoceros simus Cottoni). Trên thị trường, người ta phân loại thành hai nhóm chính: tê giác châu Á (Cornu Rhinoceri asiatici) và tê giác châu Phi (Coronu Rhinoceri africani).
Nguyên nhân tê giác bị tuyệt chủng: Trong quá khứ, Việt Nam từng có số lượng lớn tê giác, và hàng năm, cư dân địa phương đã phải cung cấp sừng tê giác làm cống cho triều đại phong kiến của Trung Quốc. Gần đây, sự tồn tại của chúng gần như biến mất, không được ghi nhận. Dựa vào các tài liệu lịch sử do Pháp để lại, từ năm 1900 đến 1930, các thợ săn từ các quốc gia khác nhau đã săn được khoảng 30 tê giác trong khu vực Việt Nam, Lào và Campuchia. Đặc biệt, vào năm 1934, người ta đã tìm thấy một tê giác một sừng ở Sơn La cùng với hài cốt của tê giác tại nhà của một quan chức địa phương.
Tê giác sống ở đâu? Ngày nay, tê giác được tìm thấy ở Ấn Độ, Myanmar, Thái Lan, Campuchia và có khả năng còn tồn tại ở Việt Nam, Lào và Indonesia. Chúng ưa sinh sống trong các khu rừng nhiệt đới dày đặc ở vùng thấp, gần các bãi cỏ. Môi trường sống của chúng thường được bao phủ bởi cây cối cao lớn xen lẫn với các loại cỏ, tre, và các loại thực vật khác. Chúng thích tắm mình trong các ao nước tự nhiên hoặc các hồ nước nhỏ, thường có kích thước khoảng 3,6×1,8 mét, mà đôi khi là những vũng nước mà lợn rừng hay tạo ra. Tê giác ưa thích ăn măng tre, măng nứa, quả non, và nhánh non.
Đặc điểm
Tê giác Java, còn được gọi là Rhinoceros sondaicus Desmarest, là một loài động vật lớn với chiều cao tại vai lần lượt là khoảng 1,7m cho cá thể đực và 1,6m cho cá thể cái. Cơ thể của chúng dài đến 3,6m và cân nặng vượt quá 1.000kg, trang bị một chiếc sừng đặc trưng trên mũi có thể dài từ 25cm đến 39cm, mặc dù sừng có thể không xuất hiện ở một số cá thể cái. Lớp da của chúng mịn màng, không có gai hoặc nốt ruồi và được phân chia bởi các rãnh nhỏ thành từng mảnh nhỏ nhiều cạnh. Cấu trúc da được hình thành từ các mảng giáp phân tách bởi nếp nhăn; các nếp nhăn ở phía trước và sau vai cũng như trước đùi mở rộng qua lưng, trong khi nếp gáy ít phát triển hơn. Da có màu xám đậm.
So với tê giác Java, tê giác Ấn Độ (Rhinoceros unicornis L.) có kích thước lớn hơn và nặng hơn, với bộ lông mỏng ở vùng tai và đuôi, còn phần thân còn lại nhẵn, và sừng dài và to hơn.
Tê giác Sumatra (Rhinoceros sumatrensis Cuvier) lại nhỏ và thấp hơn so với hai loài kể trên, với chiều dài cơ thể từ 2,4 đến 2,5m. Cả cá thể đực và cái của loài này đều có hai sừng đặt song song, trong đó sừng trước dài hơn. Sừng của cá thể cái thường nhỏ và ngắn hơn.
Tê giác có mấy sừng? Ở châu Phi, có thêm hai loài tê giác biệt lập với hai sừng là tê giác đen (Rhinoceros bicornis L.) và tê giác trắng (Rhinoceros simus Cottoni), mỗi loài sở hữu những đặc điểm độc đáo của mình.
Bộ phận dùng – Thu hái – Chế biến
Tê giác, được biết đến với bản tính hung dữ, khi bị săn bắt, phần sừng của chúng thường được lấy ra để sử dụng. Sự quan tâm đến sừng tê giác trong y học cổ truyền Á Đông là đáng kể, đồng thời giá của sừng này cũng cao do nhu cầu vượt xa nguồn cung.
Thành phần hóa học
Sừng tê giác có chất gì? Đến thời điểm hiện tại, các thành phần hoạt tính chính trong sừng tê giác vẫn chưa được xác định rõ ràng. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu, người ta đã phát hiện sừng tê giác chứa nhiều hợp chất như keratin, canxi cacbonat, và canxi photphat. Quá trình thủy phân sừng tê giác cũng tiết lộ sự hiện diện của các amino acid bao gồm tyrosin, axit thiolactic và cystein. Một nghiên cứu do Viện Dược học Nam Kinh công bố cho thấy rằng, nước chiết từ sừng tê giác có phản ứng dương tính với các ancaloit.
Tác dụng dược lý
Sừng tê giác có tác dụng gì? Một số nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng sử dụng tê giác có thể thúc đẩy hoạt động của ruột non, tăng số lượng hồng cầu và giảm hạch huyết cầu. Trong thời gian gần đây, ở Trung Quốc, một bài thuốc chứa thành phần từ tê giác được áp dụng để điều trị viêm não và đã cho thấy những kết quả tích cực.
Tính vị – Quy kinh
Theo y học cổ truyền, tê giác có vị đắng, chua và mặn, có tính hàn, quy vào 3 kinh can, tâm và vị.
Công năng – Chủ trị
Sừng tê giác chữa bệnh gì? Tê giác là sừng của nhiều loại tê giác chuyên đi vào phần huyết, hay thanh thực nhiệt trong phần huyết mà giải độc, làm yên được kinh sợ, từ xưa tới nay vẫn là vị thuốc quan trọng để chữa nhiệt tà vào dinh huyết, huyết nhiệt độc thịnh. Thanh nhiệt lương huyết chữa nhiệt tà vào dinh huyết, sốt cao nói lảm nhảm, lưỡi đỏ thẫm mà khô; huyết nhiệt vọng hành, thổ huyết, chảy máu cam, phát sinh ban chẩn. Giải độc làm yên kinh sợ thích hợp với chứng nhiệt độc thịnh động phong (phong tà từ trong bốc lên gọi là can phong nội động): nhiệt độc của bệnh ôn nhiệt bốc lên mạnh, ban chẩn tím, mờ, sốt cao nói lảm nhảm; nhiệt cực ở phần huyết kinh phong co giật, thường phối hợp với thuốc tức phong chỉ kính (tức phong là dẹp, dập tắt làm yên phong tà, còn chỉ kính là chống co cứng chân tay); chứng vàng da cấp tính do độc tà của thấp nhiệt mạnh, triệu chứng cho thấy bị hoàng đản ở độ sâu, động huyết, động phong, thường phối hợp với thuốc giải độc trừ vàng da.
Tê giác và Thủy ngưu giác không có được tác dụng sinh tân nhưng hai vị này cực mạnh về thanh nhiệt, kể cả là lương huyết hay giải độc. Trong hệ thống thuốc YHCT hai vị này tác dụng thanh nhiệt phần huyết vô địch, có thể nói là con bài tẩy, vũ khí cuối cùng của các Thầy Thuốc. Sở dĩ vậy vì nếu nhiệt ở nông như biểu vệ, phần khí thì thế bệnh giai đoạn đầu, chính khí còn khỏe, còn có sự giao tranh với nhiệt. Thì khi nhiệt đã vào đến phần huyết là tầng lớp cuối cùng rồi, chính khí bị tàn phá nặng nề, thì bệnh nguy rồi, lúc này phải dùng đến Tê giác, Thủy ngưu giác sức thuốc mới đủ mạnh để chặn được thế nhiệt thịnh. Ngày xưa các Thầy thuốc nếu có tê giác thì cất kỹ hơn cả vàng (vì siêu đắt và siêu hiếm), chỉ khi cấp bách vô cùng mới dùng đến, mà mỗi lần dùng thì chỉ mài mài lấy một tí chứ cũng không nhiều. Một số tài liệu ghi nhận ngày xưa ở Việt Nam có xuất hiện ở tê giác, nhưng hiện nay hoàn toàn không thấy có.
Trong hệ thống các bài thuốc thanh nhiệt ở phần huyết có hai bài rất nổi tiếng là Thanh dinh thang và Tê giác địa hoàng thang đều lấy Tê giác là vị quân dược. Hiện nay tê giác là loài vật trong sách đỏ, cấm săn bắt nên vì thế mà sừng tê giác bị cấm dùng, các Thầy thuốc không có cơ hội sử dụng. Do đó mà sừng trâu được đề xuất để thay thế, mặc dù sức thuốc của Thủy ngưu giác yếu hơn tương đối nhiều so với Tê giác, nhưng về mặt tác dụng có thể nói là như nhau, chỉ khác là nếu Tê giác dùng 2-3g thì Thủy ngưu giác phải dùng đến 20-30g. Thuỷ ngưu giác chính là sừng trâu, khi trâu được làm thịt cắt lấy sừng rửa sạch cao cắt bỏ phần chầy xước cất dùng dần, khi dùng cắt từng khúc chẻ miếng đồ hấp khảng nữa giờ sẻ mềm bào từng lát mới dùng, có khi được mài uống hoặc tán nhỏ thành bột, sử dụng như sừng tê giác nhưng liều gấp 5- 10 lần.
Liều dùng
Thông thường, liều lượng hàng ngày là từ 0,5 đến 1g, dùng dưới dạng nước mài, thuốc sắc hoặc được nghiền thành bột. Trong một số trường hợp cụ thể, liều lượng có thể tăng lên 4g hoặc thậm chí 12g.
Kiêng kỵ
Theo đông y, những người không phải đại nhiệt không có ôn độc, phụ nữ có thai thì không nên dùng.
Lưu ý
Do giá cao và sự khan hiếm của sừng tê giác, đã xuất hiện tình trạng sử dụng sừng của các loài động vật khác làm hàng giả. Một số người vẫn cảm thấy hiệu quả từ việc sử dụng các loại sừng này.
Mới đây, ở Trung Quốc, một số bác sĩ y học truyền thống tại tỉnh Quảng Đông đã bắt đầu sử dụng sừng trâu (Cornu Bubali) – tức sừng của bò nước (Bubalus bubalis L.) – như một phương án thay thế cho sừng tê giác. Các chuyên gia y học truyền thống sử dụng sừng trâu cho biết hiệu quả của nó tương đương. Điều này mở ra khả năng nghiên cứu và áp dụng sừng trâu làm giải pháp thay thế tiềm năng cho sừng tê giác, giảm bớt áp lực về nhu cầu và giá cả.
Bảo quản
Bảo quản dược liệu sừng tê giác ở nơi khô ráo và thoáng mát.
Một số bài thuốc
Chữa sốt nóng, mê man
Phương pháp này bao gồm việc sử dụng bột sừng tê giác pha chế với nước đến khi đặc để giúp khắc phục tình trạng nôn máu, chảy máu cam, sốt cao, nói sảng, da vàng, nổi mẩn hoặc phát ban giống như trường hợp mắc bệnh thủy đậu.
Chữa sốt, giải độc
Kết hợp sừng tê giác với phòng phong, mộc thông, tang bạch bì, và cam thảo, mỗi loại 4g. Đun sôi 600ml nước xuống còn 200ml. Sau đó, pha bột sừng tê giác vào và chia làm ba lần uống trong ngày.
Tài liệu tham khảo
- Đỗ Tất Lợi (2006), Tê giác, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội, trang 1002.