Mật Mông Hoa (Mông Hoa/ Lão Mông Hoa)

Không tìm thấy sản phẩm nào khớp với lựa chọn của bạn.

Mật Mông Hoa (Mông Hoa/ Lão Mông Hoa)

Danh pháp

Tên khoa học

Buddleja officinalis Maxim. (Họ Mã tiền – Loganiaceae)

Buddleia madagascariensis Hance

Buddleia officinalis Maxim.

Tên khác

Mông hoa, lão mật mông hoa, lão mông hoa, hoa mật mông

Nguồn gốc

Chi Buddleja có 3 loài tồn tại tại Việt Nam. Loài nổi tiếng nhất trong số đó chính là Cây mật mông hoa, được biết đến với sự phân bố rộng rãi ở các tỉnh miền núi phía bắc của đất nước như Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Yên Bái, Tuyên Quang và nhiều nơi khác. Loài cây này cũng được tìm thấy ở Trung Quốc và Lào.

Cây giống mật mông hoa thuộc loại cây phát triển nhanh, thích ánh sáng và thường xuất hiện ở các vùng đất có độ màu mỡ, trong rừng thứ sinh, ven rừng ẩm, đặc biệt là trên đất canh tác sau một mùa vụ, thường kết hợp với những cây bụi tiên phong khác. Mỗi năm, cây này đều cho hoa và quả. Những bông hoa của nó có nhiều tuyến mật, thu hút nhiều loại côn trùng như ong và bướm đến để lấy mật, từ đó giúp cây dễ dàng thụ phấn. Sự tái sinh tự nhiên chủ yếu diễn ra qua hạt, và cây có thể bắt đầu ra hoa sau 2 – 3 năm kể từ khi nảy mầm. Ngoài ra, cành và lá của Mật mông hoa thường được sử dụng làm phân xanh.

Hình ảnh cây mật mông hoa
Hình ảnh cây mật mông hoa

Đặc điểm thực vật

Mật mông hoa là một loài cây có kích thước nhỏ. Thân và cành non của nó được phủ bởi lớp lông mỏng, có thể có màu nâu đỏ hoặc trắng nhạt và cả lông tuyến. Những chiếc lá cây mật mông hoa mọc đối diện nhau, có hình dáng thuôn dài giống như lá mũi mác, có chiều dài khoảng 6 – 10cm và chiều rộng từ 2 – 4cm. Lá thường thuôn hẹp ở phần gốc và đầu lá, mép lá có thể là nguyên hoặc hơi có răng, mặt trên của lá thường mịn màng và có màu xanh lục đậm, trong khi mặt dưới của lá thường có lớp lông màu trắng nhạt. Cuống lá thường ngắn.

Cụm hoa của cây mật mông hoa phát triển ở đỉnh thân và đầu cành, tổng hợp thành xim phân nhánh có cuống bao phủ bởi nhiều lớp lông, có chiều dài khoảng 15cm. Hoa của loài này thường rất đông, có màu vàng ngà, mọc sát nhau. Đài hoa được hình thành từ 4 cánh hoa ghép lại với nhau tạo thành hình dáng giống chuông. Tràng hoa cũng gồm 4 cánh, phần dưới hợp lại để tạo thành một ống hơi cong, bề mặt ngoài của ống có một số lượng ít lông. Nhị của hoa thường được gắn vào ống tràng khoảng 1/3 phía trên. Quả Mật mông hoa có hình dáng hẹp và dài.

Thời kỳ hoa nở của cây thường diễn ra từ tháng 9 đến tháng 11.

Đặc điểm thực vật mật mông hoa
Đặc điểm thực vật mật mông hoa

Bộ phận dùng – Thu hái – Chế biến

Vào mùa xuân, khoảng tháng 2 và tháng 3, khi hoa của cây mật mông hoa vẫn chưa nở hoàn toàn, là thời điểm lý tưởng để thu hái. Người ta nên thu hái những bông hoa có màu tro, chứa nhiều nụ hoa, và có bề mặt mịn màng, đặc biệt là những bông không nằm kết hợp với quá nhiều cành khác. Điều này đảm bảo chất lượng tốt nhất cho quá trình chế biến sau này.

Khi quan sát thông qua kính hiển vi, người ta có thể thấy rằng các bông hoa này có những lớp lông ở đài và tràng, và các tế bào được sắp xếp thành hình chữ thập. Các tế bào này có thành dày và được nối với nhau một cách kín đáo, tạo ra một cấu trúc đặc biệt.

Bộ phận dùng mật mông hoa
Bộ phận dùng mật mông hoa

Thành phần hóa học

Hoa của cây mật mông hoa đều chứa một loạt các hợp chất hóa học quan trọng, bao gồm:

  • Triterpen: Trong đó có olean – 13 (18) – en – 3 – on, δ – amyrin, euph – 8, 24 – dien – 3 – yl acetat (còn gọi là butyrospermyl acetat), a – spinasterol, glatitol và acid vanilic.
  • Flavonoid: Bao gồm acacetin, apigenin, luteolin, neobudoficid, linarin (còn gọi là acaciin), luteolin – 7 – 0 – rutinosid, lutcolin – 7 – 0 – glucosid và cosmosiin.

Ngoài ra, nụ hoa của cây cũng chứa các hợp chất khác như:

  • Phenylpropanoid glycosid: verbascosid, cistanosid, B – hydroxyacteosid, poliumosid, echinacosid và martynosid.
  • Flavonoid glycosid: linarin và apigenin – 7 – rutinosid.

Tác dụng dược lý

Hoa mật mông có tác dụng gì? Cao nước từ cây mật mông hoa đã được nghiên cứu và chứng minh có khả năng ức chế tác động độc hại của tế bào gan trong các thử nghiệm nuôi cấy. Trong mật mông hoa, flavonoid là một hợp chất hòa tan trong nước chứa acacetin, đã được xác định có tác dụng kháng viêm.

Tính vị – Quy kinh

Mật mông hoa có vị ngọt nhạt, tính bình mát và quy vào kinh can.

Công năng – Chủ trị

Mật mông hoa chữa bệnh gì? Mật mông hoa được biết đến với khả năng hỗ trợ gan và cải thiện sức khỏe của mắt.

Trong lĩnh vực nhãn khoa, cây mật mông hoa đã được sử dụng để chữa các tình trạng như thong mạnh, sưng và đỏ mắt, chảy nước mắt, có nhiều dấu hiệu của việc xâm nhập máu vào mắt, và cả các vấn đề liên quan đến màng mống. Ngoài ra, lá của cây này cũng được dùng để làm thuốc ngoại áp dụng lên các vùng da bị sưng và viêm.

Theo tài liệu từ nước ngoài, mật mông hoa thường được kết hợp với bông mã đề sắc để uống và chữa trị các trường hợp sưng và viêm. Rễ của cây cũng đôi khi được sử dụng trong việc điều trị bệnh vàng da.

Liều dùng

Liều dùng thường là 3-6g mỗi ngày, có thể dạng thuốc sắc hoặc ngâm trong rượu.

Bảo quản

Để ngăn việc mật mông hoa bị ẩm và mốc, hãy bảo quản nó trong môi trường khô ráo. Hạn chế tiếp xúc với độ ẩm và nước.

Một số bài thuốc

Chữa đau mắt sưng đỏ và chảy nước mắt:

  • Cách 1: Kết hợp 9g mật mông hoa với 4g cúc hoa, kinh giới, long đởm, phòng phong, và bạch chỉ cho mỗi vị, cộng thêm 2g cam thảo. Sử dụng dưới dạng sắc uống, một thang mỗi ngày.
  • Cách 2: Sử dụng 12g mật mông hoa, cúc hoa, hạt mào gà, và 8g hoàng đằng để sắc uống.
  • Cách 3: Sắc từ 20g mật mông hoa, hạt muồng, hạt mã đề, và cỏ dùi trống bằng cách sắc chúng với nước, sau đó trộn với mật uống.

Chữa bệnh đau mắt đỏ do ảnh hưởng của thời tiết ấm, bao gồm các triệu chứng như mắt ngứa, nhức đầu hoặc sốt: Kết hợp 12g mật mông hoa, bạc hà, kinh giới, hạt muồng (quyết minh tử) sao, huyền sâm, dành dành, vỏ núc nác, ngưu tất, và mạch môn cho mỗi vị. Sử dụng dưới dạng sắc uống.

Tài liệu tham khảo

  1. Đỗ Huy Bích (2006), Mật mông hoa, Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tập 2, trang 251.
  2. Đỗ Tất Lợi (2006), Mật mông hoa, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội, trang 261.
  3. Phạm Hoàng Hộ (1999), Mật mông hoa, Cây cỏ Việt Nam, NXB Trẻ, Hà Nội, tập 2, trang 881.
Không tìm thấy sản phẩm nào khớp với lựa chọn của bạn.