Lộc Giác (Gạc Hươu Nai)
Danh pháp
Tên khoa học
Cornu Cervi (Họ Hươu – Cervidae)
Tên khác
Gạc hươu nai
Nguồn gốc
Lộc giác là gì? Gạc hươu nai là một dạng tự nhiên của nhung, đã trở nên cứng và hóa đá thành gạc hoặc sừng sau một quá trình lâu dài. Mỗi năm vào cuối mùa hạ, hươu nai thường cọ đầu vào cây để giúp sừng của mình rụng. Trên bề mặt của gạc hươu nai, chất lượng của huyết đã mất dần, có thể còn một lớp da bọc hoặc hoàn toàn mất da, để lại chỉ một tảng gạc sáng bóng với màu sắc từ vàng đến đỏ hoặc trắng ngà. Phần dưới của gạc thường có nhiều u nhỏ tròn nổi lên, trong khi phần trên thì mịn và nhọn.
Có những cách phân biệt giữa gạc hươu và gạc nai dựa trên số lượng nhánh, kích thước, và màu sắc của chúng. Gạc hươu thường có 3 hoặc 4 nhánh, có chiều dài từ 30 đến 50cm, đường kính khoảng 3cm, có chất liệu mịn màng và cứng chắc, với các u tròn cách nhau, thường màu đỏ nâu. Trái lại, gạc nai cũng có đường kính xấp xỉ 3cm, cũng có chất liệu mịn màng và cứng chắc, với các u tròn cách nhau, cũng thường có màu đỏ nâu.
Tuy nhiên, gạc nai thường lớn hơn và dài hơn so với gạc hươu. Đường kính của gạc nai thường dao động từ 3 đến 6cm, và chiều dài từ 50 đến 60cm, thường chia thành 3-6 nhánh. Màu sắc của gạc nai thường là tro nâu hoặc tro vàng, với các u không rõ ràng, thường chạy theo chiều dài của gạc. Khi bị bẻ, cả hai loại gạc đều có vết bẻ màu trắng và một lõi màu tro, nhưng tủy của gạc hươu thường hẹp hơn so với gạc nai. Nếu tủy mở rộng, gạc có thể bị coi là nhẹ và không đẹp.
Đặc điểm
Gạc thường được thu thập từ các con hươu nai sau khi chúng bị săn bắn hoặc tự rụng vào mùa thích hợp. Trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 8, những người săn bắn hoặc những người đi rừng thường đi tìm để thu thập gạc từ tự nhiên.
Gạc lấy từ các con hươu nai còn sống thường được đánh giá cao hơn. Chúng thường được gọi là gạc bao bì liên tảng khi vẫn còn bao gồm cả da và xương đầu, hoặc gạc liên tảng khi chỉ còn dính với xương đầu mà không còn da.
Gạc tự rụng được coi là loại kém hơn so với gạc lấy từ hươu nai sau khi săn bắn. Trong loại gạc tự rụng này, người ta thường phân biệt ra hai loại chính: loại gạc còn có phần đế dài và màu sắc trắng ngà, được coi là cao cấp hơn; sau đó đến loại gạc tự rụng nhưng không còn đế, thậm chí có đế lõm vào và màu sắc trắng nhợt, được xem là loại kém hơn.
Khi sử dụng gạc, phương pháp chuẩn bị thường là cưa thành từng khúc ngắn, sau đó tẩm bằng mật sao vàng và tán nhỏ. Một cách khác là cưa thành khúc ngắn và sử dụng than đốt để xử lý trước, sau đó mới tán nhỏ trước khi sử dụng.
Bộ phận dùng – Thu hái – Chế biến
Từ lộc giác, người ta có thể chế biến thành hai loại sản phẩm phổ biến: cao ban long và lộc giác sương.
Lộc giác sương, trong tiếng Latinh được gọi là Cornu cervi degelatinarum, là một dạng sản phẩm được tạo ra từ lộc giác. Có hai loại lộc giác sương khác nhau, mỗi loại có cách chế biến và ứng dụng riêng.
Lộc giác giao là gì? Trong phong cách chế biến theo lối Nhật Bản, lộc giác sương được tạo ra bằng cách đốt sừng hươu nai cho đen hoặc thiêu, sau đó tán nhỏ. Trong khi đó, ở Trung Quốc và Việt Nam, lộc giác sương thường được chế biến từ sừng hươu nai còn lại sau khi đã được nấu chín để tạo ra (Lộc giác giao) cao ban long, sau đó được phơi khô và tán nhỏ. Loại này thường được sử dụng trong y học hoặc đôi khi được sử dụng làm phân bón cho cây trồng.
Thành phần hoá học
Trong gạc hươu nai, khoảng 25% là chất keo (keratin), còn lại là 50-60% canxi phosphat, canxi cacbonat, một lượng nhỏ chất đạm và ít nước. Tuy nhiên, trong lộc giác sương, tỷ lệ chất keo thường mất hẳn hoặc còn rất ít so với gạc hươu nai.
Tác dụng dược lý
Đang cập nhật
Tính vị – Quy kinh
Đang cập nhật
Công năng – Chủ trị
Công dùng lộc giác: Trước đây, ở châu Âu cũng đã sử dụng sừng hươu nai làm thuốc. Tuy nhiên, do sừng hươu nai trở nên hiếm hoi và khó kiếm, cùng với sự xuất hiện của các vị thuốc khác có thể thay thế, việc sử dụng sừng hươu nai trong y học châu Âu đã giảm dần và không còn phổ biến nữa.
Lộc giác chữa bệnh gì? Trong Đông y, lộc giác được xem là một vị thuốc bổ quan trọng được sử dụng trong các trường hợp mệt mỏi, suy nhược thần kinh. Nó cũng được coi là có khả năng kích thích sự lưu thông của máu, giúp chữa lành các vấn đề về khớp xương như sưng phù và giúp giải độc cho da mặt khi bị mụn nhọt.
Trong Đông y, lộc giác sương được sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh như ho, ho lao, tiểu tiện ra huyết, tiểu tiện ra tinh dịch, và các vấn đề liên quan đến mụn nhọt.
Liều dùng
Liều dùng thông thường của lộc giác là từ 5 đến 10 gram mỗi ngày, có thể sử dụng dưới dạng thuốc bột, viên hoặc sắc.
Bảo quản
Bảo quản dược liệu lộc giác ở nơi khô ráo và thoáng mát.
Một số bài thuốc phổ biến
1. Điều trị các vấn đề như mụn nhọt ở các vùng như sau lưng, vùng vú và các nơi khác
Người ta thường sử dụng lộc giác đốt cho đến khi thành ra than, sau đó hòa với dấm và bôi vào vùng da bị mụn nhọt.
2. Chữa trị đau nhức ở gân xương, lộc giác
Sẽ được sao tồn tính (tức ra than còn màu đen) và sau đó tán nhỏ. Liều lượng thông thường là 4 gram, uống hai lần mỗi ngày.
3. Phụ nữ bị khí hư bạch đới, lộc giác
Phụ nữ sẽ gặp các chứng bệnh này sau khi sao tồn tính và có màu vàng sẽ được tán nhỏ. Liều lượng cũng là 4 gram, uống hai lần mỗi ngày. Nếu có thể uống được rượu, người ta có thể chiêu thuốc bằng cách hòa lộc giác vào rượu và sử dụng.
Tài liệu tham khảo
- Đỗ Tất Lợi (2006), Lộc Giác, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội, trang 941.