Kê Đản Hoa (Hoa Đại)
Danh pháp
Tên khoa học
Plumeria rubra L. var. acutifolia (Poir.) Bailey (Họ Trúc đào – Apoсуnасeае)
Plumeria acuminata Roxb.
Plumeria obtusa Lour.
Tên khác
Bông sứ, sứ cùi, hoa chăm pa, hoa đại, miến chi tử
Nguồn gốc
Kê đản hoa là cây gì? Chi Plumeria L. bao gồm khoảng 40 loài, được tìm thấy chủ yếu ở các khu vực nhiệt đới. Ở Việt Nam, có hai loài phổ biến là cây đại (còn gọi là kê đản hoa) vốn có nguồn gốc từ Mexico và sau này đã được du nhập và phổ biến ở nhiều quốc gia nhiệt đới khác.
Hoa đại mọc ở đâu? Cây đại được trồng từ xa xưa tại các địa điểm tôn nghiêm như đình, chùa và các không gian công cộng. Loài này thích hợp với điều kiện ánh sáng mạnh, khả năng chịu hạn cao và đòi hỏi ít sự chăm sóc. Tuy là loài bản địa của vùng nhiệt đới, cây đại không thể sống sót ở các vùng núi cao lạnh giá như Sapa hay Bắc Hà tại Lào Cai.
Cây này cũng nổi tiếng với khả năng tái sinh vô tính mạnh mẽ, thường ra hoa ngay trong năm đầu tiên khi được trồng từ cành. Khi cây càng trưởng thành, nó sẽ càng sản sinh nhiều hoa hơn. Tuy nhiên, ở các tỉnh phía bắc, cây đại thường rụng lá vào mùa đông và dù có hoa nhiều nhưng lại ít khi đậu quả. Ngược lại, ở các tỉnh phía nam, cây đại không chỉ ra hoa mà đôi khi còn cho quả.
Đặc điểm thực vật
Cây này có kích thước trung bình, cao từ 3 đến 7 mét. Thân cây thẳng và bắt đầu phân nhánh sớm thành các nhánh chính hoặc phụ. Cành của cây khá to và nhẵn, màu xám nhạt, dễ gãy và có nhiều dấu vết của lá cũ.
Lá hoa đại dày và to, sắp xếp xen kẽ nhau, thường tập trung nhiều ở đầu cành. Hình dạng lá là hình mác, gốc thuôn dần và đầu lá nhọn, mặt trên màu xanh đậm và mặt dưới nhạt hơn, với gân lá chính hình lông chim và các gân phụ kết nối rõ ràng ở mép lá, dài từ 20 đến 25cm và rộng khoảng 5 đến 6cm.
Hoa đại mọc thành từng cụm ở đầu cành trên cuống to, phân nhánh 2 đến 3 lần và nụ hoa có dạng xoắn. Hoa có màu trắng ở bên ngoài và bên trong màu vàng nhạt, thơm và rụng sớm, với đài hoa nhỏ (Cây hoa đại trắng). Cánh hoa gồm 5 chiếc, ống hoa hẹp và loe ở miệng, có lông bên trong, nhị số lượng 5, gắn vào ống hoa và chỉ nhị rất ngắn. Bầu hoa chứa hai noãn riêng biệt.
Quả cây hoa đại là loại quả kép, dính liền nhau và chín màu đen nâu, hạt thuôn và có cánh mỏng. Cây này tiết ra nhựa mủ trắng.
Cũng có một loài trong cùng chi này có hoa màu đỏ, là Plumeria rubra L. Thời gian hoa quả từ tháng 5 đến tháng 8.
Cây này có thể bị nhầm lẫn với loài Plumeria obtusifolia L., loài này có thân cây to hơn và tán lá dày đặc hơn, lá dài tới 30cm, rộng 10cm, đầu lá tròn và mặt trên màu lục đen bóng, gân giữa có màu trắng. Hoa của loài này lớn hơn và các cánh hoa thường hơi cong xuống khi hoa nở hoàn toàn.
Bộ phận dùng – Thu hái – Chế biến
Vỏ của thân và rễ cây hoa đại thường được sao cho vàng rồi sử dụng ngay hoặc phơi dưới ánh nắng mặt trời cho đến khi khô để bảo quản sử dụng dần. Ngoài ra, hoa của cây cũng được thu hoạch và phơi khô. Lá tươi và nụ hoa cũng được thu thập để sử dụng trong các mục đích khác nhau.
Thành phần hóa học
Vỏ của thân cây đại gồm nhiều thành phần hóa học, bao gồm các hợp chất triterpen như taraxasteryl, acid oleanelic, cycloart-22-en-3α-25-diol và rubinol-3a-27-dihydroxyolcan-12-en. Các hợp chất iridoid như fulvoplumierin, allancin, allamandin, và plumerin, cũng như nhiều biến thể khác như 15 demethyl plumerid, plumerid, ẞ allamcidin, và 13-O-transpcoumaroyl-plumerid, plumericin, isoplumericin, 13-O-coumaroyl plumerid, và protoplumericin A cũng được tìm thấy trong vỏ cây này.
Rễ của cây đại chứa iridoid như 13-0 caffeoyl plumierid và nhiều acid như acid 13 deoxyplumericinic và acid dihydroplumericinic, cùng với glucosyl ester plumerosid, l-a plumieric, l-a protoplumericin A và 8 isoplumeric.
Lá cây chứa các hợp chất triterpen và các acid như acid plumeric và plumerat.
Tinh dầu chiết xuất từ hoa đại, khi phân tích qua kỹ thuật sắc ký khí và sắc ký khí khối phổ, cho thấy có đến 74 thành phần khác nhau, trong đó linalol, phenylacetaldehyd, trans trans farnesol B, phenyl ethylalcol, geraniol, a terpineol neral, và geranial là những thành phần chủ yếu.
Nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng cây đại chứa các chất như lupeol, stigmasterol, scopletin và agoniadin.
Tác dụng dược lý
Các nghiên cứu từ Viện Vệ sinh dịch tễ và Viện Y học dân tộc Trung ương cho thấy lá, hoa, và rễ của cây đại có hiệu quả trong việc kháng khuẩn. Cụ thể, nước ép từ lá tươi của cây đại cho thấy khả năng kháng lại các loại vi khuẩn như Staphylococcus aureus, Shigella flexneri, Shigella dysenteriae và Bacillus subtilis. Các chất kháng khuẩn này không bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ cao, và nước sắc từ cây cũng mang lại hiệu quả tương tự. Nghiên cứu quốc tế cũng ghi nhận rằng dịch chiết nước từ cây đại có khả năng ức chế sự phát triển của một số loại vi khuẩn, với các kết quả đo đường kính vòng vô khuẩn đối với nhiều chủng vi khuẩn khác nhau.
Fulvoplumierin, với nồng độ 1,5µg/ml, đã được chứng minh là có khả năng ức chế sự phát triển của Mycobacterium tuberculosis.
Ngoài ra, dịch chiết hoa đại khi tiêm tĩnh mạch vào các động vật thí nghiệm như chuột, mèo, chó, và thỏ cho thấy có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt. Liều lượng 0.5g/kg thân thể có tác dụng bắt đầu sau nửa phút và kéo dài khoảng 5 phút, làm giảm huyết áp tới 28 ± 8% so với mức trước khi dùng. Dịch chiết này cũng làm giảm sức co bóp của cơ tim và có thể gây ngừng tim ở giai đoạn tâm trương, đồng thời làm giãn mạch ngoại vi.
Uống nước hoa đại có tác dụng gì? Vỏ thân cây đại được sử dụng để kích thích, nhuận tràng, tẩy xổ, và hạ sốt, trong khi đó nước sắc từ vỏ còn có tác dụng hạ đường huyết. Rễ cây đại có tác dụng tẩy mạnh và độc với súc vật. Nhựa mủ của cây có thể gây xung huyết da và ngộ độc nếu dùng với liều lớn. Tinh dầu hoa đại được biết đến với khả năng chống nấm ở Ấn Độ, và nụ hoa đại khi nhai cùng với lá trầu không có tác dụng hạ sốt.
Tính vị – Quy kinh
Vỏ thân và rễ cây đại có vị đắng và có tính mát. Hoa đại có vị ngọt và có tính bình.
Công năng – Chủ trị
Kê đản hoa có tác dụng gì? Vỏ thân và rễ cây đại mang lại những lợi ích y học như giảm sưng, thanh nhiệt, và làm mát cơ thể cũng như điều trị táo bón và khó tiểu. Vỏ cây được sử dụng làm thuốc nhuận tràng, thường được thái mỏng và sao cho thơm trước khi sắc với nước, uống mỗi ngày 3 lần. Trong y học cổ truyền ở huyện Kim Sơn, Ninh Bình, vỏ cây đại được sử dụng để chữa phù do thận với hiệu quả cao.
Hoa đại chữa bệnh gì? Hoa đại khô được dùng để pha nước sắc nhằm điều trị các vấn đề về huyết áp cao và rối loạn mạch. Ngoài ra, hoa đại còn có tác dụng giảm sốt, chữa ho, kiết lỵ, và các bệnh liên quan đến chảy máu như hemophilia. Các bác sĩ ở Lào và Campuchia cũng sử dụng hoa đại để chữa viêm tắc động mạch và bệnh hắc lào, tương ứng.
Nhựa cây đại, có từ vỏ cây, lá và hoa, được dùng làm thuốc tẩy mạnh khi pha loãng với nước. Khi dùng ngoài, nhựa này có khả năng chữa lành sưng tấy, mụn nhọt và các vết chai ở chân. Tại Thái Lan, nhựa cây này thường được trộn với dầu dừa để bôi ngoài, dùng trong điều trị viêm khớp.
Đối với vỏ rễ, thường ngâm trong rượu khoảng 200ml ở nồng độ từ 25-35 độ trong 30 phút và dùng ngày hai lần để chữa đau nhức răng mà không nuốt. Cần chú ý không dùng quá liều để tránh các tác dụng phụ không mong muốn.
Bảo quản
Bảo quản dược liệu kê đản hoa ở nơi khô ráo và thoáng mát.
Một số bài thuốc
Chè giảm áp an thần
Bài thuốc “Chè giảm áp an thần” bao gồm hoa đại khô thái nhỏ (100g), hoa cúc vàng khô thái nhỏ (50g), hoa hoè đã sao vàng (50g), và hạt quyết minh đã sao đen (50g). Những nguyên liệu này được nghiền thành bột mịn, sau đó chia thành các gói 10g. Mỗi ngày sử dụng 1-2 gói, pha với nước sôi để uống như trà, giúp hạ huyết áp, bảo vệ mao mạch và có tác dụng an thần, thúc đẩy giấc ngủ.
Chữa táo bón
Bài thuốc chữa táo bón dùng vỏ đại 50g đã sao vàng kết hợp với cám gạo 50g. Hai thành phần này được tán nhỏ và rây thành bột mịn, sau đó trộn với hồ để làm thành viên nén 0,5g. Người lớn sử dụng 15 viên mỗi ngày, trẻ em từ 5-9 tuổi dùng 5 viên, và trẻ từ 10-15 tuổi dùng 10 viên chia làm 2 lần uống trong ngày với nước đun sôi để nguội. Phương pháp này đã được áp dụng rộng rãi tại trạm y tế xã Phương Hoàng, huyện Tiên Yên, tỉnh Hà Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Ngoài ra, có thể sắc nhiều lần vỏ thân đã chế biến và cô lại thành cao mềm với tỷ lệ 1:1, sử dụng liều lượng từ 0,2-0,5g mỗi ngày và có thể tăng dần lên 1-2g/ngày. Người bị tiêu chảy hoặc phụ nữ có thai không nên sử dụng phương pháp này.
Tài liệu tham khảo
- Đỗ Huy Bích (2006), Kê đản hoa, Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tập 1, trang 719.
- Đỗ Tất Lợi (2006), Kê đản hoa, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội, trang 447.
- Phạm Hoàng Hộ (1999), Kê đản hoa, Cây cỏ Việt Nam, NXB Trẻ, Hà Nội, tập 2, trang 693.