Dây Toàn (Già Căn)
Danh pháp
Tên khoa học
Solanum dulcamara L. (Họ Cà – Solanaceae)
Solanum lyratum Thunb.
Tên khác
Già căn
Nguồn gốc
Dây toàn là cây gì? Dây toàn chủ yếu phân bố tại các vùng ôn đới và cận nhiệt đới ở phía bắc, trong khi ở khu vực nhiệt đới, chúng thường chỉ xuất hiện ở những độ cao đáng kể trên núi. Tại Việt Nam, dây toàn thường mọc tại các vùng núi gần biên giới với Trung Quốc như Cao Bằng, Hà Giang và Lai Châu. Nó cũng có thể được tìm thấy ở Sa Pa (Lào Cai) ở độ cao khoảng 1500 m.
Cây dây toàn thuộc loại cây ưa sáng hoặc có khả năng chịu một ít bóng, thường mọc trên đất ẩm và thường gặp kết hợp với các loại cây cỏ khác ở ven đường, trong vườn trồng rau hoặc nương rẫy. Cây này bắt đầu mọc từ hạt vào cuối tháng 3 đến đầu tháng 4 và có tốc độ sinh trưởng nhanh trong mùa hè. Sau khi quả chín, cây dây toàn thường bắt đầu tàn lụi vào giữa mùa thu. Quá trình trồng cây thường được thực hiện bằng cách gieo hạt vào mùa xuân.
Đặc điểm thực vật
Dây toàn, một loại cây bụi leo, với thân hóa gỗ ở phần gốc, có cấu trúc nhẵn hoặc có lông, với các cành mảnh mảnh. Lá dây toàn mọc so le, mang hình dạng bầu dục hoặc thuôn, với gốc thắt hình tim, dài khoảng 4-8 cm và rộng 2-5 cm. Đầu lá nhọn, có thể nguyên hoặc xẻ thành 3 thùy nông hoặc sâu, và cuống lá dài khoảng 2-4 cm.
Cụm hoa dây toàn xuất hiện ở ngoại vi của lá, tạo thành các xim phân nhánh nhiều và vặn vẹo. Hoa của dây toàn có màu đỏ tía, tím, đôi khi là trắng hoặc hồng nhạt. Đài hoa xẻ khoảng nửa đến 5 răng, và khi quả chín, tràng của hoa kéo dài gấp 3 lần so với đài.
Quả dây toàn có hình dạng độc đáo, có thể là hình cầu hoặc hình trứng, và khi chín, chúng sáng bóng với màu đỏ tươi. Hạt quả nhẵn, tăng thêm vào vẻ đẹp tự nhiên của cây.
Ngoài ra, có một biến thể của dây toàn, được đặt tên là Solanum dulcamara L. var. lyratum Thunb., có lá ở phía dưới nguyên và lá ở phía trên xẻ; toàn bộ cây được phủ lông mịn, một đặc điểm độc đáo khác của loài này.
Bộ phận dùng – Thu hái – Chế biến
Toàn bộ cây được thu hái vào mùa hè thu, sau đó được tẩy rửa kỹ lưỡng và phơi khô để đảm bảo chất lượng tối ưu.
Thành phần hóa học
Phần trên mặt đất của dây toàn không chỉ là nơi sinh trưởng của nó mà còn chứa đựng một loạt các glycoalcaloid, bao gồm a, β, y soladucoin và a, β, y solamarin. Trong đó, y solamarin có một đồng phân được biết đến là y₁ solamarin, cùng với một derhamnosyl của a solamarin. Soladulcin, một tetraosid của soladulcidin, là phần đường chính được xác định trong dịch thủy phân glucoalcaloid, bao gồm D. xylose, L. rhamnose, D. galactose và D. glucose.
a solamarin, một triglucosid của tomatiden 3 – B – ol, chứa D. glucose, D. galactose và L. rhamnose trong phần đường của nó. Phần đường của ẞ và y solamarin lần lượt là D. glucose và L. rhamnose (2 mol), cùng với D. glucose và L. rhamnose. Bên cạnh đó, solanin, solasonin, solamargin và nhiều sapogenin steroid như yamogenin, tigogenin, diosgenin cũng được tìm thấy.
Từ phần trên mặt đất, các spirostanol glycosid A và B như tigogenin – 3 – Ο, solatriosid và degalacto tigonin cũng đã được tách ra, cùng với atractylenolid L dehydrocarissme, ergosterol peroxyd và 9-11 dehydroergosterol peroxyd.
Lá của dây toàn chứa solasodin, ẞ solamargin, cycloartenol, 24 methylen cycloartanol, cycloeucalenol, obtusifoliol, lophenol, 24 methylen lophenol và 24 ethyliden campestrol, brassicasterol, isofucosterol và 24 methylen cholesterol. Trừ cyclo artanol, các chất khác đều tồn tại dưới dạng este.
Rễ dây toàn chứa tomatidin, tomatidenol, soladulcidin, solasodin, và nhiều alcaloid spirosolan như 15a hydroxy soladulcin, 15a hydroxy solasodin, 15a hydroxy tomatidin và 15a hydroxy tomatidenol. Các glycosid như a-L-rhamnopyranosyl (1→2) B-D-glycopyranosyl tomatidenol (y1 solamarin) và B – D glucopyranosyl (1→3) B-D galactopyranosyl tomatidenol cũng được phát hiện.
Hạt dây toàn chứa soladuleidin, solasodin, tomatid 5 en – 3B – ol; tigogenin, diosgenin và yamogenin. Hoa của cây chứa 30 – glucosid và 3 – O- rhamnosid của quercetin và kaempferol.
Quả xanh và quả vàng của dây toàn chứa nhiều glucoalcaloid hơn so với quả chín đỏ, và còn chứa các chất màu như lycopen, monohydroxy lycopen, lycoxanthin, dihydroxy lycopen, licophyll. Điều này tạo ra sự đa dạng và phong phú trong thành phần hóa học của dây toàn ở nhiều giai đoạn khác nhau của sự phát triển của nó.
Tác dụng dược lý
Dây toàn có tác dụng gì? Tác dụng chống ung thư của dây toàn đã được nghiên cứu thông qua các thí nghiệm trên chuột nhắt trắng, sử dụng dạng chiết bằng cồn, nước và butanol từ quả cây. Các liều lượng 15 và 30 mg/kg đã thể hiện khả năng ức chế đáng kể đối với sarcom 180. Sự so sánh trọng lượng khối u (mg) giữa lô dùng thuốc và lô đối chứng (T/C) là 806/1285 với liều 15 mg/kg và 274/1285 với liều 30 mg/kg. Phân tích chi tiết đã xác định thành phần có tác dụng là ẞ-solamarin, đưa ra hy vọng về tiềm năng chống ung thư của dây toàn.
Về tác dụng chống viêm, solasodin đã được xác định có khả năng giống cortison, giảm tính thẩm thấu của thành mạch và giảm hoạt tính men hyaluronidase. Các thử nghiệm trên súc vật đã chứng minh tác dụng bảo vệ của solasodin đối với choáng do histamin, insulin và cả do quá mẫn gây ra. Hơn nữa, solasodin còn có khả năng thúc đẩy quá trình hình thành kháng thể, mang lại hi vọng về ứng dụng của nó trong điều trị các tình trạng viêm nhiễm.
Trong khi đó, tác dụng của solasonin đối với đường huyết đã được thử nghiệm trên chuột cống trắng, thể hiện khả năng làm tăng đường huyết ở liều 50 – 100 mg/kg. Solanin, với liều 5 – 30 mg/kg, cũng có tác dụng tương tự. Điều này cho thấy tác dụng tăng đường huyết của thuốc có liên quan đến tuyến thượng thận, và khi cắt bỏ 2 bên tuyến thượng thận ở chuột cống trắng, thuốc lại gây hạ đường huyết đến mức tử vong.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng solanin và solasonin, hai thành phần chính của dây toàn, có độc tính tương đối cao, khiến cho việc sử dụng quá liều có thể dẫn đến ngộ độc. Các triệu chứng bao gồm đau đầu, đau bụng, nôn mửa, ỉa tháo, dãn đồng tử, nhịp tim đầu nhanh sau chậm, và tình trạng tinh thần hoảng loạn, có thể thậm chí dẫn đến tình trạng hôn mê.
Tính vị – Quy kinh
Dây toàn có vị hơi đắng, có tính mát và có độc.
Công năng – Chủ trị
Dây toàn chữa bệnh gì? Dây toàn, với những tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu sưng viêm, khư phong và lợi thấp, đang trở thành một lựa chọn quý giá trong việc điều trị nhiều tình trạng khác nhau. Dân gian đã truyền lại kinh nghiệm sử dụng dây toàn để giải quyết các vấn đề sức khỏe như thấp khớp, viêm gan vàng da, viêm túi mật, mụn nhọt và u sưng. Ở Ấn Độ, dây toàn được coi là một loại thuốc có tác dụng lợi tiểu, kích thích ra mồ hôi, giúp ngủ nhẹ, và hỗ trợ trong điều trị bệnh tim, lao hạch và thấp khớp mạn tính. Trong truyền thống Trung Quốc, dây toàn được sử dụng như một phương pháp điều trị lợi tiểu, giảm đau thần kinh và tiêu thủy thũng.
Liều dùng
Khuyến nghị sử dụng 2.5 – 5.0g dạng sắc, 1.3- 3,0 g dạng bột và 0,3 – 0,6 g dạng cao.
Kiêng kỵ
Cẩn thận khi sử dụng dây toàn, vì nó có độc tính. Liều lượng cao có thể dẫn đến ngộ độc, biểu hiện qua các triệu chứng như nôn mửa và ỉa tháo, giống như cảm giác của người bị cà độc dược. Do đó, việc sử dụng thuốc cần được thực hiện với sự cẩn thận, tránh việc dùng quá liều.
Bảo quản
Đặt dây toàn ở nơi khô ráo, thoáng mát và tránh ánh sáng trực tiếp. Ánh sáng có thể làm mất màu và giảm chất lượng của dược liệu.
Một số bài thuốc
Dây toàn là thành phần chính của nhiều bài thuốc truyền thống, đặc biệt là trong việc điều trị những bệnh ngoài da và các vấn đề về thấp khớp. Bài thuốc sử dụng dây toàn thường được chuẩn bị dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc ngâm rượu, với liều lượng mỗi ngày khoảng 2 đến 4g, được chia thành nhiều lần uống. Tuy nhiên, một số người có thể phản ứng với thuốc bằng cách nôn mửa hoặc gặp vấn đề với đường huyết. Do đó, khi sử dụng bài thuốc từ dây toàn, cần thực hiện một cách thận trọng và theo hướng dẫn của người có chuyên môn để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong quá trình điều trị.
Tài liệu tham khảo
- Đỗ Huy Bích (2006), Dây toàn, Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tập 1, trang 661.
- Đỗ Tất Lợi (2006), Dây toàn, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội, trang 520.
- Phạm Hoàng Hộ (1999), Dây toàn, Cây cỏ Việt Nam, NXB Trẻ, Hà Nội, tập 2, trang 758.