Cây Chùa dù (Kinh giới rủ)
Danh pháp
Tên khoa học
Elsholtzia penduliflora W.W. Smith. (Họ Bạc hà – Lamiaceae)
Elsholtzia blanda Benth.
Tên khác
Kinh giới núi, Kinh giới rừng, Dê sùa tùa, Tả hoàng đồ (H’Mông)
Nguồn gốc
Chi Elsholtzia Will, với khoảng 30 loài phân bố rộng rãi trên thế giới, chủ yếu xuất hiện ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Á. Dù chỉ có một số ít loài nằm ở châu Âu và châu Phi, tại Việt Nam, chi này tự hào với 7 loài đặc sắc, trong số đó 5 loài được biết đến với khả năng chữa bệnh, điển hình như cây chùa dù.
Cây chùa dù có ở đâu? Cây chùa dù, với nguồn gốc từ vùng cận Himalaya, hiện diện nổi bật ở Trung Quốc và Ấn Độ. Tại Việt Nam, sự tồn tại của nó mới được khám phá trong những khu vực núi cao, với độ cao từ 1450 đến 1600 mét ở các địa danh như Sìn Hồ (Lai Châu), Sa Pa, Bát Xát (Lào Cai), Đồng Văn, Quản Bạ (Hà Giang) và Mường Lống – Kỳ Sơn (Nghệ An).
Đặc trưng bởi sự ưa ẩm và ưa sáng, chùa dù có khả năng chịu bóng nhẹ, thường mọc thành từng đám lớn trong thung lũng ẩm, bên bờ suối hoặc ở các bãi đất phẳng gần chân núi đá vôi. Loài cây này thích ứng tốt với khí hậu cận nhiệt đới ở độ cao, với nhiệt độ trung bình từ 15 đến 18°C, lượng mưa khoảng 2500mm/năm (trừ khu vực Đồng Văn – Hà Giang có lượng mưa ít hơn, dưới 2000 mm/năm) và độ ẩm không khí trung bình trên 85%.
Chùa dù nổi bật với khả năng ra hoa và quả đều đặn mỗi năm. Vào tháng 9 và 10, quả chín tự mở và hạt rơi ra, bắt đầu nảy mầm vào tháng 4 năm sau. Thường thì, sau khi ra hoa và quả, các cành cây sẽ tàn lụi trong mùa đông, chỉ trừ những cành non chưa kịp ra hoa chỉ rụng lá. Mùa xuân tiếp theo, từ phần gốc còn sót lại, nhiều chồi non sẽ mọc lên. Hiện tại, chùa dù là một trong những loài cây thuốc quý hiếm, đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng và cần được bảo tồn tại Việt Nam.
Đặc điểm thực vật
Chùa dù là loại cây thảo sống hàng năm, cao từ 1 đến 2 mét, thường mọc thành bụi nhỏ gọn. Thân cây vuông vức, phủ đầy lông mềm và chia nhánh nhiều lần, tạo nên hình dáng độc đáo.
Lá của chùa dù mọc đối nhau, với cuống ngắn và hình mác, dài từ 5 đến 15 cm, rộng từ 1 đến 5 cm. Đặc biệt, mặt trên của lá trơn nhẵn, chỉ có lông mọc dọc theo gân, trong khi mặt dưới phủ một lớp lông mịn. Mép lá được tạo hình khía răng không đều, thậm chí có khi được viền bởi màu tím nhạt, tạo nên nét độc đáo riêng biệt.
Vẻ đẹp của chùa dù càng thêm rực rỡ với cụm hoa mọc ở kẽ lá và đầu cành, hình thành thành bông dài từ 10 đến 20 cm. Hoa của chùa dù mang sắc trắng đục, mọc cong xuống và xếp chặt cùng nhau thành nhiều vòng, giống như đuôi sóc nở rộ ở phía ngọn. Đài hoa nhỏ, hình chuông, phủ lông bên ngoài và nhẵn bên trong. Khi quả phát triển, đài hoa như hình trứng, hơi phình ra ở giữa. Tràng hoa của chùa dù có lông mỏng ở bên ngoài nhưng lại nhẵn ở bên trong, với 4 thùy gần như đều nhau và 4 nhị cân xứng.
Quả chùa dù hình bầu dục, dẹt, nhẵn bóng, dài từ 0,5 đến 1 mm, với vỏ ngoài màu nâu đen hấp dẫn. Đặc biệt, toàn cây chùa dù tỏa ra hương thơm nhẹ nhàng, như khuynh diệp hay tràm, tạo nên sự độc đáo.
Chùa dù thường nở hoa vào mùa hè, từ tháng 7 đến 9, và cho quả vào cuối thu, từ tháng 10 đến 11, mang lại vẻ đẹp riêng biệt cho cảnh quan tự nhiên.
Thu hái – Chế biến
Khi mùa hè và thu đến, những phần trên mặt đất của cây được thu hái cẩn thận. Điều này thường được thực hiện vào thời điểm cây đang trong giai đoạn ra hoa.
Cây chùa dù sau khi thu hoạch có thể được sử dụng ngay trong tình trạng tươi nguyên, hoặc được phơi khô bằng cách phơi nắng nhẹ nhàng hoặc trong bóng râm, tùy vào mục đích sử dụng. Điều thú vị là, phần trên mặt đất của chùa dù còn có thể được chưng cất để thu lấy tinh dầu chùa dù quý giá, mang lại hương thơm đặc trưng và các đặc tính dược lý nổi bật của loài cây này.
Thành phần hóa học
Cây chùa dù, nổi tiếng với hàm lượng tinh dầu thơm nồng, là một kho tàng hóa học phong phú. Các nghiên cứu của các tác giả Việt Nam như Võ Văn Chi, Đỗ Tất Lợi, Nguyễn Văn Hạc đã chỉ ra rằng, loài cây này, được gọi là Elsholtzia blanda, chứa từ 0,4 đến 0,6% tinh dầu có mùi hương đặc trưng, giống như khuynh diệp hoặc tràm. Thành phần chính của tinh dầu này là cineol, chiếm một tỷ lệ đáng kể.
Tinh dầu chùa dù chứa nhiều nhất ở lá (0,4 -0,6%), hoa (0,28-0,47%) và cành (0,16 – 0,25%), với hàm lượng cao nhất ghi nhận vào tháng 8 – 9. Khi mới cất, tinh dầu có màu vàng cam, nhưng theo thời gian chuyển sang màu vàng đỏ, và cuối cùng có màu vàng chanh. Ngoài ra, tinh dầu chứa khoảng 75 – 80% cineol theo phân tích sắc ký khí, hoặc 56 – 60% theo phương pháp resorcin.
Qua phân tích sắc ký khí kết hợp khối phổ, khoảng 40 chất đã được phát hiện trong tinh dầu, trong đó 1,8-cineole chiếm tỷ lệ lớn nhất là 62.04%. Ngoài ra, tinh dầu còn chứa các thành phần như alpha pinen (4.31%), beta pinen (5.69%), và alpha terpineol (4.98%).
Các nghiên cứu khác như của Fang Hongju và đồng nghiệp đã cho thấy tinh dầu từ phần trên mặt đất của Elsholtzia blanda chứa 27,55% alpha phellandrene, 4,12% cauphen và alpha pinen. Bestmann, Hansjuergen và đồng nghiệp, trong phân tích tinh dầu thu thập từ Assam, đã phát hiện khoảng 30 chất khác nhau, trong đó geranyl acetat chiếm tới 71%, linalool 5,27%, geraniol 3,37%, β-ocimen 2.96%, β caryophylen 1,75%, alpha bergamoten 1,7%, (Z) β-ocimen 1,38%, acetophenone 1.13%, và linalyl acetat 1.11%. Cuối cùng, Zon, Weishu Zhu và cộng sự đã xác định 24 hợp chất terpen trong tinh dầu, chủ yếu là 1 – 8 cineol (71,71%).
Tác dụng dược lý
Cây chùa dù có tác dụng gì? Phần trên mặt đất của cây, trừ rễ, đã được chứng minh có hiệu quả đối với hệ thần kinh trung ương và còn mang lại tác dụng lợi tiểu.
Các nghiên cứu gần đây đã tiết lộ rằng Chùa dù có khả năng ức chế hiệu quả các tình trạng viêm phổi nặng do virus. Nổi bật trong số các hợp chất của Chùa dù là elsholtzioxin, có hoạt tính kháng virus cúm H1N1 đáng chú ý, với tỷ lệ ức chế lên đến 47,19%. Bên cạnh đó, các hợp chất như apigenin, protocatechuic aldehyde và 2-(3’,4’-dihydroxyphenyl)-1,3-benzodioxole-5-aldehyde cũng thể hiện hoạt tính ức chế đáng kể với IC50 lần lượt là 26,16; 34,66 và 20,81μM.
Hơn nữa, hợp chất penduloside từ chùa dù đã được thử nghiệm về hoạt tính gây độc tế bào đối với hai dòng tế bào ung thư ở người in vitro. Kết quả cho thấy khả năng gây độc tế bào đáng kể đối với tế bào ung thư phổi ở người (A549) và tế bào ung thư vú ở người (MCF-7).
Tính vị – Quy kinh
Vị cay, đắng, mùi thơm, tính ấm
Công năng – Chủ trị
Cây chùa dù trị bệnh gì? Chùa dù, một loại cây dân gian đa năng, được sử dụng rộng rãi trong việc chữa trị các bệnh thông thường như cảm, cúm, sốt, ho, khó tiểu do viêm, hay tiểu tiện ra máu. Truyền thống sử dụng khoảng 10 – 16g cây khô mỗi ngày, dưới hình thức thuốc sắc hoặc thuốc hãm, không chỉ cho con người mà còn cho cả ngựa. Cây chùa dù tươi còn được dùng để xông chữa cảm sốt, hoặc giã nát đắp vào ngực và xoa bóp nhẹ nhàng vào những nơi đau nhức để giảm bớt triệu chứng cho trẻ nhỏ khi họ bị ho hoặc sốt.
Ngoài ra, cây tươi còn là nguồn nguyên liệu quý báu để cất tinh dầu, sử dụng trong việc uống hoặc xoa bóp. Một số địa phương đã khéo léo sử dụng tinh dầu chùa dù thay thế cho tinh dầu khuynh diệp và tinh dầu trầm trong các công thức dầu xoa và cao xoa, nhờ vào công dụng tương tự của nó. Đặc biệt, tinh dầu chùa dù còn có khả năng chữa trị các chứng đau nhức và tiêu chảy. Rễ cây chùa dù cũng không kém phần hữu ích, thường được dùng để chữa sốt rét, với liều lượng khoảng 8 – 10g mỗi ngày dưới dạng thuốc sắc.
Một sáng tạo đáng chú ý là việc phối hợp tinh dầu chùa dù với tinh dầu bạc hà để tạo ra “dầu xoa Sìn Hồ”, một phương thuốc hiệu quả để giải nhiệt, giảm đau và sát khuẩn. Tinh dầu chùa dù cũng có thể pha loãng và sử dụng để xoa bóp, giúp điều trị tình trạng tê thấp và đau mình mẩy, mang lại cảm giác nhẹ nhàng và thoải mái.
Liều dùng
Liều lượng khuyến nghị cho việc sử dụng chùa dù là từ 10 đến 16g mỗi ngày.
Bảo quản
Dược liệu chùa dù khô cần được bảo quản ở nơi khô ráo, tránh ánh nắng trực tiếp và nhiệt độ cao. Điều này giúp ngăn chặn sự phát triển của mốc và vi khuẩn.
Một số bài thuốc
Đối với các trường hợp tiểu khó do nhiệt hoặc tiểu ra máu, người ta thường dùng 10-20g chùa dù đã phơi khô, hãm hoặc sắc để uống. Bài thuốc này còn được tăng cường hiệu quả khi kết hợp với Kim Ngân Hoa và lá tre, lượng dùng cho mỗi loại nguyên liệu tương đương nhau.
Trong trường hợp điều trị viêm thận, chùa dù phơi khô được nghiền thành bột mịn. Bột này sau đó được pha với nước sôi để nguội và uống hàng ngày. Mỗi lần sử dụng từ 3-6g, chia làm hai lần mỗi ngày, trong suốt 4 tuần.
Tài liệu tham khảo
- Đỗ Huy Bích (2006), Chùa dù, Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tập 1, trang 453.
- Đỗ Tất Lợi (2006), Chùa dù, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội, trang 756.
- Phạm Hoàng Hộ (1999), Chùa dù, Cây cỏ Việt Nam, NXB Trẻ, Hà Nội, tập 2, trang 860.
Xuất xứ: Hàn Quốc
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam
Xuất xứ: Việt Nam