Canh Châu (Kim Châu/Chanh Châu)
Danh pháp
Tên khoa học
Sageretia theezans (L.) Brongn. (Họ Táo ta – Rhamnaceae)
Sageretia thea M. C. Johnston
Rhamnus theezans L.
Tên khác
Chanh châu, trân châu, kim châu, xích chu đằng, tước mai đằng
Nguồn gốc
Canh châu là cây gì? Sageretia, một chi thực vật đặc trưng bởi các loại cây bụi, có thể vừa là thường xanh vừa là cây rụng lá vào mùa đông, khoe sắc khắp các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Tại Việt Nam, chi này đánh dấu sự hiện diện của mình qua 3 hoặc 4 loài, nổi bật nhất là canh châu, một loài được tìm thấy rộng rãi từ những tỉnh trung du, qua đồng bằng cho tới vùng núi, với sự phân bố dày đặc nhất tại Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Tây, và Hòa Bình. Tuy nhiên, loài này lại hiếm gặp hơn ở phía Nam. Canh châu thích ổn định ở những nơi không quá 1000m so với mực nước biển.
Canh châu có ở đâu? Canh châu, với bản chất là một loại cây bụi gai yêu thích ánh sáng và độ ẩm, thường xuyên xuất hiện mọc xen kẽ trong những lùm cây ven đồi, bờ ruộng hay quanh những con đường làng, thậm chí là bên bờ ao hay dọc theo các kênh mương. Đặc biệt, cây này tỏ ra vô cùng mạnh mẽ ở vùng đồi nhờ vào hệ thống rễ phát triển mạnh mẽ, giúp nó có khả năng chống chịu hạn hiệu quả. Dù canh châu có khả năng ra hoa dồi dào, số lượng quả mà nó đậu lại ít ỏi. Thêm vào đó, cây này còn có khả năng tái sinh mạnh mẽ, có thể mọc trở lại từ chồi sau khi bị chặt.
Đặc điểm thực vật
Canh châu trưng diện với vóc dáng nhỏ nhắn, dưới hình thức cây bụi nhiều cành, nơi mà sự mềm mại của cành non khoe màu xám nhạt dưới lớp lông tơ mỏng, trong khi cành già có bề mặt nhẵn, màu xám nâu, điểm xuyết bởi những chiếc gai từ cành nhỏ hóa thân.
Lá canh châu, đan xen không theo quy tắc, mang hình dáng bầu dục hoặc giống hình lá xoan, với chiều dài từ 2 đến 10 cm và chiều rộng từ 0,8 đến 5 cm. Gốc lá tròn, đỉnh lá tù nhưng nhọn ở phần cuối, viền lá được trang trí bằng những chiếc răng cưa tinh tế, mặt trên có màu đậm và mặt dưới nhạt hơn với các gân lá nổi bật; cuống lá ngắn, có rãnh nhẹ và lá kèm dạng sợi, dễ tách rời.
Hoa canh châu xuất hiện thành từng chùm ở đỉnh cành hoặc giữa các kẽ lá, mỗi bông thường gồm từ 1 đến 4 bông hoa màu trắng, được bao bọc bởi lá bắc tam giác lông lá, cố định trên một đài hình chén với 5 răng lông mảnh ở phía ngoài, và tràng hoa gồm 5 cánh, ngắn hơn lá đài một chút; cùng với 5 nhị dài ngang bằng cánh hoa và một bầu hoa chia thành 3 phần.
Quả canh châu bé nhỏ, tròn và chắc nịch, mang màu đen hoặc tím nhạt, vẫn giữ nguyên đài hoa ở đỉnh, bên trong chứa từ 1 đến 3 hạt màu xám nhạt, bóng loáng. Toàn bộ cây được phủ một lớp lông mịn màng. Thời gian canh châu khoe sắc và trái chín rơi vào khoảng từ tháng 10 đến tháng 1.
Bộ phận dùng – Thu hái – Chế biến
Phần sử dụng của canh châu bao gồm cành, lá, và rễ, có thể được thu thập vào bất kỳ thời điểm nào trong năm và sau đó phơi hoặc sấy khô để bảo quản.
Thành phần hóa học
Canh châu là một kho tàng của các hợp chất phong phú bao gồm friedelin, axit syringic, beta-sitosterol, daucosterol, axit glucosyringic, và taraxasterol, tạo nên bản sắc đặc trưng của nó trong thế giới thực vật.
Tác dụng dược lý
Đang cập nhật
Tính vị – Quy kinh
Canh châu có vị đắng, hơi chua và có tính mát.
Công năng – Chủ trị
Canh châu có tác dụng gì? Canh châu mang trong mình những đặc tính quý giá như làm mát và lưu thông máu, thanh lọc cơ thể và đẩy lùi độc tố.
Canh châu chữa bệnh gì? Từ xa xưa, canh châu đã được tôn vinh trong y học cổ truyền Việt Nam với nhiều ứng dụng chữa bệnh. Tuệ Tĩnh đã biết đến loại cây này dưới cái tên xích chu đằng, sử dụng nó như một phương tiện để điều trị các vết thương. Hải Thượng Lãn Ông lại khám phá ra công dụng của cây canh châu chữa thủy đậu, giảm sưng, trị mẩn ngứa, phát ban, sởi, giải quyết tình trạng tắc tia sữa, chữa trị lở loét, vết thương, trật khớp, bong gân và mụn nhọt, với liều lượng sử dụng khoảng 10-20g sắc uống hàng ngày. Ngoài ra, việc sử dụng lá tươi nấu nước tắm hoặc giã nát để đắp lên vùng da bị tổn thương cũng mang lại hiệu quả đáng kể.
Không chỉ có vậy, quả của canh châu còn có thể ăn được, với vị chua nhẹ pha chút ngọt, trong khi lá của nó có thể dùng độc lập hoặc kết hợp với lá vối để nấu thành nước uống thay thế cho trà, giúp giải khát và phòng ngừa bệnh sởi.
Kiêng kỵ
Cần lưu ý rằng canh châu không phù hợp với những người mắc bệnh tỳ vị hư hàn hoặc có vấn đề về đường tiêu hóa như tiêu chảy.
Bảo quản
Để dược liệu trong bình thủy tinh hoặc hộp kim loại có nắp đậy kín để bảo vệ chống lại ánh sáng và độ ẩm. Bảo quản canh châu ở nơi khô ráo, mát mẻ và tránh ánh sáng trực tiếp.
Một số bài thuốc
Bài thuốc chữa sưng mặt hoặc cơ thể, phát ban, sởi, sốt, ho hoặc khát nước ở trẻ em
Một hỗn hợp gồm 20g cành và lá canh châu, 18g tầm gửi của cây khế, 12g sắn dây, 8g cam thảo dây, 8g hương nhu và 8g hoắc hương được sắc lấy nước và chia đều để uống trong hai lần mỗi ngày.
Bài thuốc chữa sởi
30g rễ canh châu, sau khi đã được thái mỏng, sắc lấy nước và chia thành ba phần uống trong ngày.
Bài thuốc chữa lở loét và mụn nhọt
Phối hợp 24g canh châu với 20g hạ khô thảo, 20g bồ công anh, 20g rễ cỏ xước và 10g lá đơn đỏ, sắc lấy nước uống và chia làm hai lần trong ngày.
Bài thuốc chữa vết thương không lành
Lấy lá canh châu và lá thồm lồm với lượng bằng nhau, thêm vào một nụ đinh hương, tất cả được giã nhỏ và đắp lên vết thương.
Tài liệu tham khảo
- Đỗ Huy Bích (2006), Canh châu, Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tập 1, trang 339.
- Đỗ Tất Lợi (2006), Canh châu, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội, trang 670.
- Phạm Hoàng Hộ (1999), Canh châu, Cây cỏ Việt Nam, NXB Trẻ, Hà Nội, tập 2, trang 450.
Xuất xứ: Việt Nam