Bát Giác Liên (Độc Diệp Nhất Chi Hoa)
Danh pháp
Tên khoa học
Podophyllum tonkinense Gagnep hoặc Dysosma tonkinense (Gagnep.) M.Hiroe. ( Họ Hoàng mộc – Berberidaceae).
Tên khác
Độc diệp nhất chi hoa, độc cước liên, pha mỏ
Nguồn gốc
Bát giác liên là cây gì? Podophyllum L. là một chi cây nhỏ thuộc họ Berberidaceae. Một số tác giả đã đề xuất tách chi này thành một họ riêng và đặt tên là Podophyllum. Ở Việt Nam, chi này chỉ ghi nhận một loài duy nhất là bát giác liên. Bát giác liên có phân bố ở Trung Quốc và Việt Nam, đặc biệt là ở những vùng núi cao và rừng ẩm. Cây này thường xuất hiện ở các tỉnh như Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, và Lai Châu tại Việt Nam.
Bát giác liên mọc ở đâu? Bát giác liên là loại cây ưa ẩm và ưa sáng. Cây mọc rất rải rác ở tán rừng, bên khe suối, hốc đá. Độ cao phân bố 1000 – 1300m. Phần trên mặt đất lụi hằng năm vào mùa khô. Vào tháng 3, từ phần thân sẽ mọc ra được 1-3 chồi, đó là những thân già mang lá sau 30-45 ngày, khi lá đạt được độ trưởng thành, cây bắt đầu ra hoa. Tuy nhiên, trên thực tế nụ hoa đã được hình thành và phát triển gần như cùng một lúc với lá. Cây tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt. Thân rễ cũng có khả năng phân nhánh sau mỗi năm. Phần trên mặt đất tàn lụi, đồng thời tạo thành một “đốt củ” ở thân rễ. Căn cứ vào số đốt củ trên trục chính thân rễ có thể ước tính được tuổi của cây.
Bát giác liên, một loại cây thuốc quý hiếm tại Việt Nam, hiện đang đối diện với tình trạng cực kỳ hiếm có và đòi hỏi ưu tiên cao trong nghiên cứu và bảo tồn. Mặc dù cây này mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe, nhưng do khả năng tái sinh kém và việc khai thác quá mức, bát giác liên ngày càng trở nên quý hiếm.
Đặc điểm thực vật
Đây là loại cỏ nhỏ, có tuổi thọ lâu nhờ thân rễ. Chiều cao của nó dao động từ 30-50cm. Rễ phát triển thành củ mẫm, có màu trắng và chứa đựng nhiều tinh bột. Một đặc điểm độc đáo là trên mặt đất, cây chỉ có một thân một lá, và hiếm khi có hai lá trên một thân. Lá Bát giác liên hình 4 đến 9 cạnh nhưng phổ biến là 6 đến 8 cạnh, đường kính 12-25cm, mép lá có răng cưa nhỏ, có vân khi còn non.
Mỗi cây thường mang từ 4-12 hoa trên một cuống ngắn dài 3-4cm, có 5 lá đài, 5 tràng màu đỏ, và 6 nhị. Quả Bát giác liên mọng mạch chính có 6-8 hoặc 9 tùy thuộc vào số góc của phiến lá, cuống lá dài từ 13-18cm. Hoa Bát giác liên mọc đơn độc, hình trứng, có đường kính khoảng 12mm, màu đen và chứa nhiều hạt.
Mùa hoa quả của cây diễn ra từ tháng 3 đến tháng 5.
Bộ phận dùng – Thu hái – Chế biến
Rễ và thân bát giác liên được thu hái vào mùa thu, đông, lá được hái vào mùa xuân, trước khi cây ra hoa, dùng tươi hay phơi khô để dùng dần. Người ta thường thu hái củ vào mùa thu đông, rửa sạch đất cát, dùng tươi hoặc đem phơi/ sấy khô.
Bát giác liên thường gặp vấn đề về tỷ lệ đậu quả thấp cả trong tự nhiên và khi trồng trọt, làm cho việc sử dụng hạt để nhân giống trở nên khó khăn. Tuy nhiên, với khả năng nhân giống thông qua thân rễ, bát giác liên vẫn có cơ hội để được bảo tồn và nghiên cứu. Điều này làm cho loài cây này được liệt vào Sách Đỏ Việt Nam với mức độ phân hạng “nguy cấp”, đồng nghĩa với việc cần có những nỗ lực đặc biệt để bảo tồn và nghiên cứu nhân giống của nó.
Thành phần hoá học
Thân rễ bát giác liên chứa nhựa 2-4%, trong đó có chủ yếu là podophyllotoxin C22H22O8 0,4 -0,8%, picropodophylotoxin. Ngoài ra còn có desoxypodophyllin C22H22O7, astragalin, hyperin, quexetin, kaempferitrin C27H30O14 và p sitosterol.
Tác dụng dược lý
Bát giác liên có tác dụng gì? Chiết tách từ bát giác liên sản xuất một phần kết tinh, có khả năng kích thích tim của ếch cô lập và làm ngừng đập tim trong thời kỳ tâm thu. Nó cũng có tác dụng làm giãn mạch máu tai thỏ, đồng thời gây co bóp nhẹ trên mạch máu chi sau của ếch và mạch máu thận của thỏ. Tuy nhiên, nó có thành phần nhựa có khả năng gây nôn, tiêu chảy và dẫn đến tử vong khi thử nghiệm trên mèo.
Chất podophyllotoxin, một thành phần của bát giác liên, đã được thử nghiệm trên chuột nhắt trắng và chuột cống trắng, cho thấy khả năng ức chế tế bào ung thư bạch cầu cấp tính, tế bào adenocareinoma và inelanoma trong nhiều mô hình gây ung thư thực nghiệm. Ngoài ra, chất này cũng có tác dụng ức chế tế bào ung thư người KB.
Các hoạt chất quercetin và kaempferol trong bát giác liên có tác dụng giảm ho và hỗ trợ lợi đờm trong trường hợp viêm phế quản mạn tính.
Tính vị – Quy kinh
Bát giác liên có vị đắng, cay và có tính bình.
Công năng – Chủ trị
Bát giác liên chữa bệnh gì? Cây này được biết đến với tác dụng thanh nhiệt, giải độc, hóa đờm, tán kết và tiêu thũng.
Rễ khô và thân rễ của bát giác liên đã được ứng dụng trong y học dân gian để điều trị các trường hợp cắn của rắn độc, loét và thậm chí là ung thư. Trong y học cổ truyền, bát giác liên được sử dụng để chữa trị các vấn đề như ho, hen, lao, nôn máu, viêm họng, đau dạ dày, mụn nhọt, và áp xe. Ngoài ra, cây tươi có thể được giã nát và đắp trực tiếp lên vùng bị tổn thương, hoặc rễ mài nhuyễn để lấy nước nôi sử dụng.
Liều dùng
Liều lượng và cách sử dụng của bát giác liên phụ thuộc vào mục đích sử dụng cụ thể. Trong trường hợp sử dụng ngoài, không có thông tin cụ thể về liều lượng.
Nếu dùng để chữa lao thương, ho, nôn ra máu,…nên dùng 3 – 9g bát giác liên, sắc uống trong ngày. Tuyệt đối không đưa phụ nữ có mang dùng bát giác liên.
Bảo quản
Để bảo quản, nên chọn những nơi khô ráo và thoáng mát, tránh tiếp xúc với nhiệt độ quá cao.
Một số bài thuốc
Để chữa tràng nhạc
rễ của cây bát giác liên được nghiền thành bột và kết hợp với giấm, sau đó được đắp lên vùng hạch sưng và đau. Hoặc có thể sử dụng thân rễ, lấy 30g để sắc nước uống và còn lại bã được đắp trực tiếp lên vị trí bị sưng đau.
Chữa ung thư vú
Chuẩn bị 15g bát giác liên, 15g hoàng đỗ quyên, và 30g tử bối thiên quỳ, ngâm trong 500ml rượu trắng trong 7 ngày. Mỗi lần uống khoảng 10-15ml, và thực hiện 2-3 lần mỗi ngày.
Chữa rắn cắn:
Dùng 6-12g thân rễ bát giác liên giã nát, lấy nước uống, bã đắp
Tài liệu tham khảo
- Đỗ Huy Bích (2006), Bát Giác Liên , Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tập 1, trang 178.
- Đỗ Tấn Lợi (2006), Bát Giác Liên, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội, trang 544.