Phương pháp điều trị tạo hình cho vùng lông mày

Xuất bản: UTC +7

Cập nhật lần cuối: UTC +7

Điều trị tạo hình cho vùng lông mày

Tác giả: Val Lambros

Biên dịch: Bác sĩ Phạm Thị Lan Ninh

nhathuocngocanh.com – Để tải file PDF của bài viết Điều trị tạo hình cho vùng lông mày, xin vui lòng click vào link ở đây.

Tóm tắt và ý chính

  • Xương ổ mắt thường rộng, tròn và mắt trũng thường liên quan tới lão hóa.
  • Ổ mắt ở người trẻ có hình hạnh nhân, gờ xương không rõ, và có sự đầy đặn vùng mí mắt trên.
  • Cùng một hình dạng có thể thấy ở mắt trẻ nhưng lại được coi là dấu hiệu lão hóa ở mắt người già.
  • Tư vấn thẩm mỹ vùng mắt là khó. Nhiều bệnh nhân muốn vùng đuôi mắt và lông mày được nâng lên, loại bỏ bớt da chùng, mỡ thừa bởi vì họ được bảo nên làm vậy để trông trẻ hơn. Ngược lại vài bệnh nhân lại thích mắt trũng và có đường nét bởi vì như vậy trông sẽ ấn tượng và dễ trang điểm được cá tính hơn.
  • Tác giả thích cách tiêm thị phạm vào vùng mí trên một lượng thuốc tê tại chỗ để khách hàng có thể thấy được hiệu ứng nâng vùng mí trên và lông mày. Nếu bệnh nhân thích hình dáng đó thì filler sẽ được tiêm ngay mà không lưỡng lự gì. Thuốc tê tại chỗ gây ra hiệu ứng co mạch ở vùng tiêm nên không có cách nào để minh họa tốt hơn cách này.
  • Thực tế tiêm thuốc tê tại chỗ vào mí trên mà tránh tiêm quá nhiều hoặc tiêm quá nông hình thành bọng dịch không dễ thực hiện.
  • Sau tiêm nên mát xa và đợi vài phút để thuốc tê phân tán vào mô trước khi cho bệnh nhân xem.
  • Tiêm gần đủ tốt hơn là tiêm quá nhiều. Cách này không thực hiện với mắt có nhiều da dư do thuốc có thể làm cho vùng da mí mắt lùng nhùng. Nó cũng không phải là phương pháp nâng cung mày mặc dù một vài bệnh nhân được tiêm sẽ thấy hiệu ứng này. Với những bệnh nhân mí mắt nặng và đầy không phải là ứng viên lý tưởng cho phương pháp này.
  • Tác giả thích tiêm HA vào vùng mí trên vì chúng tạo ra nhiều độ nhô khác nhau.
  • Hiệu quả tiêm HA vùng này có thể duy trì ít nhất 2 năm.
  • Người tiêm luôn luôn phải để ý sự hiện diện của nhãn cầu. Ở một số bệnh nhân nhãn cầu nằm rất nông và ngay sát cạnh gờ xương.

Giới thiệu

Da mỏng, chùng và sụt giảm thể tích mô dưới da là đặc trưng lão hóa vùng quanh mắt. Mặc dù không phải tất cả, trừ những người tăng cân nặng vùng mặt, kiểu hình này là mối quan tâm thẩm mỹ của nhiều thế kỷ và thường được xem là đặc trưng tiêu biểu của lão hóa vùng mắt.

Điều trị lão hóa vùng mắt tới nay đa số vẫn là phẫu thuật. “Da chùng thừa” và mỡ thừa vùng quanh mắt được loại bỏ; Đối với nhiều đôi mắt đây vẫn là phương pháp được chứng minh giúp đạt được sự hài lòng cao nhất. Tuy nhiên một số bệnh nhân có da thừa là thứ phát sau sụt giảm thể tích mô dưới da vùng mí trên và lông mày, nếu loại bỏ thêm mô và da thừa thì sẽ gây ra hiệu ứng kép làm ổ mắt trông sắc nét hơn nhưng lại tròn và nông hơn. Ưu điểm vượt trội của đôi mắt như vậy là giúp cho mắt trông to hơn và ấn tượng hơn khi nhìn nghiêng cũng như khi trang điểm sẽ ấn tượng hơn. Đó cũng là quan niệm trẻ hóa mí mắt trên truyền thống. Mặc dù vậy, cũng có những đôi mắt lão hóa, ở một số người thì vẻ ngoài của đôi mắt là già, nhỏ hơn và trông mệt mỏi hơn. Thì với công cụ bù thể tích tiên tiến ở vùng mặt như hiện nay, các chỉ định dần dần được ứng dụng nhiều vùng hơn, cả bệnh nhân và bác sĩ đều nên biết trước khi đưa ra quyết định điều trị lão hóa vùng quanh mắt.

Những quan sát này không có gì mới, chất làm đầy thực tế đã được sử dụng rất sớm từ những năm 1890, ngay trước cả các phẫu thuật căng da mặt. Không may là, đa số các chất làm đầy khi đó là paraffin và dầu khoáng(vaseline); Tỷ lệ biến chứng cao, do đó những điều trị này trở nên bị gét bỏ như đã được mô tả bởi Kolle và Goldwyn.

Xem trước từng vùng

Bệnh nhân đi làm thẩm mỹ thường sẽ có định kiến từ trước là họ sẽ làm gì thì trông sẽ đẹp hơn. Nếu bệnh nhân muốn tiêm chất làm đầy hay cắt bỏ bớt da chùng, mỡ thừa thì những kết quả sau làm nên trao đổi và tư vấn trước cho bệnh nhân. Thực tế chúng ta không có từ nào hay cách nào mô tả chính xác hiệu quả thẩm mỹ khi nâng cung mày và mí trên thì sẽ làm bệnh nhân trông đẹp hơn; Đây hoàn toàn là khái niệm về thị giác. Nó tương tự như khi ta mô tả một chiếc váy và giả định rằng bệnh nhân sẽ thích nó khi mặc vào.

Điều mà đã được chứng minh cực kì hiệu quả đó là “xem trước từng vùng”, như tôi đã từng mô tả trước đây (2019); 1cc hoặc 1/2cc lidocain với epinephrine được tiêm vào cung mày với mục đích tạo ra hiệu ứng làm đầy vùng điều trị cũng như tạo ra hiệu ứng co mạch và gây tê vùng tiêm (Hình 17.1). Dùng đá cục gây tê mũi tiêm đầu tiên thì bệnh nhân hầu như là không đau. Những người tiêm chưa có kinh nghiệm thường đâm kim nông và tạo bọng dịch gây mất thẩm mỹ. Như vậy sẽ không minh họa tốt được cho bệnh nhân chấp nhận. Mặt phẳng tiêm đúng là quanh cơ vòng mắt hoặc sâu hơn, và bơm tiêm cần được rút nòng kiểm tra trước tiêm để tạo một vệt thuốc hoặc một mặt phẳng chứa thuốc tê tại chỗ.

Hình 17.1 Tư vấn hiệu ứng làm đầy vùng quanh mắt. Một cách quý giá là tiêm thuốc tê tại chỗ vào vùng này, tạo hiệu ứng làm đầy thể tích, tê và co mạch cùng lúc. Bệnh nhân sẽ chấp nhận được hoặc không chấp nhận trước khi ta tiêm chất làm đầy thật vào vùng này. Thường sẽ tiêm nhiều thuốc tê hơn thể tích filler dự định tiêm từ 0.5-1cc mỗi bên. Kết quả cuối cùng lâu dài sẽ được nhìn thấy khi kết thúc thủ thuật và kết quả sẽ duy trì được trung bình là từ 2-3 năm. A, Trước và B, sau tiêm Hình 17.1 Tư vấn hiệu ứng làm đầy vùng quanh mắt. Một cách quý giá là tiêm thuốc tê tại chỗ vào vùng này, tạo hiệu ứng làm đầy thể tích, tê và co mạch cùng lúc. Bệnh nhân sẽ chấp nhận được hoặc không chấp nhận trước khi ta tiêm chất làm đầy thật vào vùng này. Thường sẽ tiêm nhiều thuốc tê hơn thể tích filler dự định tiêm từ 0.5-1cc mỗi bên. Kết quả cuối cùng lâu dài sẽ được nhìn thấy khi kết thúc thủ thuật và kết quả sẽ duy trì được trung bình là từ 2-3 năm. A, Trước và B, sau tiêm

Khi tiêm chúng ta nên tư vấn cho bệnh nhân là kết quả sau tiêm thị phạm sẽ được khoảng 80% so với kết quả cuối cùng. Với đa số người nếu đúng chỉ định thì sau tiêm mắt sẽ trông như khi ta thực hiện “mở to mắt nhướn lông mày lên”.

Kinh nghiệm 1:

Có một số lượng lớn bệnh nhân có đôi mắt lo lắng với lông mày ngang. Những bệnh nhân này không phát triển tốt rãnh giữa mí trên, hoặc không có. Phục hồi nếp nhăn này làm cho mắt trông bình thường hơn nhiều và ít lo lắng hơn

Kinh nghiệm 2:

Có những bệnh nhân có phần da mí trên thừa ít có thể cải thiện bằng cách tiêm bù vào phần giữa lông mày tới gờ xương ổ mắt.

Kinh nghiệm 3:

Một số đôi mắt có bờ trước gờ xương ổ mắt đổ ra trước, che đi rãnh mí trên và làm cho mắt trông bụp hơn.

Kỹ thuật tiêm

Vào thời điểm viết, các sản phẩm hyaluronic acis, các sản phẩm nguồn gốc calcium và poly-L-lactic đã phổ biến trong thực hành lâm sàng. Riêng chỉ có HA là tôi sử dụng ngoài phòng mổ, nơi mà tôi không thể thực hiện cấy mỡ tự thân. Bởi vì chúng dễ tiêm và có thể dễ dàng tiêm tan với hyaluronidase khi cần. Thời gian tồn tại của HA ở vùng lông mày và rãnh lệ đạt tới 2-3 năm, bằng hoặc lâu hơn các thành phần khác. Và với kinh nghiệm của tác giả thì dùng sản phẩm HA ở vùng quanh mắt là lựa chọn tối ưu nhất.

Kinh nghiệm 4:

Tác giả không thích sử dụng các sản phẩm làm đầy không phải HA ở vùng này. Thời gian tồn tại của sản phẩm khác ở vùng này thường được phóng đại quá mức và khó đảo ngược. Tác giả thường trả lời các câu hỏi của bệnh nhân về thời gian tồn tại của filler HA ở vùng này khoảng 2 năm nhưng thực tế quan sát có người tồn tại được lên đến 4 năm ở vùng quanh mắt.

Đây không phải là vùng tiêm cho người mới tập tiêm. Nếu các bác sĩ thường tiêm môi và rãnh cười theo cách là tiêm bolus và mát xa, thì với cách đó ở vùng quanh mắt sẽ đem lại sự không hài lòng cũng như biến chứng, vài người còn gọi với cái tên mỹ miều “thảm họa tiềm ẩn”. Mặc dù nó không khó đối với tay tiêm có kinh nghiệm, tuy vậy kỹ thuật tiêm ở vùng mí trên vẫn là quan trọng nhất. Mục tiêu là tạo dáng mí hợp nhãn ngang cung mày chứ không đơn thuần chỉ là tiêm đầy chỗ hõm. Độ sâu tiêm ngang mức cơ vòng mắt. Có rất nhiều mạch máu lớn bất động ở vùng quanh mắt mà người tiêm cần tránh. Tiêm vào nếp mí trên có thể gây sụp mí như Coleman đã mô tả. Giữ mặt phẳng tiêm nông và giữ đầu kim tránh xa nhãn cầu như đã đề cập ở trên.

Tôi bắt đầu tiêm vào điểm “xem trước từng vùng” đã thảo luận với bệnh nhân trước đó. Vùng tiêm bây giờ đã có hiện tượng co mạch và tê. Sự hiện diện của thuốc tê ở vùng tiêm không ảnh hưởng đến khả năng phân tán sản phẩm đều đặn vào mô, sau đó thực hiện tiêm từng chút, nhìn bằng mắt và cảm nhận bằng tay. Mặc dù tôi không thể chứng minh được, nhưng tôi cảm thấy HA phân tán đều hơn ở môi trường rất ẩm ướt.

Như đã minh họa ở hình 17.2, kỹ thuật tôi ưa thích nhất là tiêm từ bên vào theo kỹ thuật fanning với 3 vecto:Trên, giữa, dưới bằng kim 30G 6mm. Quá trình tiêm tương tự toàn bộ cung mày. Mỗi mũi tiêm rải một lượng ít sản phẩm. Nếu ngón cái đẩy thuốc không chắc tay thì dễ bị tiêm quá nhiều. Những kim nhỏ như kim 30G 6mm giúp ngăn ngừa hiện tượng tiêm quá nhiều HA. Dùng tay sờ là cách tốt nhất để cảm nhận xem rải HA có đều không. Thông thường không nên tiêm thấp hơn gờ xương ổ mắt ở bên và ở trung tâm, trừ khi người tiêm rất tự tin về kết quả nếu không sẽ dễ để lại hậu quả còn tệ hơn. Khi tiêm ở trung gian thì mũi kim có thể đi xuống thấp hơn gờ xương một chút. Thể tích tiêm trung bình 0.5ml mỗi bên. Vì lý do kinh tế nên lượng này là thích hợp, cũng như khuôn mặt sẽ có thể có biểu cảm tốt hơn với chỉ một lượng filler nhỏ vùng này.

Không nên tiêm quá nhiều, nhiều hơn không tốt hơn. Bệnh nhân nên chườm đá trong ngày. Đôi khi có thể bị bầm tím. Các biến chứng tiêm thường ít và chủ yếu là bề mặt lồi lõm không đều thì có thể giải quyết bằng tiêm tan hoặc tiêm dặm thêm.

Hình 17.2 K ỹ thuật tôi ưa thích nhất là tiêm từ bên ngoài vào theo kỹ thuật fanning với 3 vecto:Trên, giữa, dưới bằng kim 30G 6mm. Quá trình tiêm tương tự toàn bộ cung mày. Sự hiện diện của thuốc tê tại chỗ không ảnh hưởng tới khả năng ước lượng kết quả cuối cùng của người tiêm. Hình 17.2 K ỹ thuật tôi ưa thích nhất là tiêm từ bên ngoài vào theo kỹ thuật fanning với 3 vecto:Trên, giữa, dưới bằng kim 30G 6mm. Quá
trình tiêm tương tự toàn bộ cung mày. Sự hiện diện của thuốc tê tại chỗ không ảnh hưởng tới khả năng ước lượng kết quả cuối cùng của người tiêm.

Kinh nghiệm 5:

Tác giả thích những đường tiêm ngang cung lông mày, sâu ở mức cơ vòng mắt và nông hơn gờ xương ổ mắt. 3 véc tơ tiêm trên, giữa, dưới là đủ để làm đầy cung mày và dàn đều chất làm đầy.

Kinh nghiệm 6:

0.5ml mỗi bên là đã đủ để tạo ra một kết quả mỹ mãn thuyết phục mà lại nhẹ nhàng không quá nặng nề cho đôi mắt. Bệnh nhân có thể trông rất kỳ cục nếu tiêm quá nhiều vào vùng này.

Nhìn chung, kết quả ngay sau tiêm là kết quả cuối cùng.

Tiêm vào nội mạch

Đa số lần tiêm là vô hại và ít rủi ro. Dẫu vậy nguy cơ đâm kim vào nội mạch là vẫn có dù nó ít phổ biến. Nguy cơ này xảy ra khi kim đâm trúng giữa lòng mạch và một lượng filler áp lực đủ lớn để trào ngược lên động mạch, khi đó nguy cơ mù mắt sau tiêm quanh mắt hoặc nghẽn mạch tận ví dụ như hoại tử môi và đầu mũi sau tiêm rãnh mũi má đã được Colemann mô tả.

Tới nay vẫn còn nhiều tranh cãi quanh việc có nên tiêm bolus hay không. Chúng tôi ưu tiên tiêm dạng đường, luôn giữ đầu kim di chuyển với áp lực tiêm thấp và co mạch. Chúng tôi tin rằng biến chứng này hoàn toàn là do kỹ thuật tiêm và có thể phòng tránh được.

Có vài kiểu ổ mắt rất phẳng và nằm nông mà không có rãnh trên mí mắt. trường hợp này nhãn cầu nằm ngay sát dưới gờ xương ổ mắt, và như vậy vẫn tồn tại nguy cơ đâm kim nào nội nhãn cầu. Chúng tôi chưa từng gặp biến chứng này, nhưng hoàn toàn dễ dàng quan sát được nó sẽ xảy ra như thế nào. Người tiêm cần cân nhắc vị trí của đầu kim và nhãn cầu. Giữ đầu kim tránh xa gờ xương ổ mắt cũng sẽ giúp tránh xa nhãn cầu. Chúng tôi không chắc chắn về việc tiêm kim canula vùng này. Do chúng đầu tù nhưng lại dài và dễ lung lay, dễ luồn lách trong lớp dưới da và chọc vào các vị trí không mong muốn.

Lựa chọn bệnh nhân tiêm cung mày

Không như tiêm môi và rãnh cười, chúng ta không thể sử dụng công thức hay lý thuyết để chỉnh sửa vùng này. Mặc dù có kiểu lông mày sẽ đầy đặn khi còn trẻ, nhưng khi làm đầy lên lại trông tệ hơn. Có những dáng lông mày sẽ phù hợp với tiêm bù thể tích nhưng có những dáng lông mày khi tiêm vào sẽ làm tình trạng thẩm mỹ tệ hơn.

Nhìn chung với mí mắt của người châu Á, tiêm làm đầy với mí mắt đầy sẽ không cho kết quả thẩm mỹ tốt. Với mí mắt rất hõm thì tiêm làm đầy cũng chỉ cải thiện một phần. Như Mancini và cộng sự đã đề cập trước đây, vẫn còn mối quan ngại về việc tiêm trực tiếp vào nếp mí có thể gây ra tình trạng sụp mí do sản phẩm tiêm chiếm chỗ.

Mí mắt trũng đều (Hình 17.3 tới hình 17.5) và mí mắt với đỉnh của rãnh dưới ổ mắt nằm ở trung tâm rãnh là những bệnh nhân tốt nhất để lựa chọn tiêm mắt. Trong nhóm thứ hai, điều thú vị ở chỗ đỉnh của rãnh dưới ổ mắt nằm phía trung tâm sẽ tạo ra vẻ ngoài lo lắng và mệt mỏi cho bệnh nhân. Chỉ cần một lượng rất nhỏ filler vào vùng này sẽ giúp thay đổi hình ảnh biểu cảm của khuôn mặt (Hình 17.6). Mặc dù thực tế cung mày chỉ được nâng lên từ 1-2mm sau tiêm.

Kinh nghiệm 7:

Đây không phải là kỹ thuật có thể áp dụng được cho mọi đôi mắt. Người tiêm có kinh nghiệm sẽ biết lựa chọn đôi mắt để tiêm cho hiệu quả thẩm mỹ cao nhất.

Figure 17.3 Một bệnh nhân 56 tuổi được tiêm 0,5m Restylane từ năm 2009 vào mỗi bên lông mày. Bệnh nhân quay trở lại vào phòng khám năm 2016 và cho biết cô ấy đã không tiêm gì thêm vào lông mày mặc dù cô ấy có tiêm môi. Đây là trường hợp mà HA tồn tại được lâu nhất ở vùng lông mày và quanh mắt mà tôi quan sát được. Tương tự như vùng thái dương và rãnh lệ, thường tồn tại được 2 năm và 4 năm cũng thường gặp, nhưng tới 7 năm thì là điều đáng ghi nhận, Có thể sờ thấy filler hoặc nhìn thấy. Có thể thấy vẻ ngoài trông mệt mỏi và lo lắng đã biến mất. (Photo courtesy of V. Lambros MD.) Figure 17.3 Một bệnh nhân 56 tuổi được tiêm 0,5m Restylane từ năm 2009 vào mỗi bên lông mày. Bệnh nhân quay trở lại vào phòng khám năm 2016 và cho biết cô ấy đã không tiêm gì thêm vào lông mày mặc dù cô ấy có tiêm môi. Đây là trường hợp mà HA tồn tại được lâu nhất ở vùng lông mày và quanh mắt mà tôi quan sát được. Tương tự như vùng thái dương và rãnh lệ, thường tồn tại được 2 năm và 4 năm cũng thường gặp, nhưng tới 7 năm thì là điều đáng ghi nhận, Có thể sờ thấy filler hoặc nhìn thấy. Có thể thấy vẻ ngoài trông mệt mỏi và lo lắng đã biến mất. (Photo courtesy of V. Lambros MD.) Hình 17.4 A, Một bệnh nhân 58 tuổi với hốc mắt hõm và nông. B, 3 năm sau khi tiêm 1ml mỗi bên, Vùng thái dương cũng được tiêm làm đầy 6 tháng trước Hình 17.4 A, Một bệnh nhân 58 tuổi với hốc mắt hõm và nông. B, 3 năm sau khi tiêm 1ml mỗi bên, Vùng thái dương cũng được tiêm làm đầy 6 tháng trước Hình 17.5 A, Một bệnh nhân 68 tuổi với hốc mắt hõm B, 3 năm sau khi được tiêm 1ml HA vào mỗi bên mắt. Hình 17.5 A, Một bệnh nhân 68 tuổi với hốc mắt hõm B, 3 năm sau khi được tiêm 1ml HA vào mỗi bên mắt. Hình 17.6 A, Một bệnh nhân 54 tuổi với đôi mắt rất trũng và đầy lo âu, B, seen here 3 years after 1 mL HA filler per side and 10 monthsafter a fill of her temples 2 mL per side with diluted HA fillers.Cũng bệnh nhân này 3 năm sau tiêm 1ml HA vào mỗi bên cung mày và 10 tháng sau khi tiêm 2ml HA vào mỗi bên Thái dương. Hình 17.6 A, Một bệnh nhân 54 tuổi với đôi mắt rất trũng và đầy lo âu, B, seen here 3 years after 1 mL HA filler per side and 10 monthsafter a fill of her temples 2 mL per side with diluted HA fillers.Cũng bệnh nhân này 3 năm sau tiêm 1ml HA vào mỗi bên cung mày và 10 tháng sau khi tiêm 2ml HA vào mỗi bên Thái dương.

Nhưng hiệu quả thẩm mỹ nó mang lại là cải thiện ngoạn mục bởi cả hiệu ứng khối ánh sáng mà khối filler mang lại cũng như dáng vẻ tròn đầy của cung mày. Trong bất cứ tình huống nào cũng nên nhớ rằng nếu cố gắng nâng cung mày bằng cách tiêm bù thể tích có thể tạo ra một đôi mắt kém tự nhiên do tiêm quá thể tích. Một điểm đáng lưu ý khi tiêm là không cần thiết phải tiêm đầy hẳn; tốt hơn hết là tiêm một lượng filler đủ để cải thiện vùng quanh mắt và nếu một người mà không có khái niệm cơ bản như thế nào để khuôn mặt trông đẹp hơn thì với chỉ định tiêm vùng mắt sẽ khó đạt đến được độ hài lòng..

Further reading

  1. Coleman SR. Hyaluronic acid fillers. Plast Reconstr Surg. 2006;117(2):661–665.
  2. Goldwyn RM. The paraffin story. Plast Reconstr Surg. 1980;65(4):517–524.
  3. Kolle FS. Plastic and Cosmetic Surgery. New York: Appelton; 1911.
  4. Lambros VS. Observations on periorbital and midface aging. Plast Reconstr Surg. 2007;120(5):1367–1376, discussion 1377.
  5. Lambros V. Volumizing the brows with HA fillers. Aesthet Surg J. 2009;29:177–179.
  6. Mancini R, Taban M, Lowinger A, et al. Use of hyaluronic acid gel in the management of paralytic lagophthalmos: the
    hyaluronic acid gel ‘gold weight’. Ophthal Plast Reconstr Surg. 2009;25(1):23–26.
Để lại một bình luận (Quy định duyệt bình luận)

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

The maximum upload file size: 1 MB. You can upload: image. Drop file here