Không tìm thấy sản phẩm nào khớp với lựa chọn của bạn.

Dướng (Chử Đào Thụ/Chử)

Danh pháp

Tên khoa học

Broussonetia papyrifera Vent. (Họ Dâu tằm – Moraceae)

Morus papyrifera L.

Tên khác

Chử, chử đào thụ

Nguồn gốc

Cây dướng là cây gì? Trong sự đa dạng của thế giới thực vật, chi Broussonetia nổi bật với 3 loài đặc hữu, mỗi loài mang trong mình những đặc điểm độc đáo phân tán khắp các khu vực nhiệt đới của châu Á. Tại Việt Nam, sự phong phú này được thể hiện qua sự hiện diện của cả ba loài, trong số đó có hai loài đã được khám phá và ứng dụng trong y học cổ truyền. Đặc biệt, loài dướng (Broussonetia papyrifera)còn lan tỏa qua các quốc gia trong khu vực Đông Dương, bao gồm Thái Lan, Malaysia và cả phía nam của Trung Quốc. Ngay cả Ấn Độ cũng có sự góp mặt của cây dưới dạng nhập khẩu.

Cây dướng có ở đâu? Cây dướng, với sự phân bố đa dạng từ những vùng núi cao chưa tới 1000 mét, qua các khu vực trung du, đồng bằng cho đến các hải đảo, đã trở thành một phần quen thuộc của cảnh quan tự nhiên. Sự ưa thích ánh sáng và khả năng thích nghi với nhiều loại đất đai khác nhau giúp chúng phát triển nhanh chóng. Ở Hà Nội, từ những hạt giống, sau 4-5 năm, cây có thể đạt đến độ cao 5 mét, kèm theo sự xuất hiện của hoa và quả. Quả dướng, với vị ngọt dịu, trở thành nguồn thức ăn yêu thích của các loài chim và động vật gặm nhấm. Qua quá trình này, hạt giống được phát tán rộng rãi, tiếp tục chu kỳ sống của mình.

Từ thời xa xưa, những nền văn minh như Trung Quốc và Nhật Bản đã biết tận dụng vỏ của loài cây này để tạo ra giấy, một phát minh vĩ đại phục vụ cho nhu cầu ghi chép và truyền bá tri thức. Ở Việt Nam, lá non của cây dướng cũng được người dân các vùng Tây Bắc sử dụng làm thức ăn cho lợn và gia súc.

Hình ảnh cây dướng
Hình ảnh cây dướng

Đặc điểm thực vật

Cây dướng, với vóc dáng hùng vĩ cao từ 8 đến 10 mét hoặc cao hơn, là biểu tượng của sức sống mãnh liệt trong giới thực vật. Bề ngoài thân cây được bao phủ bởi lớp vỏ ráp nổi bật, trong khi những cành cây toả rộng khoe sắc lục nhạt của cành non, phủ đầy lông tơ mềm, và sự nhẵn mịn, màu xám của cành già.

Lá dướng mọc so le và mang hình dạng trứng với phần gốc tù hoặc tròn, đỉnh thuôn nhọn, biến thái linh hoạt từ có ba thuỳ ở lá non đến lá già nguyên vẹn hoặc chỉ với những thuỳ nhỏ, kích thước đa dạng từ 6-15cm chiều dài và 5-12cm chiều rộng, mép lá được điểm xuyết bởi những răng nhỏ, cùng với lớp lông ngắn, ráp trên mặt trên và lông mềm, dính ở mặt dưới.

Sự phân biệt giới tính rõ rệt qua từng bông hoa đơn tính, mỗi loại hoa mang đặc điểm riêng: hoa dướng đực có cụm hoa hình bông, dài rực rỡ ở đầu cành, trong khi hoa cái với hình cầu, mọc kín đáo ở cuối cành, mỗi loại đều được bao phủ bởi lớp lông mềm mại.

Quả dướng, một quả phức hình tròn với thịt nạc, khi chín chuyển sang màu đỏ rực rỡ, bên trong ẩn chứa những hạt dẹt, nhăn nheo, là điểm nhấn ấn tượng trong chu kỳ sinh trưởng của cây. Thời gian đậu quả của cây diễn ra từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm.

Đặc điểm thực vật dướng
Đặc điểm thực vật dướng

Bộ phận dùng

Quả và lá.

Bộ phận dùng cây dướng
Bộ phận dùng cây dướng

Thu hái – Chế biến

Quả dướng, còn được biết đến với cái tên chử thực tử, báo hiệu mùa thu hoạch trong những ngày hè rực rỡ khi chúng chín mọng. Để chuẩn bị, quả được rửa sạch và phơi dưới ánh nắng mặt trời cho đến khi khô hẳn.

Không chỉ quả, mà nhựa cây cùng với vỏ rễ và thân cây cũng được thu thập quanh năm, không phụ thuộc vào mùa vụ, phản ánh sự linh hoạt và đa dụng trong việc sử dụng các bộ phận của cây.

Lá dướng, thu hái vào những tháng của mùa hè và mùa thu, có thể được sử dụng ngay trong tình trạng tươi hoặc qua quá trình phơi và sấy khô, tùy theo nhu cầu sử dụng.

Thành phần hóa học

Quả dướng chứa hàm lượng saponin đạt 0.51%, bên cạnh đó là sự hiện diện của acid p-coumaric, vitamin B, và dầu béo. Đặc biệt, hạt dướng chứa một lượng dầu đáng kể lên tới 31.7%, bao gồm cả phần không xà phòng hóa chiếm 2.67%, các acid béo bão hòa lên đến 9%, acid oleic ở mức 15% và linoleic chiếm ưu thế với 76%.

Thêm vào đó, quả dướng còn chứa lignin 4.75%, calci carbonat, acid cerotic, cùng các enzym quan trọng như lipase, protease, và zymase. Vỏ cây dướng cũng phong phú với các hợp chất như isoprenauron: Broussonauron A, và isopren-flavan: Broussoflavan A, cùng các chất acetat butyrospermol, erythrinacinate, kazinol A, B, và brousochaleon A, B.

Từ vỏ rễ, các nghiên cứu đã tiết lộ sự tồn tại của brousoflavonol C, D, E, F và các chất như squalen, octacosan-1-ol, acid lignoceric, acid 4’hydroxy-cis-cinamic, octacosyl ester và (-) marmesin, cùng hỗn hợp của 4’hydroxy trans cinamat. Ngoài ra, quả dướng còn chứa hợp chất đặc biệt 5 [3 – (2,4 dihydroxyphenyl propyl -3-4 bis (3 methyl 2 butenyl) 1, 2 benzenediol.

Tác dụng dược lý

Cây dướng có tác dụng gì? Sử dụng cao chiết từ toàn bộ cây dướng, ngoại trừ phần rễ, với nồng độ cồn 50 độ, đã cho thấy khả năng ấn tượng trong việc giảm huyết áp ở các mô hình động vật thí nghiệm có huyết áp ở mức bình thường.

Tính vị – Quy kinh

Quả dướng có vị ngọt và tính mát, quy vào các kính can, tỳ và thận.

Công năng – Chủ trị

Cây dướng chữa bệnh gì? Quả dướng có tác dụng tăng cường sức khỏe, củng cố gân cốt, nâng cao thị lực, hỗ trợ chức năng thận, và kéo dài tuổi thọ. Lá và vỏ của cây dướng cũng được biết đến với công dụng giảm phù nề và tăng cường khả năng lợi tiểu.

Trong dân gian, quả dướng thường được sử dụng như một liệu pháp bổ trợ cho thận, tăng cường gân cốt, cải thiện thị lực, và điều trị các tình trạng như cảm lạnh, phù thũng, mờ mắt, có thể sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp với phục linh hoặc đại phúc bì. Liều lượng khuyến nghị hàng ngày là từ 8 đến 16g dưới dạng thuốc sắc.

Lá dướng, với liều dùng từ 50 đến 100g, có thể giã nát và vắt lấy nước hoặc sắc lấy nước để uống, được áp dụng như một phương pháp điều trị nhuận tràng cho trẻ em, giảm triệu chứng cảm lạnh thông qua việc xông hơi, hoặc như một loại thuốc lợi tiểu tự nhiên để giảm phù nề.

Vỏ cây dướng, sử dụng ở liều lượng 8-16g, được dùng để sắc lấy nước điều trị lỵ và chảy máu tử cung. Nhựa mủ của cây được đánh giá cao trong việc làm dịu vết thương do rắn cắn, chó cắn, hoặc ong đốt.

Bảo quản

Dược liệu cây dướng nên được bảo quản ở nơi khô ráo và thoáng mát.

Một số bài thuốc

Bài thuốc chữa suy nhược cơ thể, phù chân ở người cao tuổi

Đối với tình trạng suy nhược cơ thể, phù chân ở người cao tuổi, một phối hợp thảo dược bao gồm quả dướng 12g, phục linh và đỗ trọng mỗi loại 10g, câu kỷ tử và bạch truật cũng mỗi loại 10g, ngưu tất 8g, và một lượng nhỏ tiểu hồi hương 3g. Hỗn hợp này được sắc lấy nước uống hàng ngày, mỗi ngày một liều.

Bài thuốc chữa suy giảm sức khỏe, cơ thể gầy yếu, di tinh hoặc đái đục

Để khắc phục tình trạng suy giảm sức khỏe, cơ thể gầy yếu, mệt mỏi, di tinh, hoặc đái đục, một công thức bao gồm quả dướng, ba kích, hoài sơn, ngưu tất, viễn chí, ngũ vị tử, thục địa, đỗ trọng, và xương bồ, mỗi thảo dược 12g, được sắc lấy nước uống hoặc chế thành viên nang.

Bài thuốc chữa lỵ

Đối với điều trị lỵ, sử dụng lá dướng tươi 20g, giã nhỏ và thêm nước để gạn lấy 10ml; rễ cây seo gà 20g, thái nhỏ và sắc với 200ml nước cho đến khi còn 50ml. Trộn cả hai dung dịch lại, uống một lần mỗi ngày, liên tục trong 5 ngày.

Bài thuốc chữa rong kinh

Để giải quyết tình trạng rong kinh, lấy vỏ thân cây dướng phần lớp trắng và kinh giới sao, mỗi loại 12g, sắc lấy nước uống.

Bài thuốc chữa chứng buồn ngủ kéo dài

Đối với chứng buồn ngủ kéo dài, lá dướng một nắm được sắc lấy nước để uống, giúp tăng cường sự tỉnh táo.

Tài liệu tham khảo

  1. Đỗ Huy Bích (2006), Dướng, Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tập 1, trang 712.
  2. Đỗ Tất Lợi (2006), Dướng, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội, trang 658.
  3. Phạm Hoàng Hộ (1999), Dướng, Cây cỏ Việt Nam, NXB Trẻ, Hà Nội, tập 2, trang 545.
Không tìm thấy sản phẩm nào khớp với lựa chọn của bạn.