Không tìm thấy sản phẩm nào khớp với lựa chọn của bạn.

Cây Sữa (Mò Cua)

Danh pháp

Tên khoa học

Alstonia scholaris (L.) R. Br. (Họ Trúc đào – Apoсynасеае)

Tên khác

Mùa cua, mò cua

Nguồn gốc

Chi Alstonia bao gồm khoảng 30 loài cây, chủ yếu được tìm thấy trong khu vực nhiệt đới của châu Á. Tại Việt Nam, có tổng cộng 5 loài thuộc chi này, bao gồm cả cây sữa.

Cây sữa là cây gì? Cây sữa (Alstonia scholaris), một loại cây thuộc vùng nhiệt đới, có sự phân bố rộng rãi từ miền nam Trung Quốc, qua khu vực Đông Dương, đến Indonesia và Philippines. Trong đất nước Việt Nam, cây này có thể tìm thấy ở nhiều tỉnh, từ vùng núi thấp dưới 600 mét, khu vực trung du, đến đồng bằng và một số hòn đảo lớn. Đặc biệt, cây sữa yêu thích ánh sáng, khả năng chịu hạn cao và có thể sống sót qua những đợt cháy rừng nhờ vào lớp vỏ dày và khả năng tái tạo dinh dưỡng mạnh mẽ. Thường được tìm thấy ở các khu rừng thứ cấp, trên đất trống hoặc đồi, cây sữa còn được trồng làm cảnh quang đô thị với khả năng tạo bóng mát dọc các con đường. Cây có thể phát triển trên nhiều loại đất, đặc biệt là đất màu mỡ.

Cây sữa cũng nổi bật với khả năng ra hoa và kết quả một cách dồi dào, với mùi hoa sữa thơm thu hút côn trùng, hỗ trợ quá trình thụ phấn. Khi chín, quả của cây sẽ tự chia thành hai phần, mang theo hạt được bao phủ bởi lông tơ giúp chúng phát tán xa nhờ gió. Sau khi bị cắt hoặc chặt, cây có khả năng mọc chồi từ gốc mạnh mẽ, cho thấy sự tái sinh và sức sống cao.

Hình ảnh cây sữa
Hình ảnh cây sữa

Đặc điểm thực vật

Cây này đạt độ cao từ 10 đến 20 mét, có vỏ cây dày và nứt nẻ với màu sắc pha trộn giữa vàng và xám. Cành và lá cây sữa xuất hiện theo vòng, với 5 đến 8 lá mỗi vòng, lá dày có hình dáng giống lưỡi mác hoặc hơi thuôn, kích thước từ 8 đến 15 cm chiều dài và 2.5 đến 4.5 cm chiều rộng. Đỉnh lá tròn, thường xuyên mọc tập trung ở đầu các cành. Phía trên lá có màu xanh đậm và bóng, trong khi phía dưới màu xám nhạt và có màu hơi đỏ ở phần gân lá. Lá có viền hơi cong và đặc trưng bởi nhiều gân phụ song song. Khi bị bẻ, lá tiết ra nhựa mủ trắng đặc trưng.

Hoa sữa tập trung thành từng cụm xim tròn ở ngọn cành, mang màu sắc từ trắng lục đến vàng nhạt và phát ra mùi thơm nồng nàn, đặc biệt vào ban đêm. Cấu trúc hoa bao gồm đài hình chén với 5 răng nhỏ, cánh hoa hình ống nở rộng ở phần đáy và miệng, mỗi hoa có 5 cánh được phủ lông ở phần họng. Có 5 nhị mọc từ đỉnh ống hoa, và bầu hoa chia thành hai phần, mỗi phần đều phủ lông ở đỉnh.

Quả hoa sữa thường mọc thành cặp, mỗi quả dài từ 15 đến 25 cm, mảnh và có thể hơi xoắn. Quả chứa nhiều hạt màu nâu, dẹt, với một bó lông màu sẫm ở hai đầu, giúp cho việc phát tán hạt.

Hoa sữa nở vào mùa nào? Mùa hoa sữa diễn ra vào các tháng 9 và 10, trong khi mùa quả kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3.

Đặc điểm thực vật cây sữa
Đặc điểm thực vật cây sữa

Bộ phận dùng – Thu hái – Chế biến

Vỏ thân cây sữa được thu hái vào mùa xuân – hè, sau đó cạo bỏ lớp bần rồi phơi hay sấy khô.

Hoa cây sữa
Hoa cây sữa

Thành phần hóa học

Trong cây sữa, có sự hiện diện phong phú của các alkaloid dựa trên cấu trúc indole. Đặc biệt, vỏ của rễ và thân cây đậm đặc với các hợp chất như ditamin, echitamin và một loạt các alkaloid khác như echitamidin và akuamicin, bao gồm cả dạng oxy hóa của akuamicin và các biến thể khác như B-akuamigin. Các hợp chất khác như tubotaiwin và echicerin cũng góp mặt trong thành phần hóa học của vỏ.

Các phần khác của cây như thân và lá cũng chứa một loạt các chất hóa học quan trọng như ditamin và porphyrin rhazin, cùng với các alkaloid đặc trưng khác. Cụ thể, lá cây sữa từ Philippin có chứa các hợp chất đặc biệt như lagunamin và các acid như angustilobin B, bên cạnh losbanin và các dẫn xuất của angustilobin.

Ở các địa điểm khác như Đài Loan, Thái Lan và Indonesia, lá cây sữa chứa các hợp chất như 19-epischolaricin và N’-methylscholaricin, cùng với các hợp chất khác như Na-methylburnamin và dạng oxy hóa của valesamin. Lá cũng giàu các alkaloid như alschonin và picrarinal, cùng với một loạt các hợp chất khác.

Theo nghiên cứu của Kam Toh Seok và đồng nghiệp vào năm 1997, lá cây còn chứa narelin Et ether và 5-epi-narelin Et ether, cũng như scholarin-N(4)-oxyd và picrinin.

Hoa của cây sữa không chỉ mang lại vẻ đẹp tự nhiên mà còn chứa tinh dầu với các thành phần như caren-3 và geraniol, terpinolen, cùng với echitin và lupeol acetat.

Tác dụng dược lý

Cây sữa có tác dụng gì? Một chiết xuất lỏng từ phần vỏ, lá, và cành của cây sữa, khi áp dụng với liều 4g/kg qua đường tiêu hóa, đã thể hiện khả năng giảm sốt nhẹ trên thỏ được làm sốt nhân tạo bằng vaccine thương hàn.

Bên cạnh đó, trong các thí nghiệm trên thỏ với cách đánh giá qua lượng phenol được tiết ra qua đường hô hấp, chiết xuất này còn có hiệu quả trong việc giảm đờm đáng kể.

Đối với chuột lang có triệu chứng co thắt khí quản do acetylcholin, chiết xuất lỏng này cũng giúp thư giãn cơ trơn hiệu quả.

Chiết xuất thô từ vỏ cây cũng được ghi nhận có khả năng hạ huyết áp và chống lại sự phát triển của các tế bào ung thư.

Hoạt chất echitamin, được chiết xuất từ cây sữa, gây ra tình trạng liệt cơ tương tự như tác dụng của cura trên các mô cơ vân trong các thí nghiệm động vật, và khi được sử dụng với liều cao, nó cũng giúp giảm huyết áp.

Về mặt độc tính, echitamin khiến cho chuột nhắt trắng trong thí nghiệm bị ngộ độc với liều lượng từ 0.3-0.5 mg/20g trọng lượng cơ thể. Ở mèo, chó, và khỉ thí nghiệm, hoạt chất này làm giảm huyết áp, một hiện tượng không bị ảnh hưởng bởi atropin và sau đó là tình trạng tăng huyết áp.

Echitamin 1% không ảnh hưởng đến hoạt động của amip khi tiếp xúc trong 2 giờ.

Đối với bệnh sốt rét, echitamin với liều 5 mg chỉ có tác dụng yếu trên chim. Tổng hợp alkaloid và chiết xuất cồn từ vỏ cây sữa không hiệu quả hoặc chỉ rất yếu trong việc chống lại sốt rét ở khỉ hoặc người, không tạo hiệu ứng phối hợp với quinin. Tuy nhiên, echitamin clorid lại có khả năng chống sốt rét trên các động vật gặm nhấm nhiễm Plasmodium berghei.

Khả năng điều trị sốt rét của vỏ cây sữa trong thử nghiệm lâm sàng cũng đã được ghi nhận, cũng như khám phá ra một hoạt chất trong vỏ giúp giảm glucose trong máu.

Chiết xuất methanol từ vỏ rễ cây sữa đã được nghiên cứu về tác dụng độc hại tế bào đối với hai dòng tế bào ung thư phổi người, MOR-P và COR-L23, và đã thể hiện tác dụng độc hại tế bào nhẹ sau 24 giờ, với nồng độ ức chế thấp nhất lần lượt là 348,7 và 328,9 µg/ml.

Tính vị – Quy kinh

Vỏ cây sữa có vị đắng và có tính mát, ít độc.

Công năng – Chủ trị

Tác dụng của cây sữa: Vỏ cây sữa được biết đến với các công dụng như làm mát cơ thể, giảm độc tố, giảm sưng, giảm đau, ổn định hô hấp, chỉ khát, triết ngược, hỗ trợ tiêu hóa và kích thích tiết mồ hôi. Cũng được sử dụng để kiểm soát chảy máu khi áp dụng bên ngoài.

Cây sữa chữa bệnh gì? Thường được dùng như một loại thuốc giúp tăng cường sức khỏe, điều trị sốt cao, bệnh lỵ, tiêu chảy, rối loạn kinh nguyệt, tình trạng thiếu máu, viêm khớp và các vấn đề về da như nổi mẩn ngứa. Liều lượng khuyến cáo hàng ngày là từ 1 đến 3 gram dưới dạng bột, nước sắc, chiết xuất lỏng, hoặc tinh chất ngâm trong rượu.

Tại Trung Quốc, vỏ và lá cây sữa được sử dụng để điều trị ho gà, viêm phế quản mãn tính, khó thở, cảm cúm, sốt rét, viêm amidan, viêm gan cấp, các cơn đau do viêm khớp, chấn thương do té ngã, và mụn nhọt. Liều lượng sử dụng hàng ngày là 1 đến 3 gram dưới các hình thức bột, nước sắc, hoặc cao rượu. Một phương pháp khác là ngâm 20 gram vỏ cây trong 100 ml rượu 40 độ trong 15 ngày để sau đó sử dụng như một loại thuốc bổ, hỗ trợ tiêu hóa, tăng cường sức khỏe cho dạ dày và điều trị suy nhược.

Ở Ấn Độ, vỏ cây sữa được coi như một loại thuốc bổ có vị đắng, giảm sốt, dùng để chữa lỵ, tiêu chảy, sốt rét và vết cắn của rắn. Nước ép từ cây được dùng để chữa trị vết loét. Một phương pháp phổ biến khác là ngâm vỏ cây nhỏ (75g) trong rượu 35-40 độ (500 ml) trong 7 ngày, uống 4 – 8 ml trước bữa ăn. Vỏ cây cũng là một phần của nhiều bài thuốc truyền thống Ấn Độ chữa sốt rét và các bệnh liên quan đến tiêu hóa.

Tại Nepal, bột vỏ cây sữa kết hợp với bột ngũ cốc được dùng như thức ăn cho gia súc. Phụ nữ sau sinh dùng dịch vắt từ vỏ thân cây sữa để ngăn chặn tiêu chảy. Nhựa mủ từ cây sữa cũng được dùng như một phương pháp kích thích tiết sữa.

Ở Thái Lan, vỏ cây được dùng để điều trị lỵ, cảm sốt và viêm phế quản, cho thấy tính linh hoạt và sự phong phú trong ứng dụng của cây sữa trong y học truyền thống khắp khu vực châu Á.

Bảo quản

Bảo quản dược liệu cây sữa ở nơi khô ráo và thoáng mát.

Một số bài thuốc

Thuốc bổ máu

Một hỗn hợp bao gồm vỏ cây sữa 5g, hà thủ ô đỏ 5g, và mã tiền thảo 0,20g, được ngâm trong 500 ml rượu. Khuyến cáo là uống hai lần mỗi ngày, một chén nhỏ trước bữa ăn.

Chữa đau răng

Dùng nước sắc từ vỏ cây sữa, ngậm nhiều lần trong ngày để giảm đau.

Chữa hen suyễn, viêm phế quản mạn tính

Phối hợp vỏ cây sữa, quảng địa long, vỏ qua lâu, mỗi loại 3g, và tử uyển 2g. Nghiền nhỏ thành bột, sau đó nén thành viên để uống hai lần mỗi ngày, giúp làm giảm triệu chứng bệnh.

Tài liệu tham khảo

  1. Đỗ Huy Bích (2006), Cây sữa, Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tập 2, trang 762.
  2. Đỗ Tất Lợi (2006), Cây sữa, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội, trang 853.
  3. Phạm Hoàng Hộ (1999), Cây sữa, Cây cỏ Việt Nam, NXB Trẻ, Hà Nội, tập 2, trang 691.
Không tìm thấy sản phẩm nào khớp với lựa chọn của bạn.